Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiếp cận bài độc tiểu thanh kí của nguyễn du theo hướng phát huy năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.05 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
1. Mở đầu...........................................................................................................2
1.1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu..................................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...................................................................5
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm....................................................5
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm....................6
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..........................................7
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.................................................14
3. Kết luận và kiến nghị...................................................................................15
Tài liệu tham khảo...........................................................................................17

1


1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Ngày nay, cùng với sự đổi mới giáo dục, việc đổi mới phương pháp dạy
học Văn cũng đang được nhiều thầy cô quan tâm. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều
giáo viên chủ yếu vẫn dùng phương pháp thuyết trình làm cho những giờ học
Văn trở nên cứng nhắc, nhàm chán, học sinh rơi vào tình trạng tiếp thu kiến thức
một cách thụ động. Vì vậy, các em không hiểu bài và ngày càng không còn hứng
thú với môn Văn nữa.
Năm 2017- một năm đất nước đang có nhiều đổi mới và ngành giáo dục
cũng đã có những đổi mới để đáp ứng nhu cầu của đất nước. Mục tiêu của giáo
dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng


tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cũng từ đó, Luật
giáo dục công bố năm 2005, Điều 28.2 có ghi: “Phương pháp dạy học phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việcc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. “Đổi mới
giáo dục đòi hỏi nhà trường không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức đã
có của nhân loại mà còn phải bồi dưỡng, hình thành ở học sinh tính năng động,
óc tư duy, sáng tạo và kĩ năng thực hành áp dụng, tức là đào tạo những người
lao động không chỉ có kiến thức mà còn phải có năng lực hành động, kĩ năng
thực hành” [3].Vì vậy, đến với mỗi bài học, việc lựa chọn phương pháp tiếp cận
như thế nào để phát huy được năng lực và tạo được hứng thú cho học sinh là
một việc rất quan trọng.
Đến với bài “Độc Tiểu Thanh kí” (Đọc Tiểu Thanh Kí) của Nguyễn Du
được giảng dạy ở chương trình Ngữ văn 10- tập 1- Ban cơ bản, tôi cũng đã có
nhiều băn khoăn, trăn trở. Bởi đây là tác phẩm hay của đại thi hào Nguyễn Du
và cũng là của nền văn học trung đại Việt Nam. Nhưng thực tế, từ những năm
trước khi dạy xong bài này, kiểm tra lại thì đa số học sinh hiểu bài lơ mơ và tỏ ra
không thích tác phẩm. Cũng đã có khá nhiều tài liệu tham khảo về tác phẩm
nhưng để tìm ra một cách khai thác hợp lí để các em dễ hiểu cũng rất khó.
Đoạn “Phương pháp….kĩ năng thực hành” được trích từ TLTK số [3]: Một số phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực- NXB Đại học sư phạm.

2


Sau khi tìm hiểu những nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan, tôi
tìm đến một hướng khai thác tác phẩm bám sát theo đặc trưng thể loại (tác phẩm
trữ tình) nhưng có “lạ hóa”, từ đó phát huy được tính tích cực của học sinh và

truyền cảm hứng văn chương cho các em. Cách khai thác này gây ấn tượng
mạnh cho học sinh ngay từ việc đặt tiêu đề các mục để từ đó kích thích trí tò mò
của học sinh, lôi cuốn các em vào quá trình khám phá giá trị tác phẩm. Đồng
thời, thiết kế bài học chủ yếu dựa vào hoạt động của học sinh nên tạo điều kiện
cho các em phát huy được năng lực của bản thân, trong đó quan trọng là năng
lực giao tiếp và năng lực cảm thụ văn chương.
Sau những lần giảng dạy thực nghiệm trên lớp, tôi đã thấy rõ sự thay đổi
trong cách nhìn nhận, cách hiểu của học sinh về tác phẩm. Vì vậy tôi quyết định
viết sáng kiến kinh nghiệm: “Tiếp cận bài “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn
Du theo hướng phát huy năng lực học sinh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Khi viết sáng kiến kinh nghiệm này tôi muốn đóng góp một phần kinh
nghiệm nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới giáo dục của đất nước. Với việc
tìm ra một phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh và bài dạy, sáng kiến
kinh nghiệm này hướng tới mục đích giúp học sinh hiểu bài và ghi nhớ bài hiệu
quả nhất. Từ đó, phát huy năng lực và khơi niềm đam mê của các em đối với tác
phẩm văn học.
Đồng thời, với việc viết sáng kiến này, tôi muốn có được cơ hội để tham
khảo ý kiến đóng góp của đồng nghiệp về phương pháp dạy của bản thân để
ngày càng vững vàng hơn trong sự nghiệp “trồng người” của mình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là bài “Độc Tiểu Thanh kí” (Đọc
Tiểu Thanh kí) của Nguyễn Du- Sách giáo khoa Ngữ văn 10- tập 1- Ban cơ bản.
Cùng với đó là đặc điểm tâm lí và trình độ nhận thức của học sinh 10B9 trường
THPT Yên Định 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được kết quả nghiên cứu, tôi vận dụng tổng hợp các phương pháp:
a, Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
Trước hết tôi nghiên cứu kĩ bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí”. Đồng thời, tìm
đọc thêm một số tài liệu khác viết về tác giả Nguyễn Du và về bài thơ. Cùng với

