Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.9 KB, 28 trang )

A.  PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề: 
     Qua quá trình tập huấn được học tập và nghiên cứu cũng như  sự  hướng  
dẫn, truyền đạt của các thầy, cô giáo phụ  trách giảng dạy chương trình bồi 
dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiêu hoc 
̉
̣ ở hạng II, tôi 
nắm bắt được các nội dung như sau:
Nắm bắt xu hướng phát triển của giáo dục, tinh thần đổi mới căn bản và toàn 
diện giáo dục, các mô hình trường học mới. Những mặt được và mặt hạn  
chế  của các mô hình trường học đó. Vận dụng sáng tạo và đánh giá được  
việc vận dụng những kiến thức về giáo dục học và tâm sinh lý lứa tuổi vào 
thực tiễn giáo dục học sinh tiểu học của bản thân và đồng nghiệp. Chủ động,  
tích cực phối hợp với đồng nghiệp, cha mẹ  học sinh và cộng đồng để  nâng 
cao   chất   lượng   giáo   dục   học   sinh   tiểu   học. 
Nắm vững và vận dụng tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của 
Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về  giáo dục  
tiểu học; chủ động tuyên truyền và vận động đồng nghiệp cùng thực hiện tốt 
chủ  trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về  giáo dục nói chung và 
giáo dục tiểu học nói riêng. Hiểu rõ chương trình và kế  hoạch giáo dục tiểu 
học; hướng dẫn được đồng nghiệp cùng thực hiện chương trình và kế hoạch 
giáo dục tiểu học.
Để    đi đúng định hướng, đúng mục tiêu mà mà ngành và Nhà Nước 
vạch ra và hướng tới. Cùng góp sức mình vào việc nâng cao chất lượng, hiệu  
quả  của nền giáo dục xã hội chủ  nghĩa. Vì giáo dục là quốc sách hàng đầu.  
Nên tôi chọn đề  tài: “Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ  Nghĩa  
Việt Nam”. Cơ  quan nhà nước là bộ  phận cấu thành của bộ  máy nhà nước. 
Được thành lập theo trình tự  nhất định do pháp luật quy định, tùy thuộc tổ 
chức, chức năng, nhiệm vụ  do nó đảm nhiệm. Cơ  quan nhà nước có thẩm  
quyền do pháp luật quy định. Hoạt động nhà nước mang tính chất quyền lực 
và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, hoạt động đó được tuân theo 


thủ tục do pháp luật quy định. Những người đảm nhiệm chức trách trong cơ 
quan nhà nước phải là công dân Việt Nam. Hiểu được như thế tôi thấy mình 
cần   tiếp   thu,   cập   nhật   thường   xuyên   những   định   hướng   mới,   chấp   hành 
nghiêm túc các quy định của ngành, đường lối chính sách của Đảng và Nhà 


Nước. Tạo chất lượng và uy tín giáo dục Việt nam nói chung và nơi mình 
công tác nói riêng là rất cần thiết. 
           Hy vọng qua bài viết của mình tôi sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm trong  
công tác tại đơn vị. Trong bài viết này tôi sẽ  triển khai một số  hiểu biết về 
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, vận dụng  
trong công tác giảng dạy tại đơn vị mình. 
2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập các chuyên đề  của 
khóa bồi dưỡng:
Qua thời gian được bồi dưỡng lần này tôi nhận thấy 10 chuyên đề  đều 
rất cần thiết cho hoạt động giáo dục trong nhà trường nói chung và đối với  
bản thân tôi là giáo viên nói riêng. Bản thân tôi luôn phấn đấu học tập những 
kiến thức mới, những chủ  trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để 
nâng cao trình độ  năng lực, chuyên môn phục vụ  cho việc giảng dạy. Tôi 
nhận thấy khóa bồi dưỡng này các thầy cô đã mang đến kiến thức hay và bổ 
ích giúp cán bộ quản lý và giáo viên có những thay đổi tích cực để xây dựng  
nhà trường đúng định hướng xã hội chủ  nghĩa và theo xu thế hội nhập quốc 
tế. Mặt khác, tôi có thêm lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm cao trong công 
việc, nâng cao lý tưởng nghề nghiệp, nâng cao năng lực dạy học, năng lực tổ 
chức hoạt động của chính quyền địa phương, tìm hiểu những định hướng 
mới của Nhà Nước…Từ đó giáo viên sẽ hiểu rõ hơn về công việc của mình 
để đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà phát triển hơn nữa.
Ý nghĩa và tầm quan trọng của chuyên đề: “Xây Dựng Nhà Nước Pháp  
Quyền Xã Hội Chủ  Nghĩa Việt Nam”  giúp người học hiểu thêm quyền lực 
của nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ  máy nhà nước Cộng  

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhiệm vụ ­ quyền hạng của chính quyền địa 
phương và quan trọng hơn là nắm được, cập nhật được những điểm mới của  
luật tổ  chức chính quyền địa phương luật giáo dục. Bên cạnh đó, lãnh đạo  


các nhà trường và đội ngũ giáo viên sẽ không ngừng học tập để nâng cao trình 
độ  đáp  ứng hoạt động giáo dục theo hướng đổi mới để  theo kịp các trường  
trên thế giới.

 3. Những mục tiêu cần đạt sau khóa bồi dưỡng cho cá nhân, cho tổ 
chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường:
­ Nắm vững và vận dụng tốt chủ  trương, đường lối, chính sách, pháp 
luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương.
­ Người học sẽ  có cái nhìn tổng quan hơn về  thực trạng nền giáo dục  
nước nhà, so sánh với các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Từ đó, có cách  
đổi mới cho phù hợp.
  4. Các nhiệm vụ được đặt ra cho bài viết thu hoạch:
­ Nghiên cứu đề  tài đã chọn: lý luận, thực trạng, đề  xuất những giải 
pháp cho thực trạng đã nêu.
­ Nắm rõ và áp dụng đúng những gì đã học được sau khóa bồi dưỡng.
­ Bài viết thu hoạch sẽ được áp dụng trong quá trình dạy học thực tế.


B. PHẦN NỘI DUNG
I. KẾT QUẢ THU HOẠCH KHI THAM GIA KHÓA BỒI DƯỠNG
1.

Giới thiệu tổng quan về các chuyên đề học tập:

Qua quá trình được học tập và nghiên cứu cũng như  sự  hướng dẫn,  

truyền đạt của các thầy phụ  trách giảng dạy Chương trình bồi dưỡng theo 
tiêu chuẩn chức danh nghề  nghiệp giáo viên tiểu học hạng II, tôi nắm bắt 
được các nội dung như sau:
Chuyên đề  1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa Việt 
Nam:
Khái quát về  cơ  quan nhà nước; Các cơ  quan nhà nước; Hoàn thiện  
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản 
Việt Nam.
Chuyên đề  2. Xu hướng quốc tế và đổi mới giáo dục phổ  thông Việt 
Nam
Tổng quan kinh nghiệm quốc tế về phát triển giáo dục phổ thông (qua 
giáo dục phổ thông một số quốc gia); Đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam.
Chuyên đề  3. Xu hướng đổi mới quản lí giáo dục phổ  thông và quản  
trị nhà trường tiêu hoc
̉
̣
Những cơ sở pháp lí và thực tiễn của đổi mới quản lí giáo dục; Những  
yếu tố  cơ  bản trong đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục; Đổi mới hoạt  
dộng giáo dục; Một số  đổi mới khác trong quản trị  trường học; Điều kiện 
thực hiện chương trình.
Chuyên đề 4. Động lực và tạo động lực cho giáo viên tiểu học


Động lực và tạo động lực làm việc cho giáo viên; Một số lí thuyết cơ 
bản về  tạo động lực; Phương pháp và công cụ  tạo động lực cho giáo viên;  
Một số trở ngại đối với việc có động lực và tạo động lực đối với giáo viên.
Chuyên đề  5. Quản lý hoạt động dạy học và phát triển chương trình 
giáo dục nhà trường tiểu học
Một   số   mô   hình   nhà   trường   phổ   thông   đầu   thế   kỉ   XXI;   Mô   hình 
trường học mới với hoạt động giáo dục theo hướng tiếp cận phát triển phẩm 

chất và năng lực; Đổi mới đánh giá học sinh theo hướng tiếp cận phát triển  
phẩm chất và năng lực; Hoạt động dạy học và giáo dục các trường tiểu học  
ở địa phương.
Chuyên đề 6. Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng 
II
Khái quát về  thực trạng năng lực giáo viên tiểu học; Phát triển năng 
lực nghề  nghiệp giáo viên tiểu học; Hợp tác phát triển và sử  dụng đội ngũ 
giữa các nhà trường và các cơ  sở  giáo dục trong triển khai đổi mới chương  
trình giáo dục phổ thông.
Chuyên đề  7. Dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng 
khiếu trong trường tiểu học
Quan niệm về người giáo viên hiệu quả; Khung năng lực nghề nghiệp  
của giáo viên ở một số quốc gia; Bài học kinh nghiệm trước yêu cầu đổi mới 
giáo dục phổ thông Việt Nam; Phát hiện học sinh có năng khiếu và bồi dưỡng  
học sinh giỏi trong dạy học ở trường tiểu học.
Chuyên đề 8. Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục trường tiểu 
học
Các thành tố  tạo nên chất lượng giáo dục; Đánh giá chất lượng giáo  
dục; Kiểm định chất lượng giáo dục trường tiểu học.
Chuyên đề  9. Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học sư  phạm  ứng 
dụng ở trường tiểu học
Vai trò, vị trí của hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở 
trường tiểu học; Tạo lập môi trường nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng 


ở  trường tiểu học; Quản lí hoạt động nghiên cứu khoa học sư  phạm  ứng  
dụng ở trường tiểu học.
Chuyên đề  10. Xây dựng môi trường văn hóa, phát triển thương hiệu 
nhà trường và liên kết, hợp tác quốc tế.
Xây dựng văn hóa nhà trường và phát triển thương hiệu; Văn hóa nhà 

trường và đạo đức nghề nghiệp; Văn hóa nhà trường và phát triển đội ngũ.
2. Khái quát về cơ quan nhà nước
   2.1. Khái niệm và đặc điểm 
Bộ máy nhà nước được thiết lập nhằm thực hiện quyền lực nhà nước. 
Bộ  máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam có cơ  cấu tổ  chức 
phức tạp, bao gồm nhiều loại cơ quan, được hình thành bằng cách thức khác 
nhau, và được trao những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau để thực hiện chức  
năng riêng phù hợp với chức năng chung của Nhà nước.
Cơ  quan nhà nước là bộ  phận cấu thành của bộ  máy nhà nước. Thông  
thường, kết quả  hoạt động của cơ  quan nhà nước là các quyết định có tính  
bắt buộc thi hành đối với những người có liên quan. Trường hợp quyết định 
không được thi hành, hoặc thi hành không đầy đủ, người có trách nhiệm thi 
hành phải chịu trách nhiệm trước nhà nước, xã hội. Quyền lực của mỗi cơ 
quan Nhà nước tùy thuộc vào vị trí, chức năng của cơ quan đó trong hệ thống 
cơ  quan nhà nước và được thể  chế  hóa thành nhiệm vụ, quyền hạn cụ  thể 
trong pháp luật. Tổ  chức và hoạt động của các cơ  quan nhà nước tùy thuộc  
vào tính chất, nhiệm vụ, chức năng của nó, nhưng đều theo những nguyên tắc  
chung, thống nhất.
Đặc điểm của cơ quan nhà nước:
­ Các cơ quan nhà nước được thành lập theo trình tự nhất định do pháp 
luật quy định, tùy thuộc tổ chức, chức năng, nhiệm vụ do nó đảm nhiệm;
­ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định;
­ Hoạt động của cơ  quan nhà nước mang tính quyền lực và được đảm  
bảo bằng quyền lực nhà nước, hoạt động đó được tuân theo thủ tục do pháp 
luật quy định;
­ Những người đảm nhiệm chức trách trong các cơ quan nhà nước phải  
là công dân Việt Nam.
   2.2. Hệ thống các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước



Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước ta có các loại cơ quan nhà nước sau:
­ Các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà 
nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ  quan quyền lực nhà nước  ở  địa  
phương);
­ Các cơ  quan hành chính nhà nước (bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ 
quan ngang Bộ, cơ quan có chức năng Quản lí Nhà nước thuộc Chính phủ; Uỷ 
ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ  quan chuyên môn thuộc  
Ủy ban nhân dân);
­ Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự, các Tòa  
án nhân dân địa phương, Tòa án đặc biệt và các Tòa án khác do Luật định);
­ Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát  
quân sự, Viện kiểm sát nhân dân địa phương);
­ Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước được trao  
quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ  chức vụ  Chủ  tịch 
Hội đồng Quốc phòng và an ninh.
Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 còn lần đầu tiên hiến định hai cơ quan là 
Hội đồng bầu cử Quốc gia và Kiểm toán nhà nước do Quốc hội thành lập.
2.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước 
Tổ  chức và hoạt động của các cơ  quan nhà nước tùy thuộc vào tính 
chất các nhiệm vụ  được giao, nhưng đều theo nguyên tắc chung thống nhất 
như sau:
­ Nguyên tắc nhân dân tham gia tổ  chức nhà nước, quản lí nhà nước,  
thực hiện quyền lực nhà nước, tất cả  quyền lực nhà nước thuộc về  Nhân  
dân.
Đây là nguyên tắc thể hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Tất cả 
nhân dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, đều có quyền thông qua 
bầu cử  để  lựa chọn các đại biểu thay mặt mình vào các cơ  quan quyền lực 
nhà nước là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thực thi quyền lực nhà  
nước.

­ Nguyên tắc Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Theo điều 4 hành pháp năm 2013, Đảng cộng sản Việt Nam: Đội tiên  
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao 
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công 


nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước  
và xã hội; gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát 
của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về  những quyết định của 
mình.
­ Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc này đã được khẳng định tại Hiến pháp năm 2013. Nhân dân 
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện  
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ  quan khác của  
Nhà nước. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ  quan khác của Nhà nước 
đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
­ Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối  
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền  
lập pháp, hành pháp và tư pháp 
Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong bộ máy nhà nước có sự 
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ  quan nhà nước trong thực hiện  
các quyền lập pháp, hành pháp và tư  pháp được quy định trong Hiến pháp và  
pháp luật Việt Nam. Ở Việt Nam, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là 
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, do Nhân dân  
bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhna6 dân. Quốc hội thực hiện quyền lập  
hiến, quyền lập pháp; Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; Tòa  
án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Song, việc thực hiện quyền lập pháp 
của Quốc hội sẽ  nhận được sự  hỗ  trợ  tích cực của các cơ  quan khác như 
Chính phủ, Tòa án...Đối với các quyền lực khác cũng được thực hiện tương  

tự như vậy.
­ Nguyên tắc quản lí xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật 
Việc tổ  chức các cơ  quan nhà nước phải dựa trên và tuân thủ  những 
quy   định   của   pháp   luật   về   cơ   cấu   tổ   chức,   biên   chế,   quy   trình   thành 
lập,...Chức năng của bộ  máy nhà nước thể  hiện trên ba lĩnh vực hoạt động: 
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong lĩnh vực lập pháp, bộ  máy nhà nước, thông qua hoạt động khác 
nhau của các cơ  quan, thể  chế  hóa đường lối, chủ  trương, phù hợp với đặc 
điểm tình hình kinh tế ­ xã hội của đất nước và các thông lệ quốc tế, tạo lập 
cơ sở pháp lí cho mọi hoạt động của xã hội và của Nhà nước.


Trong lĩnh vực hành pháp, bộ  máy nhà nước, bằng hoạt động cụ  thể, 
đưa pháp luật vào đới sống xã hội, bảo đảm thực hiện thống nhất pháp luật ở 
mọi cấp, mọi ngành trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.
Trong mọi lĩnh vực tư pháp, bộ máy nhà nước, bằng hoạt động cụ thể 
của từng cơ quan, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm nhằm duy  
trì trật tự, kỉ cương, ồn định xã hội.
3. Các cơ quan nhà nước
   3.1. Quốc hội
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ  quan đại biểu 
cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng 
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các 
vấn đề  quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của 
Nhà nước.”
Là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước cả nước bầu ra theo nguyên tắc 
phổ  thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ  phiếu kín, Quốc hội có vị  trí đặc biệt 
quan trọng trong bộ  máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam.  
Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất  

cả  quyền lực nhà nước thuộc về  Nhân dân (Điều 2). Nhân dân có thể  thực  
hiện quyền lực của mình bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp, bán trực tiếp 
và gián tiếp. Bằng biện pháp dân chủ gián tiếp, Nhân dân bầu ra các cơ quan 
đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) để thực hiện quyền lực của  
mình, trong đó, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, cơ quan  
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lập pháp là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản nhất của Quốc 
hội để điều chỉnh các quan hệ  xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn 
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trên cơ  sở  đó, hệ  thống pháp luật từng 
bước được hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc  ổn định chính trị, giữ 
vững an ninh, trật tự, phát triển kinh tế và mọi mặt cuộc sống.
   3.2. Chủ tịch nước
Điều 86 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.”


Chủ  tịch nước được Quốc hội bấu trong số  đại biểu Quốc hội, chịu 
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kì của Chủ tịch nước  
làm việc đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới.
   3.3. Chính phủ
Theo Hiến pháp năm 2013, vị trí tính chất của Chính phủ được quy định 
theo tinh thần đổi mới nhằm xây dựng Chính phủ  mạnh, hiện đại, dân chủ, 
thống nhất quản lí vĩ mô các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc 
phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ  là cơ  quan hành  
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam, 
thực hiện quyền hành pháp, là cơ  quan chấp hành của Quốc hội”. Đây là lần 
đầu tiên trong lịch sử  lập hiến Việt Nam, Chính phủ  được Hiến pháp nhấn  
mạnh và đề  cao vị  trí, tính chất của Chính phủ  là cơ  quan hành chính nhà 

nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ do Quốc hội  
thành lập ra, nhiệm kì của Chính phủ  theo nhiệm lì của Quốc hội. Khi Quốc  
hội hết nhiệm kì, Chính phủ  tiếp tục làm nhiệm vụ  cho đến khi Quốc hội  
khóa mới thành lập Chính phủ. Thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự 
giám sát của Quốc hội, Chính phủ  chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo 
cáo công tác trước Quốc hội,  Ủy ban Thường vụ  Quốc hội, Chủ  tịch nước.  
Thành viên của Chính phủ  có thể  bị  Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm hoặc  
cách chức theo quy định của pháp luật, Chính phủ  là cơ  quan chấp hành của 
Quốc hội có trách nhiệm cụ thể hóa Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc  
hội thành những văn bản dưới luật, đưa ra những biện pháp thiết thực, phân 
công, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra việc thực hiện các văn bản trong thực tế.
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ 
Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ  tướng Chính phủ, 
các bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được quyết định trong kì họp 
thứ  nhất của mỗi khóa Quốc hội trên cơ  sở  căn cứ  vào quy định của Hiến  
pháp, Luật tổ chức Chính phủ hiện hành.
Thủ  tướng Chính phủ  là đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu, bãi 
nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước.
   3.4. Chính quyền địa phương
Điếu 110, Hiến pháp năm 2013 quy định các đơn vị hành chính của nước 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:


“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị  xã và thành phố  thuộc tĩnh; thành phố  trực 
thuộc Trung  ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị  hành chính tương  
đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành  
phường và xã; quận chia thành phường.

Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị  hành 
chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ  tục do luật 
định.”
­ Hội đồng nhân dân 
Hội đồng nhân dân là cơ  quan quyền lực nhà nước  ở  địa phương, đại 
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa 
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ  quan nhà 
nước cấp trên; đồng thời quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; 
giám sát việc  tuân theo Hiến pháp và pháp luật  ở  địa phương và việc thực  
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
­ Ủy ban nhân dân 
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ  quan chấp 
hành của Hội đồng nhân dân, cơ  quan hành chính nhà nước  ở  địa phương,  
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và 
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Ủy ban nhân dân tổ  chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật  ở  địa  
phương; tổ  chức thực hiện nghị  quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện 
các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
   3.5. Tòa án nhân dân
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là 
cơ  quan xét xử  của nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam, thực hiện 
quyền tư pháp”. Theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà  
nước là thống nhất, có sự  phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ  quan  
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong  
tổ  chức bộ  máy nhà nước, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, 
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Bằng 
hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ 



quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc 
sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm,các vi phạm pháp luật 
khác.
      Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân 
Hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm:
­

Tòa án nhân dân tối cao

­

Tòa án nhân dân cấp cao

­

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

­

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị  xã, thành phố  thuộc tỉnh và  
tương đương

­ Tòa án quân sự
   3.6. Viện kiểm sát nhân dân
3.6.1. Vị trí pháp lí của Viện kiểm sát nhân dân 
Kế thừa nguyên tắc cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp  
năm 1992 và thể  hiện tinh thần tăng cường yếu tố  kiểm soát quyền lực nhà 
nước, Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là 
thống nhất nhưng có sự  phân công, kiểm soát giữa các cơ  quan nhà nước 
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3 Điều  

2 Hiến pháp năm 2013).
3.6.2. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân 
a) Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có:
­

Ủy ban kiểm sát;

­

Văn phòng;

­

Cơ quan điều tra;

­

Các cục, vụ, viện và tương đương;

­

Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự 
nghiệp công lập khác;

­

Viện kiểm sát quân sự trung ương.

b) Viện kiểm sát nhân dân cấp cao



Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có:
­

Ủy ban kiểm sát;

­

Văn phòng;

­

Các viện và tương đương;

c) Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương 
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm có:
­

Ủy ban kiểm sát;

­

Văn phòng;

­

Các phòng và tương đương;

d) Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị  xã, thành phố  thuộc  

tỉnh và tương đương 
Tổ  chức bộ  máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có văn  
phòng và các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các  
bộ phận công tác và bộ máy giúp việc.
Hệ thống Viện kiểm sát quân sự bao gồm:
­ Viện kiểm sát quân sự trung ương;
­ Viện kiểm sát quan sự quan khu và tương đương;
­ Viện kiểm sát quan sự khu vực.
3.7. Kiểm toán nhà nước
   3.7.1. Vị trí, chức năng của Kiểm toán nhà nước 
­ Vị trí: Điều 118 Hiến pháp năm 2013 quy định: Kiểm toán nhà nước là 
cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,  
thực hiện kiểm toán việc quản lí, sử dụng tài chính, tài sản công.
­ Chức năng:  Chức năng của Kiểm toán nhà nước là thực hiện kiểm  
toán việc quản lí, sử  dụng tài chính, tài sản công. Chức năng này được quy 
định cụ  thể  trong Luật Kiểm toán nhà nước, bao gồm ba chức năng cụ  thể: 
kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với 
cơ quan, tổ chức quản lí, sử dụng ngân sách, tiến và tài sản nhà nước. 
   3.7.2. Tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nước 


Luật Kiểm toán nhà nước quy định về hệ thống tổ chức của Kiểm toán 
nhà nước. Kiểm toán nhà nước được tổ chức và quản lí tập trung thống nhất  
gồm bộ  máy điều hành. Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán nhà 
nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp.

II. HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN  XàHỘI CHỦ  NGHĨA 
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
   1.  Tình hình xây dựng Nhà nước trong thời gian qua và những nhiệm  
vụ trọng tâm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 

trong thời kỳ mới 
Những thành tựu và hạn chế  trong xây dựng nhà nước pháp quyền Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định 
nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh 
đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá  
trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 2011 ­ 2020. Sự xác 
định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền  xã hội chủ nghĩa trong Báo 
cáo chính trị  của Đại hội X không chỉ  là khẳng định quyết tâm chính trị 
của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà  
nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Văn kiện Đại hội đại biểu 
toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, còn là sự đánh dấu 
một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới, 
một nhà nước của dân, do dân, vì dân. 
Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì 
dân  ở  nước ta trong suốt mấy chục năm qua (đặc biệt trong những năm  
đổi mới) đã đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị  quyết Hội nghị lần thứ 
III khoá VIII của Ban Chấp hành Trung  ương Đảng và các Văn kiện Đại 
hội Đảng khoá IX, X đã khẳng định công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà  
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ quan trọng . Đã từng 
bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. 
Hiến pháp 1992 và nhiều Bộ  luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo 
khuôn khổ pháp lý để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực 
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... Đã có nhiều quyết định cải cách có 
ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ 
sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy  
nhà nước. Dân chủ  xã hội chủ  nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều 
lĩnh vực. Dân chủ  về  kinh tế  ngày càng được mở  rộng đã tác động tích 