đó tôi cũng nghiên cứu đặc điểm tâm lí và trình độ nhận thức của học sinh lớp
10B9 trường THPT Yên Định 2 để lựa chọn hướng khai thác phù hợp. Cuối
cùng, tôi lựa chọn cách khai thác tác phẩm từ đặc trưng thể loại kết hợp với
phương pháp “lạ hóa” để tăng niềm cảm hứng và phát huy năng lực cho các em.
3


b, Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế và thu thập thông tin:
Trước khi thực hiện giờ dạy, tôi sẽ làm phiếu thăm dò thái độ của các em
về bài thơ nói riêng và những tác phẩm viết bằng chữ Hán nói chung. Sau khi
tiến hành dạy thực nghiệm trên lớp, tôi tiến hành kiểm tra 45 phút ở cả lớp thực
nghiệm và lớp đối chứng.
c, Phương pháp thống kê, xử lí số liệu:
Khi đã có kết quả điều tra, tôi thống kê, phân loại để nhận biết được thực
trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, cũng như hiệu quả của
sáng kiến kinh nghiệm. Từ đó, rút kinh nghiệm để triển khai đề tài này.

4


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020 ban hành kèm
theo quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của thủ tướng chính phủ chỉ rõ:
“Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện
theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự
học của người học”. Trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới, giáo
sư Nguyễn Minh Thuyết cũng nhấn mạnh: “Chương trình được xây dựng theo
định hướng phát triển phẩm chất và năng lực, tạo môi trường học tập và rèn
luyện giúp người học tích lũy được kiến thức phổ thông vững chắc”. Các năng

lực được đặt ra cho người học ở chương trình mới gồm: tự chủ và tự học, giao
tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo. Như vậy, chương trình giáo dục
phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận
nội dung sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc
học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua
việc học. Để đảm bảo điều đó, nhất định người giáo phải chuyển từ phương
pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng
kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất.
“Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ
chức kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân…nhằm
đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất
định. Nói một cách dễ hiểu, năng lực là khả năng làm chủ và vận dụng hợp lí
các kiến thức, kinh nghiệm, thái độ một cách có hứng thú để hành động một
cách có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống”[4]. Như vậy,
phương pháp dạy học theo hướng phát huy năng lực của người học không chỉ
chú ý đến phát triển trí tuệ cho học sinh mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải
quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống, đồng thời gắn hoạt động
trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn.
Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực có nghĩa là thông qua bộ
môn, học sinh có khả năng vận dụng một cách linh hoạt kiến thức, kĩ năng với
thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân…nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu
phức hợp của hoạt động của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định. Trong
định hướng phát triển chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015, môn Văn
được coi là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiếp Tiếng Việt và năng lực
Đoạn “Năng lực…của cuộc sống” được trích từ TLTK số [4]: Chuyên đề “Dạy học theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh”.

5



thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mĩ là năng lực mang tính đặc thù của môn
học; ngoài ra năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp
tác, năng lực tự quản bản thân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định
nội dung dạy học của môn học [4].
Để phát triển năng lực của học sinh trong giờ dạy Văn, cần đổi mới mạnh
mẽ việc thiết kế bài học từ phía giáo viên. Trong thiết kế, giáo viên phải cho
thấy rõ các hoạt động của học sinh chiếm vị trí chủ yếu. Với giáo viên, phương
pháp thuyết trình nên giảm thiểu tới mức tối đa, thay vào đó là tổ chức hoạt
động cho học sinh bằng việc nêu vấn đề, đề xuất các tình huống, dự án. Học sinh
có thể được hướng dẫn hoạt động cá nhân hoặc nhóm để hoàn thành các câu hỏi,
bài tập, bài thực hành…Hoạt động cá nhân để học sinh hiểu và biết được mình
hiểu kiến thức như thế nào, có góp gì vào hoạt động nhóm và xây dựng các hoạt
động của tập thể lớp. Hoạt động nhóm để trao đổi, sẻ chia kết quả mình làm
được, thông qua đó, học sinh có thể học tập lẫn nhau, tự sửa lỗi cho nhau, giúp
cho quá trình học tập của học sinh hiệu quả hơn. Kết thúc các hoạt động này học
sinh sẽ trao đổi với giáo viên để được bổ sung, uốn nắn những vấn đề chưa
đúng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trong chương trình Ngữ văn 10, phần văn học trung đại Việt Nam, bài thơ
“Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du là một bài thơ hay nhưng cũng là một bài
thơ khó đối với người học. Qua tìm hiểu thực tế từ những năm học trước, tôi
thấy rằng đa số các em đều ngại học tác phẩm này vì cho rằng nó quá khó hiểu.
Chính vì vậy, kiến thức các em nắm về tác phẩm cũng rất mơ hồ, và khi làm bài
thì kết quả thường thấp.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng học sinh không thích học bài thơ “Độc
Tiểu Thanh kí” là vì:
Về phía khách quan: đây là bài thơ viết bằng chữ Hán, mà vốn hiểu biết
về chữ Hán của học sinh rất ít nên các em khó tiếp cận văn bản gốc, chủ yếu
nắm nội dung tác phẩm qua phần dịch nghĩa và dịch thơ. Mặt khác, tác phẩm ra
đời từ thế kỉ XVIII, khi nền văn hóa hiện đại ngày càng xa quá khứ thì các em

càng khó hiểu tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của thế hệ cha ông.
Về phía chủ quan từ giáo viên và học sinh: Giáo viên còn chưa chịu đổi
mới phương pháp, chưa chịu tìm tòi các hướng khai thác phù hợp cho học sinh
dễ tiếp thu. Qua việc đọc một số tài liệu tham khảo mẫu cùng với việc dự giờ
Đoạn “Dạy học Ngữ văn…của môn học” được trích từ TLTK số [4]: Chuyên đề “Dạy học theo
định hướng phát triển năng lực của học sinh”.

6


thăm lớp của một số đồng nghiệp, tôi thấy đa số dùng phương pháp thuyết trình
và phân tích tác phẩm theo bốn phần: Đề- Thực- Luận- Kết. Cách chia như vậy
không sai nhưng sẽ làm cho bài dạy khô khan, thiếu chất văn và làm giảm sự
hứng thú cho học sinh. Mặt khác, học sinh cũng còn lười học, ngại tư duy,
không mấy hứng thú với môn Văn.
Trước khi tiến hành dạy thực nghiệm tại lớp 10B9 trường THPT Yên
Định 2, tôi có làm phiếu thăm dò suy nghĩ của các em về tác giả Nguyễn Du và
về bài thơ. Với số học sinh tham gia là 42 em, kết quả như sau:
Câu 1: Kể tên những tác phẩm của Nguyễn Du mà em biết.
Tên tác phẩm
Biết
Không biết
SL
%
SL
%
1. Truyện Kiều
42
100
0

0
2.Văn chiêu hồn
17
40,1
25
59,9
3. Độc Tiểu Thanh kí
14
33, 3
28
66,7
4. Phản chiêu hồn
11
26,2
31
73,8
Câu 2: Em có thích học các bài thơ chữ Hán không?
Mức độ
Không thích
Thích
Số lượng
38
04
Tỉ lệ
90,5%
9,5%
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc và tên tuổi của ông gắn liền với
“Truyện Kiều”- kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Nhưng việc học và hiểu
được giá trị của bài “Độc Tiểu Thanh kí” sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn tài năng
và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà thơ, hiểu rõ hơn về một triết lí mà Nguyễn