cực đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế  phát 
triển, nâng cao đời sống nhân dân.
 Dân chủ  về  chính trị  có bước tiến quan trọng, thể  hiện  ở  việc bầu các cơ 
quan dân cử,  ở  chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân 
các cấp, tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng 
các dự án luật, trong hoạt động của báo chí. Tổ chức bộ máy, chức năng, 
nhiệm vụ  của nhà nước, trước hết là của cơ  quan hành chính nhà nước, 
đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ  cơ  chế 
kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều  
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước 
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có bước 
đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát 
huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, thực 
tiễn tổ  chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang bộc lộ  nhiều yếu 
kém: Bộ  máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng  
tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; 
hiệu lực quản lý, điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, 
làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta.
Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ  mới; chưa phát 
huy đầy đủ  mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh  
tế  thị  trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt  
chẽ, sử  dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng.  Tổ  chức bộ  máy nhà 
nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước 
trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có những 
điểm  chưa rõ  về  chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân  cấp trung 
ương, địa phương còn một số  mặt chưa cụ  thể (như  về quản lý đầu tư,  
tài chính, tổ chức bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm  
cho tình trạng tập trung quan liêu cũng như  phân tán, cục bộ  chậm được 
khắc phục.

Sự  lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn còn tình trạng buông lỏng và 
bao biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và 
hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Có nhiều nguyên nhân gây nên  
những yếu kém của hệ  thống chính trị, của bộ  máy nhà nước, trong đó  
chủ yếu là: ­ Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong 
điều kiện chuyển đổi nền kinh tế  là nhiệm vụ  mới mẻ, hiểu biết của 
chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm.
Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ  thể  hoá nghị  quyết của Đảng về  xây 
dựng nhà nước để  có chủ  trương kịp thời xử  lý những vấn đề  phát sinh 
trong thực tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề  nổi lên ngày càng bức 
xúc như tình trạng quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong 


bộ  máy nhà nước; thiếu những biện pháp tổ  chức thực hiện đường lối, 
chủ  trương kiên quyết, hợp lý và đủ  mạnh để  tạo chuyển biến tích cực 
nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém. Chưa kịp thời tổng kết  
thực tiễn và còn thiếu cơ  sở  khoa học khi quyết định một số  chủ  trương 
về  sắp xếp điều chỉnh tổ  chức bộ  máy ở  trung  ương và địa phương nên 
khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế.
Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán triệt 
và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự  đổi mới, tự 
chỉnh đốn, bảo đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng 
cơ quan, đơn vị.
Các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể, thiết 
thực và đổi mới phương thức hoạt động để  tổ  chức vận động nhân dân 
phát huy quyền làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám 
sát hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa 
vụ công dân, sống, làm việc theo hiến pháp, pháp luật. 
  2. Những hạn chế yếu kém
     ­ Chức năng, nhiệm vụ  của Chính phủ  và của các cơ  quan trong bộ  máy 

hành chính nhà nước trên một số lĩnh vực chưa rõ; phân định chức năng, thẩm 
quyền quản lý, điều hành giữa Chính phủ (tập thể Chính phủ) và Thủ tướng  
chưa thật rõ ràng, rành mạch. Tổ  chức bộ  máy hành chính còn cồng kềnh,  
hoạt động thiếu nhịp nhàng, thông suốt. Bộ  máy Chính phủ  tuy đã giảm số 
bộ, nhưng số lượng đơn vị  đầu mối trong từng bộ  lại có xu hướng tăng; cơ 
cấu bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương (các 
tổng cục, cục, vụ, viện, sở, phòng) còn chưa được sắp xếp hợp lý; chức năng 
quản lý nhà nước chưa được xác định chính xác; thay vì quản lý thông qua  
chính sách, pháp luật thì trong nhiều trường hợp các cơ  quan quản lý nhà 
nước vẫn thực hiện các hoạt động điều hành, quản lý sản xuất, kinh doanh,  
can thiệp trực tiếp vào đời sống xã hội.
   ­ Việc tổ chức hệ thống Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đã được 
đổi mới một bước theo Hiến pháp 2013 nhưng vẫn còn nhiều bất cập về cấu  
trúc bên trong. Toà án cấp huyện dàn đều  ở  tất cả  các huyện, kể  cả  những 
huyện có quy mô nhỏ  hoặc mới được chia tách; đội ngũ Thẩm phán bị  dàn 
mỏng, phân tán, trong khi số lượng còn rất thiếu, có nơi xét xử không hết án  
nhưng có nơi lại rất ít án.
         Quy định của các văn bản pháp luật hiện hành cụ  thể  hóa Hiến pháp  
chưa thể hiện rõ cơ chế vận hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, thẩm 
quyền điều tra của Viện kiểm sát trong tố  tụng hình sự, phạm vi thực hành 
quyền công tố bắt đầu từ đâu và kết thúc khi nào. Công tác thực hành quyền  


công tố có chịu sự kiểm sát hay không cũng đang được đặt ra và dư luận rất  
quan tâm, đặc biệt là trong những trường hợp truy tố  oan, sai. Phạm vi, đối  
tượng, nội dung và các quyền năng cụ  thể  trong thực hiện chức năng kiểm  
sát hoạt động tư  pháp chưa được quy định thật rõ ràng dẫn đến những lúng 
túng trong quá trình thực hiện, chưa có cơ  chế  bảo đảm hiệu lực kiến nghị, 
kháng nghị  của Viện kiểm sát dẫn đến tình trạng nhiều cơ  quan hữu quan  
không thực hiện kiến nghị  và kháng nghị  của kiểm sát nhưng không có chế 