Du từng viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cùng là lời chung.
Vì vậy, nếu bản thân người giáo viên không có một hướng khai thác hợp lí
để truyền được sự đam mê, khao khát khám phá tác phẩm thì “Độc Tiểu Thanh
kí” sẽ mãi là nỗi sợ cho học sinh các thế hệ.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
a. Chuẩn bị:
Muốn có một giờ dạy học thành công thì cả giáo viên và học sinh phải có
sự chuẩn bị thật tốt cho bài học.
a.1. Chuẩn bị của giáo viên
- Địa điểm: Trường THPT Yên Định 2.
- Đối tượng thực nghiệm: học sinh lớp 10B9
- Thời gian thực nghiệm: 45 phút (một tiết học).
7


- Đọc kĩ tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” trong sách giáo khoa Ngữ văn 10.
Đọc thêm các tài liệu tham khảo về bài thơ.
- Tiến hành thiết kế giáo án.
a.2. Chuẩn bị của học sinh:
- Đọc kĩ tác phẩm trong sách giáo khoa Ngữ văn 10.
- Soạn bài theo hệ thống câu hỏi ở phần hướng dẫn học bài.
b. Tổ chức thực hiện:
* Ổn định tổ chức.
* Kiểm tra bài cũ:
Em hãy đọc một số câu thơ viết về số phận của những người phụ nữ trong
xã hội phong kiến xưa.
Dự kiến học sinh trả lời:
1. Truyện Kiều:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
2. Cung oán ngâm khúc:
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng
Đêm năm canh trông ngóng lần lần
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi cho hoa rữa thúy dần lại thôi.
3. Chinh phụ ngâm:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.
….
* Bài mới:
Vào bài
Nỗi xót thương, đồng cảm với thân phận bất hạnh của người phụ nữ là
một tình cảm rất đỗi nhân văn trong văn học dân gian được tiếp tục khơi nguồn
trong văn học trung đại, trong đó, Nguyễn Du là một đại diện. Viết “Truyện
Kiều”, Nguyễn Du nói lên mối đồng cảm sâu xa đối với những người phụ nữ
hồng nhan đa truân, tài hoa bạc mệnh. Chủ đề này còn được trở đi trở lại trong
tác phẩm chữ Hán của ông, mà tiêu biểu là bài “Độc Tiểu Thanh kí” (Đọc Tiểu
Thanh kí) hôm nay chúng ta học.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Hoạt động 1- Tìm hiểu chung
I.
Tìm hiểu chung
Hs đọc tiểu dẫn SGK
1. Vài nét về nàng Tiểu Thanh:
8



GV hỏi: Đọc tiểu dẫn, chúng ta - Là người tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu
biết gì về nàng Tiểu Thanh?
thời Minh, làm vợ lẽ một thương gia họ
HS phát hiện, trả lời
Phùng, nhưng vợ cả ghen bắt nàng lên ở
một ngôi nhà trên núi Cô Sơn (cạnh Tây
Hồ- một thắng cảnh đẹp ở Trung Quốc).
Buồn khổ, nàng chết lúc mới 18 tuổi.
- Nàng để lại một tập thơ nhưng bị vợ cả
đem đốt, chỉ còn lại một số bài (phần dư
cảo).
GV hướng dẫn HS đọc cả ba phần 2. Bài thơ:
(phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ)
- Hoàn cảnh sáng tác: có 2 ý kiến
+ Viết khi đi sứ ở Trung Quốc.
GV yêu cầu HS xác định: hoàn + Viết khi chưa đi sứ Trung Quốc.
cảnh sáng tác, thể loại, bố cục, →Dựa vào câu thứ 2 trong bài: Đọc phần
chủ đề của tác phẩm.
dư cảo của Tiểu Thanh, Nguyễn Du trào lên
nỗi xót thương, đồng cảm với thân phận bất
GV giải nghĩa từ khó (dựa vào hạnh của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nên
chú thích tr.132- SGK)
viết nên bài thơ này.
- Thể loại: thất ngôn bát cú Đường luật chữ
Hán.
- Bố cục: 4 phần (Đề- Thực- Luận- Kết)
- Chủ đề: Bài thơ thể hiện niềm xót thương
da diết đối với nàng Tiểu Thanh, với kiếp