tài xử lý.
       Tổ  chức chính quyền địa phương còn nặng về  tính bảo đảm tính thống  
nhất trong chỉ  đạo, điều hành của trung  ương, chưa phát huy tính chủ  động, 
sáng tạo của địa phương. Mô hình tổ  chức Hội đồng nhân dân và Uỷ  ban 
nhân dân được thiết kế  một cách tương đối đồng loạt, chưa thể  hiện đặc 
điểm và yêu cầu quản lý nhà nước trên các địa bàn, lãnh thổ khác nhau và gần 
như không có sự thay đổi từ khi đổi mới đến nay. Tổ chức bộ máy của chính  
quyền tỉnh, thành phố  tuy có sự  phân biệt giữa các địa phương có quy mô,  
tính chất khác nhau; trong quản lý hành chính  ở  đô thị  và  ở  nông thôn, miền 
núi, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt nhưng sự khác biệt này vẫn 
chưa rõ nét cả về tổ chức và thẩm quyền.
        Chưa xác định rõ cơ  chế  để  cơ  quan hành pháp và cơ  quan tư  pháp tác 
động trở  lại đối với hoạt động của Quốc hội là thiết chế  thực hiện quyền  
lập pháp. Chủ  tịch nước được xác định là người thay mặt Nhà nước về  đối 
nội, đối ngoại nhưng chưa có cơ  chế  để  xác định vai trò của Chủ  tịch nước 
đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngoài thẩm quyền đề nghị Ủy 
ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trước khi công bố. Đồng thời,  
chúng ta cũng chưa có cơ chế về mặt nhà nước đế cơ quan thực hiện quyền  
lực tư pháp kiểm soát hoạt động của cơ quan hành pháp.
       Về  hệ  thống pháp luật, mặc dù quá trình đổi mới đạt được nhiều thành 
tựu trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhưng có thể  thấy rằng, 
hệ thống pháp luật của nước ta vẫn chưa đáp ứng kịp với yêu cầu của việc  
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như việc quản lý nhà 
nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. 
       Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật mới, sửa đổi, bổ  sung nhiều đạo 
luật hiện hành, song hệ  thống pháp luật của ta vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa  
đồng bộ, vẫn còn có nhiều văn bản chồng chéo, mâu thuẫn. Một số  luật  
được ban hành nhưng chất lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, tính khả 
thi thấp, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần.
     Một số luật còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc, thiếu cụ thể nên khi 

có hiệu lực chưa được thi hành ngay mà phải chờ  văn bản quy định chi tiết, 


hướng dẫn, trong khi đó các văn bản loại này nhiều khi lại không được ban 
hành kịp thời nên pháp luật chậm đi vào cuộc sống và không tránh khỏi có 
những cách hiểu, cách làm khác nhau, dẫn đến sơ hở, lợi dụng trong việc thi  
hành pháp luật. Bên cạnh đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong 
một số  vấn đề  còn chậm được khẳng định hoặc thiếu nhất quán nên cũng  
gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác thể chế hóa thành pháp 
luật.
    Cơ  chế bảo đảm cho việc thi hành các quy định của Hiến pháp, xử  lý các 
vi phạm Hiến pháp trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp (bảo vệ Hiến 
pháp) được giao cho nhiều chủ thể cùng tiến hành, chưa có cơ chế hoạt động 
chuyên trách. Hoạt động bảo vệ  Hiến pháp quan trọng và phổ  biến nhất  ở 
Việt Nam là xem xét và bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất  
của các văn bản quy phạm pháp luật nhưng trên thực tế, công tác xem xét, xử 
lý những văn bản này không được tiến hành triệt để và thường xuyên. Thẩm 
quyền hủy bỏ, đình chỉ  văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp trong  
thực tiễn hầu như chưa được áp dụng.
       Hình thức kiến nghị  thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra của các cơ 
quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ quan nhà 
nước có thẩm quyền chưa được thực thi đầy đủ nên chưa mang lại hiệu quả 
cao. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã bổ  sung quy định về  trách nhiệm 
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án 
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ  quan khác của Nhà nước và toàn 
thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp và giao cho Quốc hội quy định 
cụ thể về cơ chế bảo vệ Hiến pháp.
      Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong 
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, 
vì dân còn chậm. Phương thức lãnh đạo của một số  cấp uỷ đảng còn chậm 

đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ  chức và hoạt động  
của bộ máy nhà nước, vừa có tình trạng buông lỏng và vừa có tình trạng bao 
biện, chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực  
điều hành của bộ  máy nhà nước. Một số  cấp uỷ  và tổ  chức Đảng vừa lúng 
túng, vừa thiếu quan tâm lãnh đạo việc quản lý nhà nước trên các lĩnh vực 
trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo yêu cầu xây dựng 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
     Chất lượng cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa đáp 
ứng được yêu cầu thực thi chức năng, nhiệm vụ theo vị trí việc làm; năng lực 
và trình độ đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa ngang tầm với đòi hỏi của sự 
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.  
Mức độ chuyên nghiệp, tính chuyên sâu, kỹ năng hành chính của cán bộ, công 


chức thấp. Công tác quản lý, tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển, thi nâng ngạch, 
đánh giá, luân chuyển, đề bạt cán bộ, công chức chậm thay đổi.
      Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa được xây dựng hoặc 
có xây dựng cơ cấu nhưng chưa hợp lý; đặc biệt đặt trong mối quan hệ giữa  
cơ cấu cán bộ, công chức với biên chế và xác định chức danh, tiêu chuẩn của 
từng vị trí việc làm đang đặt ra nhiều vấn đề phải cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,  
công chức trong cả nước và của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị.
        Văn hóa công sở, giao tiếp hành chính trong công sở  và thái độ,  ứng xử 
của một bộ  phận công chức chưa đạt yêu cầu trong thực thi công vụ, phục  
vụ  nhân dân. Một bộ  phận công chức bị  sa sút về  phẩm chất đạo đức, tinh 
thần trách nhiệm kém, còn quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân 
dân, coi việc thực thi công vụ, phục vụ nhân dân như là việc ban phát ân huệ 
của mình; tác phong làm việc quan liêu, cửa quyền, “vô cảm” trước những 
nhu cầu bức xúc, chính đáng của người dân.
   Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
­ Nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa 