người tài hoa bạc mệnh và cho chính bản
Hoạt động 2- Đọc- hiểu
thân mình của tác giả.
GV phân nhóm cho HS hoạt động
II.
Đọc- hiểu:
trong thời gian 5- 7 phút:
1. Nỗi đồng cảm trước kiếp đời tài sắc
- Nhóm 1: Tìm hiểu câu 1, 2
(Bốn câu đầu)
- Nhóm 2: Tìm hiểu câu 3, 4
a. Bể dâu- khóc viếng (Câu 1,2)
- Nhóm 3: Tìm hiểu câu 5, 6
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
- Nhóm 4: Tìm hiểu câu 7, 8
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Sau đó, đại diện nhóm trình bày, - Vườn hoa Tây Hồ (vốn là cảnh đẹp):
HS khác bổ sung
+ Gò hoang (nơi trơ trụi, hoang vắng, đìu
GV củng cố
hiu) →hoang tàn, hoang phế.
Phần câu hỏi gợi mở cho mỗi + Gợi nhớ đến Tiểu Thanh- người con gái
nhóm:
đã từng sống ở Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Cuộc
Nhóm 1: Bài thơ được mở ra đời nàng cũng bị hủy hoại, chỉ còn vài bài
bằng hình ảnh gì? Hình ảnh đó thơ sót lại.
gợi cho chúng ta biết gì về cảm - Giọng thơ: xót xa, nuối tiếc
xúc của tác giả?
- Tâm trạng nhà thơ:
HS thảo luận, trả lời

+ Nuối tiếc cảnh Tây Hồ, nhưng cũng là để
GV bình thêm: Cảm xúc trước bày tỏ sự xót xa, nuối tiếc cho Tiểu Thanh.
biến đổi của xã hội thường ám + Viếng nàng qua tập sách→đồng cảm.
ảnh thơ văn thời kì Nguyễn Du.
9


Nguyễn Gia Thiều từng than thở
trước cảnh “bãi bể nương dâu”
trong “Cung oán ngâm khúc”, Bà
Huyện Thanh Quan thì ngậm ngùi
trước “nền cũ lâu đài bóng tịch
dương” (Thăng Long thành hoài
cổ). Chính Nguyễn Du cũng từng
giật mình khi trải qua “một cuộc
bể dâu” (Truyện Kiều). Vì vậy,
câu thơ ở đây, Nguyễn Du đâu chỉ
khóc cho một cảnh Tây Hồ cụ thể
mà còn khóc cho cuộc đời chung
luôn biến đổi, lụi tàn.
Nhóm 2:
- Đọc hai câu 3, 4 giúp em hình
dung gì về cuộc đời của nàng
Tiểu Thanh?
- Em hãy xác định giọng điệu của
hai câu 3, 4. Từ đó cho biết thái
độ của tác giả?
HS thảo luận, trả lời

Nhóm 3:

- Em hiểu “cổ kim hận sự” ở đây

b. Sắc đẹp- văn chương (Câu 3,4)
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
- “Chi phấn” (son phấn): sắc đẹp→Hình
ảnh ẩn dụ cho Tiểu Thanh- người phụ nữ có
nhan sắc. Tiểu Thanh có linh thiêng chắc
cũng phải xót xa vì chết vẫn chưa yên, đến
tập thơ còn lại cũng bị đốt dở.
- “Văn chương”: tài năng, trí tuệ của Tiểu
Thanh →Văn chương không có số mệnh,
không có tội tình gì cũng bị đốt dở. Tài hoa,
trí tuệ của Tiểu Thanh cũng bị hủy diệt đến
cùng.
=>Hình ảnh Tiểu Thanh: một người có tài
năng, có nhan sắc, nhưng lại chịu số phận
cay nghiệt (cái sắc bị chôn, cái tài bị đốt).
- Giọng thơ: vừa xót xa vừa bất bình, oán
trách
- Thái độ tác giả:
+ Tiếc thương cho Tiểu Thanh- người tài
hoa bạc mệnh.
+ Bất bình oán trách những người đã gây ra
bất hạnh cho Tiểu Thanh, mà trực tiếp là
người vợ cả.
+ Bất bình, oán trách với xã hội mà ở đó tài
năng con người không được nảy nở, nhan
sắc con người không được trân trọng.
2. Niềm đau thương không tìm thấy tri âm

(Bốn câu sau)
a. Hờn đau mang án (Câu 5,6)
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
10


là gì? Vì sao lại “thiên nan vấn”
(khó hỏi trời)? Em có biết có
những tác phẩm nào của Nguyễn
Du cũng thể hiện sự thương cảm
của nhà thơ đối với thân phận “tài
hoa bạc mệnh” không?
HS thảo luận, liên hệ và trả lời
Phần mở rộng: Câu thơ như gợi ra
dòng nước mắt của Nguyễn Du
chảy từ nàng Tiểu Thanh sang
thân phận nàng Kiều, Đạm Tiên,
nối tới những đắng cay của người
ca nữ đất La Thành, người gảy
đàn đất Long Thành, hội tụ thành
bể đau nhức nhối trong trái tim
nhân đạo của người nghệ sĩ.

Phong vận kì oan ngã tự cư.
- “Cổ kim hận sự”- mối hận từ xưa đến nay:
hễ người có tài sắc lại bị chà đạp, vùi dập
+ xưa: Tiểu Thanh
+ nay: những người như Tiểu Thanh
→chuyện của Tiểu Thanh đã thành chuyện
muôn đời, chuyện muôn đời dồn lại trong

câu chuyện của Tiểu Thanh nên cái hận
thành ghê gớm, khiến cho câu thơ thành
dồn nén: chuyện xưa và chuyện nay.
- “thiên nan vấn”: khó hỏi trời vì đó là một
thực tế, đã thành quy luật và chưa có lời
giải đáp về sự vô lí đó.
→Giọng oán trách, bất bình khi nhà thơ ý
thức về sự chà đạp tài năng và nhan sắc
đang tồn tại trong xã hội phong kiến.

- Sau khi suy nghĩ về cuộc đời,
số phận của Tiểu Thanh, vì sao
Nguyễn Du lại tự coi mình là
người cùng hội với nàng? Qua đó,
em hiểu gì về tấm lòng của nhà
thơ?
HS suy nghĩ, trả lời.

- Nguyễn Du tự coi mình là người cùng hội
với nàng Tiểu Thanh (“kẻ mắc nỗi oan lạ
lùng vì nết phong nhã”). Qua đó, thể hiện
sự đồng cảm sâu sắc (bởi nhà thơ cũng là
người có tài năng văn chương nhưng cuộc
đời lại long đong, lận đận).
- Đồng cảm sâu sắc với Tiểu Thanh, nhà thơ
bày tỏ sự chia sẻ, cảm thông và trân trọng
đối với những người tài hoa trong xã hội.
→ Cái nhìn nhân văn sâu sắc.
b. Cô độc Tố Như (Câu 7,8)
Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
- “tam bách dư niên hậu” (hơn ba trăm năm
sau): là con số ước lệ, chỉ khoảng thời gian
dài
→Câu thơ thể hiện sự trăn trở của tác giả:
không biết người đời sau có ai “khóc” cho
mình không? “Khóc” ở đây là sự đồng cảm,
sẻ chia, tri âm. Nhà thơ mong người đời sau
sẽ đồng cảm và sẻ chia với mình.
- Câu thơ mang nỗi cô đơn lạnh buốt, nỗi
bơ bơ của tác giả trong sự thèm khát tri âm
tri kỉ. Bởi trong hiện tại, nhà thơ chưa tìm
thấy người đồng cảm, chỉ biết gửi niềm hi
vọng ấy vào hậu thế.
→Liên hệ: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du

Nhóm 4: Từ sự thương người, ý
thơ trong hai câu kết đột ngột
chuyển sang thương mình. Đột
ngột mà vẫn hợp lí bởi cả Tiểu
Thanh và Nguyễn Du cùng tài
hoa bạc mệnh. Vậy em hiểu gì về
con số “hơn ba trăm năm” ở đây?
Qua đó, em đọc được gì trong tâm
sự của thi nhân trong hai câu
cuối?
HS thảo luận, trả lời