chưa được nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ  thống, chưa xác định rõ vai 
trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng  xã hội chủ nghĩa. 
Sự  phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ  quan thực hiện 
quyền lập pháp, hành pháp, tư  pháp chưa được thể  chế  đầy đủ, rõ ràng về 
phương diện pháp luật; chưa tạo sự  gắn kết, đồng bộ  giữa cải cách hành  
chính với cải cách lập pháp, tư pháp. Quốc hội nước ta là một thiết chế hoạt 
động không thường xuyên, đại biểu Quốc hội phần lớn kiêm nhiệm, không 
chuyên nghiệp, lại thiếu phương pháp, công cụ mang tính chuyên môn nên tác 
động của giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ, Toà án nhân dân 
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế. Việc thực hiện các hình 
thức giám sát như xem xét báo cáo, chất vấn tuy có tiến bộ nhưng về cơ bản  
vẫn đặt Quốc hội vào tình huống bị động trước những sự việc đã rồi.
­ Các hình thức giám sát mạnh như bỏ phiếu tín nhiệm, thành lập uỷ ban điều 
tra lâm thời tuy có quy định trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 
nhưng chưa được thực hiện trên thực tế. Vai trò của Toà án với tư  cách là 
trung tâm của hệ thống tư pháp thực hiện việc giám sát hành vi vi phạm pháp 
luật, giải quyết các xung đột trong xã hội chưa được đề  cao, nhất là trong 
việc phán quyết đối với cơ quan hành chính chưa đủ mạnh đế góp phần hạn 
chế vi phạm pháp luật của cơ quan này.
­ Tuy đã sớm thấy yêu cầu đổi mới và kiện toàn tổ  chức, bộ  máy, song chủ 
trương và tổ chức thực hiện không đồng bộ; thiếu những giải pháp đồng bộ, 


kiên quyết, kịp thời, hiệu quả nhằm đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu 
quả của bộ máy nhà nước, sắp xếp tổ chức, bộ máy không đi đôi với đổi mới  
thể  chế, chính sách, phương thức hoạt động nên kết quả  thực hiện bị  hạn 
chế. Đó là nguyên nhân khiến cho cơ cấu tổ chức, bộ máy lúc giảm, lúc tăng 
đầu mối, khi tách, khi nhập tổ chức bộ máy; biên chế ngày càng tăng.
­ Công tác quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chưa ổn 
định nên việc bố  trí, sử  dụng công chức vẫn theo tình huống, bị  động. Việc  

quản lý cán bộ, công chức chưa chuyển sang thực hiện quản lý nguồn nhân  
lực công vụ. Tình trạng chưa phù hợp giữa vị  trí công tác với ngạch chức  
danh công chức còn phổ biến: công chức giữ ngạch thấp nhưng lại làm công  
việc của ngạch cao và ngược lại, công chức  ở  ngạch cao nhưng lại không 
đảm đương được chức trách, nhiệm vụ của ngạch đó.
   3. Phương hướng chung
­ Xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam là một quá trình 
lâu dài, khó khăn và phức tạp, cần được tiến hành trên cơ  sở  phương hướng 
sau:
­ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lê chủ nghĩa xã hội (bổ 
sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội  
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Xây dựng Nhà nước Cộng  
hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai  
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do 
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo trên nền tảng chủ nghĩa Mác – lê Nin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh và kiên định con đường lê chủ nghĩa xã hội, đảm bảo tính 
giai cấp công nhân gắn bó với chặt chẽ  với tính dân tộc, tính nhân dân của 
Nhà nước ta, phát huy đấy đủ  tính dân chủ  trong mọi sinh hoạt của Nhàn 
nước, xã hội.
­ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải xuất phát  
từ yêu cầu, đòi hỏi của đất nước, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn 
hóa, chính trị và truyền thống dân chủ trong đất nước.
­ Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ  trong tổ chức và hoạt động của bộ 
máy nhà nước; phát huy tính dân chủ và vai trò của Nhà nước trong việc bảo 
đảm và thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân. Bảo đảm tất cả  quyền lực 
nhà nước thuộc về nhân dân.
­ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa Việt Nam phải bảo đảm  
giữ  vững định hướng xã hội chủ  nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Nhàn  
nước.



­  Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự  phân công, phối hợp và 
kiểm soát giữa các cơ  quan trong nước trong việc thực hiện các quyền lập  
pháp, hành pháp và tư pháp. Đề cao tính độc lập của cơ quan tư pháp đặc biệt 
trong việc bảo vệ quyền, tự đo của công dân.
­ Tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
­ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa Việt Nam phải bảo đảm  
nguyên tắc Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đối với nhà nước.
­ Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã  
hội chủ  nghĩa, quản lí xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, 
nâng cao đạo đức xã hội chủ  nghĩa. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức  
trong sạch có năng lực, trách nhiệm. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng 
trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị.
   4. Một số  biện pháp xây dựng, củng cố nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa ở nước ta
        Báo cáo chính trị  của ban chấp hành Trung  ương Đảng tại Đại hội đại 
biểu toàn quốc lần thứ XI, đã chỉ rõ:
­ Nâng cao nhận thức về  xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa. 
Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo 
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và nguyên tắc  
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự  phân công, phối hợp và kiểm soát 
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
­ Tiếp tục đổi mới và tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng:
   + Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội nhằm đẩy mạnh hoạt động 
tư  pháp, tăng cường công tác giám sát của Quốc hội tại kì họp Quốc hội và  
hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, tăng tỉ 
lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách; sắp xếp bộ  máy giúp việc của Quốc hội  
theo hướng tinh giảm về đầu mối, tăng cường cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ 
có trình độ cao.
     + Xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ  tịch nước để  thực 

hiện đầy đủ  chức năng nguyên thủ  quốc gia, thay mặt nhà nước về  đối nội, 
đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước 
với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
   + Cải cách nền hành chính nhà nước bao gồm: cải cách thể chế hành chính,  
cải cách thủ tục hành chính; cải cách tở chức bộ máy, quy chế hoạt động của  


hệ  thống hành chính;; hoàn thiện chế  độ  công vụ, công chức; thực hiện cải  
cách tài chính công.
   + Đổi mới tổ chức hoạt động của hệ thống các cơ  quan tư  pháp gồm: xây  
dựng, hoàn thiện hệ  thống pháp luật làm cơ  sở  cho hoạt động, tổ  chức của 
hệ thống các cơ quan tư pháp; xác định thẩm quyền của các Tòa án; thành lập 
các Tòa án chuyên trách khác hoàn thiện tổ  chức và hoạt động của các Viện 
kiểm sát, các cơ quan hỗ trợ tư pháp.
­ Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lí Nhà nước và thực hiện 
quy chế dân chủ ở cơ sở, cơ quan, tổ chức nhà nước.
­ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp  ứng yêu  
cầu trong tình hình mới bằng cách rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lí  
cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm  
quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch trách 
nhiệm của hoạt động công vụ.
­ Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng,  
lãng phí. 