11



từng trăn trở: “chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét nhau”, “chữ tài liền với chữ tai một
vần” thì ở đây ta cũng thấy rõ xã hội phong
kiến thối nát thù hận, đối nghịch với tài
năng, phẩm giá con người. Có lẽ vì vậy, đại
thi hào mới cảm thấy cô đơn, bơ vơ trong
xã hội ấy.
GV đặt vấn đề chung cho cả lớp:
Hôm nay, sau khi học xong bài
“Độc Tiểu Thanh kí”, nếu được
trả lời cho câu hỏi cuối bài thơ,
em sẽ nói gì với Nguyễn Du?
HS phát biểu

Hoạt động 3- Tổng kết
GV hướng dẫn HS khái quát về
giá trị nội dung và nghệ thuật của
bài thơ.
HS khái quát và đọc phần ghi nhớ
(SGK)

Hoạt động 4- Luyện tập
GV hướng dẫn HS hoàn thành bài
tập trong SGK/ Tr.134

GV giao bài tập về nhà cho học
sinh.

→Không cần đợi ba trăm năm, nhân kỉ

niệm hai trăm năm ngày sinh của Nguyễn
Du, Tố Hữu đã viết bài “Kính gửi cụ
Nguyễn Du” thể hiện sự đồng cảm sâu sắc
và sự trân trọng tài năng thơ Nguyễn Du:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
III. Tổng kết
1. Bài thơ không chỉ là niềm cảm thông
của tác giả đối với số phận nàng Tiểu Thanh
và những người tài hoa bạc mệnh, mà còn
tâm sự sâu kín của nhà thơ. Qua đó, ta thấy
Nguyễn Du là người nghệ sĩ có trái tim
nhân đạo, giàu tình thương yêu, trân trọng
tài năng và vẻ đẹp con người.
2. Ngôn ngữ thơ cô đọng, đa nghĩa, giàu
hình ảnh, có giá trị biểu cảm.
IV. Luyện tập
Bài tập 1: Gợi ý
- Trong tiết thanh minh, đứng trước nấm mồ
Đạm Tiên mịt mờ sương khói, Thúy Kiều
ngậm ngùi, băn khoăn:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
- Đó là nỗi niềm chính của Nguyễn Du với
nàng Tiểu Thanh khi ông đọc tập truyện kí
viết về cuộc đời bất hạnh của nàng, được

thể hiện trong bài “Độc Tiểu Thanh kí”.
Bài tập 2 (Về nhà):
Trong bài “Độc Tiểu Thanh kí”, Nguyễn
Du đã xót thương Tiểu Thanh giống như xót
12


thương nàng Kiều trong “Truyện Kiều”.
Hãy giải thích vì sao nhà thơ đặc biệt quan
tâm tới những người phụ nữ tài hoa bạc
mệnh?
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, với đồng nghiệp và nhà trường:
- Đối với học sinh: Việc sử dụng khai thác bài học theo hướng phát huy
năng lực của học sinh giúp giờ học trở nên sôi nổi, học sinh hứng thú và tích cực
xây dựng bài hơn. Dù bài học là một bài thơ chữ Hán nhưng không khô khan,
đơn điệu, nhàm chán. Học sinh hiểu bài nhanh hơn và quan trọng cảm nhận
được một giờ dạy đúng “chất văn”.
Sau buổi dạy, tôi có làm phiếu thăm dò suy nghĩ, thái độ của các em học
sinh lớp 10B9 về giờ học (trên cơ sở đối chứng với lớp 10B7 khai thác bài học
theo cách cũ). Với số học sinh tham gia là 42em/ lớp, kết quả như sau:
Câu hỏi: Cảm nhận chung của em về giờ học là:
STT
Các mức độ
10B9
10B7
(Lớp thực nghiệm)
(Lớp đối chứng)
a
Rất thú vị

30
12
b
Bình thường
12
19
c
Chán ngán
0
11
Sau khi kiểm tra 45 phút với đề bài “Tâm sự của Nguyễn Du trong bài
Độc Tiểu Thanh kí”, tôi thu được kết quả như sau:
TT Lớp Sĩ
Điểm
số
9- 10
7- 8
5- 6
3- 4
TB trở lên
SL % SL % SL % SL %
SL
%
1 10B9 42
3 7,1 19 45,3 20 47,6 0
0
42 100
2 10B7 43
0
0

14 32,6 18 41,9 11 25,5 32 74,5
- Đối với bản thân: sáng kiến kinh nghiệm này giúp tôi đổi mới được
phương pháp dạy học và nâng cao trình độ chuyên môn rất nhiều. Tôi đã tìm tòi
và hiểu sâu sắc hơn về đối tượng bài dạy, nâng cao trình độ chuyên môn và cả
trình độ tin học của bản thân. Khi thực hiện bài dạy theo định hướng phát huy
năng lực của học sinh, tôi rất tự tin vì bản thân nắm chắc được hệ thống kiến
thức và cũng thấy hứng khởi với giờ dạy. Vì vậy, chất lượng giờ dạy được nâng
cao.
- Đối với đồng nghiệp: sáng kiến của tôi dã đem đến cho đồng nghiệp
hiểu biết thêm về một phương pháp dạy học tích cực, giúp nâng cao chất lượng
dạy học Văn trong nhà trường.
13


- Đối với nhà trường: sáng kiến này góp phần vào hoạt động đổi mới giáo
dục mà trường THPT Yên Định 2 đang thực hiện trong thời gian qua.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Văn có một vị trí quan
trọng. Bởi đó là môn học vừa cung cấp tri thức khoa học và phát triển năng lực,
vừa hình thành nhân cách và vun đắp tâm hồn cho học sinh. Trong thời đại hiện
nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Văn sẽ giữ lại trong tâm hồn
con người những tình cảm nhân văn, để con người tìm đến với con người, trái
tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Cũng giống như hôm nay, dù hơn hai thế kỉ đã
qua đi, nhưng khi học về thơ Nguyễn Du, chúng ta vẫn tự hào về những di sản
văn học mà ông để lại cho nền văn học Việt Nam. Chúng ta kính gửi tới đại thi
hào lời tri âm sâu sắc mà Tố Hữu đã nói hộ:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
“Độc Tiểu Thanh kí” là tác phẩm chứa chan tình cảm nhân đạo được thể

hiện trong bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật chuẩn mực. Tuy nhiên, để học
sinh hiểu được giá trị của bài thơ cũng là rất khó. Bởi tâm lí lứa tuổi học sinh
trung học phổ thông là thích cái mới mẻ, trẻ trung, thường ngại những gì cổ
điển, cổ xưa. Vì vậy dùng cách khai thác tác phẩm theo định hướng phát triển
năng lực của học sinh là một giải pháp thích hợp để cung cấp tri thức và truyền
cảm hứng văn chương cho các em. Phương pháp phù hợp cùng với sự tận tình
của người giáo viên, những bài học Ngữ văn sẽ thành công trong nhiệm vụ
“gieo hạt giống tâm hồn” cho lớp thế hệ trẻ của đất nước- hôm nay và mai sau.
3.2. Kiến nghị:
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi có thể áp dụng rộng rãi trong các bài đọc
văn khác để truyền cảm hứng sáng tạo và phát triển năng lực cho học sinh. Vì
vậy, tôi đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường phổ biến phương pháp này để
đồng nghiệp tham khảo và ứng dụng. Đồng thời, tổ chức cho học sinh ngoại
khóa về “thơ chữ Hán trong văn học trung đại”.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi, tuy đã cố gắng hết sức nhưng
do khả năng và thời gian thực hiện nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong được sự đóng góp của các đồng chí để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

14


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm do mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người viết


Nguyễn Thị Tương

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách giáo khoa Ngữ văn 10- tập 1- Phan Trọng Luận chủ biên- NXB
Giáo dục- 2006
[2]. Sách giáo viên Ngữ văn 10- tập 1- Phan Trọng Luận chủ biên- NXB
Giáo dục- 2006
[3]. Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực- NXB Đại học sư
phạm-2010.
[4]. Chuyên đề: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh
tonguvan.lytutrongtamky.edu.vn.
[5]. Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi- Trịnh Trọng Nam chủ biên- Sở
GD&ĐT Thanh Hóa- 2015
[6]. Thiết kế bài học Ngữ văn 10- Phan Trọng Luận chủ biên- NXB Giáo
dục- 2008
[7]. Thiết kế bài học-tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thôngNXB GD-2003.
[8]. Chi tiết dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.

16



×