III.  KẾ   HOẠCH   HOẠT   ĐỘNG   CỦA   BẢN   THÂN   SAU   KHÓA   BỒI 
DƯỠNG
1.

 Yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp đối với bản thân
Các yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp đối với bản thân:


  + Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, chân thành, gần gũi với mọi  
người. Đối xử  công bằng với tất cả  học sinh, được phụ  huynh học sinh tin  
yêu, quý mến.


  + Trung thực trong công tác; đoàn kết trong quan hệ đồng nghiệp; phục vụ 
nhân dân và học sinh.
  + Có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu đi đầu trong công tác. Tham gia 
nhiệt tình các hoạt động do địa phương, nhà trường tổ chức.
  + Luôn hoàn thành thành tốt nhiệm vụ được giao.
   + Không có những biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy, trong giáo dục và 
trong cuộc sống.
   + Không ngừng học tập nâng cao trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ  để  giáo  
dục thế  hệ  trẻ  trở  thành một công dân có ích cho đất nước, xây dựng đất 
nước ngày càng giàu mạnh.
  + Thực hiện việc kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh chính xác, đúng quy  
định.
   Đánh giá hiệu quả của hoạt động nghề  nghiệp của cá nhân trước khi 
tham gia khóa bồi dưỡng: là giáo viên luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 
và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mỗi năm học.
2.

Kế  hoạch hoạt động cá nhân sau khi tham gia khóa bồi dưỡng 

nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp như sau:
Sau khóa học này có ý nghĩa thiết thực giúp giáo viên nhìn nhận bản thân còn 
nhiều thiếu sót cần khắc phục; còn nhiều kiến thức, kinh nghiệm cần học  
hỏi thêm. Khóa học này còn mang đến những thông tin bổ ích về môi trường  
giáo dục tiên tiến của các quốc gia trên thế  giới. Bên cạnh đó, nhận thấy 

được những mặt hạn chế, khó khăn mà giáo dục Việt Nam đang đối diện để 
từ đó tìm ra cách giải quyết phù hợp.
­ Phối hợp với chính quyền địa phương, đoàn thể để chủ động hơn trong việc 
hưởng ứng các đổi mới của nhà nước đối với ngành và các lĩnh vực khác.
­ Vận dụng tốt những kiến thức được bồi dưỡng vào hoạt động giàng dạy.


­ Xem báo đài cập nhật thường xuyên các phương hướng đổi mới của nhà  
nước, tìm hiểu luật giáo dục, cơ  cấu của bộ  máy nhà nước để  thực hiện  
đúng.
­ Tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của bản 
thân.
­ Thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí  
Minh”, thi đua xây dựng “Trường học thân thịên, học sinh tích cực”.
­ Tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy, dạy học  ứng dụng theo công 
nghệ thông tin.
­ Thực hiện tốt quy chế chuyên môn, chương trình giảng dạy, nội quy, điều 
lệ trường tiểu học.
­ Phối hợp tốt với đồng nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ.
­ Giao lưu học tập các trường bạn.
­ Rèn luyện chữ viết.
­ Chỉ tiêu thi đua cá nhân:
  + Giáo viên giỏi cấp tỉnh.
  + Chiến sĩ thi đua cơ sở và chiến sĩ thi đua cấp tỉnh.
  + Xếp loại thi đua cuối năm: Tốt.
                                                                  

\
       


C. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
I. Nội dung kiến nghị
1.

Nội dung của các chuyên đề


­ Những nội dung phù hợp cần tiếp tục trang bị cho người học:
Qua thời gian học tập nhiều thú vi và bổ ích. Tôi nhận thấy cả 10 chuyên  
đề được bồi dưỡng đều rất cần thiết cho hoạt động giáo dục. Nội dung phù 
hợp đáp ứng được nhu cầu học tập của học viên.
­ Những nội dung cần điều chỉnh: không.  Nguyên nhân: đầy đủ.
2.

Hình thức tổ chức lớp học:

­ Việc bố trí thứ tự của các chuyên đề: chưa theo trình tự trong giáo trình.
­ Sĩ số học viên: 100 học viên.
­ Địa điểm tổ chức lớp học: trường Tiểu học Tân Thạnh.
­ Cách thức tổ chức, quản lý lớp: là cán bộ phòng giáo dục và đào tạo thị 
xã Tân Châu, Lớp trưởng: Thầy Hiệu Trưởng trường Tiểu học Tân Thạnh.
3.  Phân  công  giảng   viên  tham   gia  giảng   dạy:  Giảng  viên  tham  gia 
giảng dạy có trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình trong giảng dạy, không 
ngại đường sá xa xôi, đến dạy lớp đúng giờ và đầy đủ.
II. Đối tượng kiến nghị
1.

Đối với Trường Đại học An Giang
Tiếp tục duy trì lớp bồi dưỡng chức danh nghề  nghiệp để  đội ngũ 


giáo viên được học tập, bồi dưỡng.
2.

Đối với giảng viên hướng dẫn các chuyên đề
Giảng viên có trình độ  cao giảng dạy, cách truyền đạt dễ  hiểu, cách 

nói chuyện hài hước, vui tươi thu hút người học.
3.

Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo
Xem xét các trường hợp cụ thể để các em được thăng hạng nhằm tạo  

động lực cho các em hăng say với với nghề và tiến xa hơn, học lên cao hơn. 
Quan tâm, hướng dẫn các em trong các bước thay đổi của ngành. Thông báo 


×