Phần thứ nhất: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Lý do lý luận: Tiếng Anh là một môn học mới và lạ, dễ thu hút sự chú ý
của học sinh Tiểu học đặc biệt là các em ở khu vực vùng sâu, vùng xa, các em
học sinh người Êđê. Mặc dù các loại sách ngoại ngữ có chứa nhiều hình ảnh
minh họa sinh động và vốn từ ngữ gần gũi với từng lứa tuổi học sinh, nhưng
Tiếng Anh vẫn là một môn học khá bỡ ngỡ. Bước đầu học làm quen từ lớp 3
nhưng khi lên lớp 4, việc tiếp tục học Tiếng Anh đối với các em học sinh người
Êđê vẫn còn là một vấn đề nan giải, không tránh khỏi sự nhàm chán, mất tập
trung khi phải cố gắng nắm bắt kiến thức mới. Bên cạnh đó, các em còn phải
học cùng một lúc ba thứ tiếng(Tiếng Việt, Tiếng Êđê, Tiếng Anh) cho nên đã
gây không ít khó khăn trong quá trình dung nạp kiến thức, khó có được sự tập
trung chú ý trong tiết học.
Lý do thực tiễn: Điều tôi sắp nói ở đây không phải là một vấn đề mang
tầm tư duy thời đại, theo cách mà có thể làm thay đổi thế giới hoặc thay đổi một
nền giáo dục, nhưng không thể phủ nhận rằng, nó đang tác động đến tất cả các
giáo viên, một cách đơn giản, mỗi buổi sáng khi chúng ta bắt đầu một ngày với
công việc giảng dạy, điều khiến chúng ta cảm thấy mệt mỏi nhất đó là, học
sinh không tập trung chú ý khi giáo viên dạy.
Làm cho các em học lớp 4B, 4C chú ý tập trung nghe giảng trong tiết học
không phải là điều dễ dàng. Những năm đầu tiên khi tôi bắt đầu công việc giảng
dạy, tôi luôn tưởng tượng ra một viễn cảnh học sinh sẽ ngồi yên nắm bắt từng
lời giảng của giáo viên, nhưng ngay từ buổi học đầu tiên tôi đã cảm thấy vô
cùng căng thẳng khi mà một số học sinh đang cố gắng nghe giảng, ngược lại
một số em thì lại rất ồn ào, vì vậy tôi đã phải tìm đến nhiều biện pháp khác
nhau để truyền tải kiến thức đến các em.
Cần phải chú ý rằng, nhiều “chiến thuật” thực sự chỉ được thực hiện dựa
trên sự phù hợp với tính cách của giáo viên. Hãy hình dung bạn bước vào một
lớp học đông tới 30 học sinh ( hoặc đông hơn ) việc mà bạn cố gắng dành chút
sức lực cuối cùng của một ngày để quát lên “KEEP SILENT, PLEASE !!! ”
dường như không phải là điều lí tưởng, để giúp cải thiện tình trạng này, bản
thân tôi đã tiến hành thực nghiệm đề tài “Vài kinh nghiệm thu hút sự chú ý
trong giờ học Tiếng Anh đối với các em học sinh lớp 4 người Êđê”.
Đối tượng nghiên cứu: các em học sinh lớp 4B, 4C người Êđê.
Phạm vi nghiên cứu: PH1 Trường TH Ea Bông.
II. Mục đích nghiên cứu:
1
Nhằm tạo sự tập trung học, thu hút sự chú ý của các em học sinh lớp 4
người Êđê cũng như nâng cao chất lượng giảng dạy, cải thiện khả năng tiếp
nhận kiến thức, mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác dạy và học môn
Tiếng Anh cho học sinh lớp 4 người Êđê tại địa bàn trường Tiểu học Ea Bông là
mục đích chính của đề tài nghiên cứu này.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Làm thế nào để các em chú ý hơn trong giờ học? Đây không phải là việc
thực hiện được một cách dễ dàng. Những năm đầu tiên khi tôi bắt đầu công việc
giảng dạy, tôi luôn nghĩ rằng học sinh sẽ ngồi yên để tiếp thu, ghi nhận từng lời
giảng của giáo viên, nhưng ngay từ buổi học đầu tiên tôi đã cảm thấy nhận định
của mình không hề đúng, để có được một tiết dạy đúng như mong đợi, tôi đã
phải sử dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau.
Hình 1 Lí luận dạy học
Nhận thức về vai trò của ngoại ngữ và sự cần thiết của việc đổi mới dạy
và học ngoại ngữ chưa đầy đủ, chưa tạo động lực, mục tiêu phấn đấu cho học
sinh tiểu học. Các em thiếu động lực học, thụ động tương tác trong giờ học,
chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh mà chỉ học cho đủ
môn trong chương trình.
Là một giáo viên trước khi bạn bắt đầu bất cứ một bài học nào thì bạn
cũng phải chắc chắn rằng các học sinh trong lớp đang chú ý nghe bạn giảng
dạy. Đừng cố gắng dạy trong khi các học sinh đang ồn ào và không chú ý, điều
đó chỉ làm phí sức bạn mà thôi.
2
Nhà nước cũng như Bộ GDĐT đã phê duyệt rất nhiều đề án liên quan đến
dạy và học Tiếng Anh, trong đó có:
Quyêt đinh 1400/QĐTTg Quy
́ ̣
ết định số 1400/QĐTTg ngày 30/9/2008 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020".
Quyêt́ đinh
̣ 2658/QĐBGDĐT Quyết định số 2658/QĐBGDĐT ngày
23/7/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành kế hoạch triển khai Đề
án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 20172025.
II. Thực trạng vấn đề:
1. Thực trạng
Trường Tiểu học Ea Bông nằm tại vùng khó khăn của Huyện Krông Ana,
hầu hết học sinh là người Êđê cho nên việc giao tiếp bằng Tiếng Việt đối với
các em còn gặp rất nhiều khó khăn. Học sinh ở bậc tiểu học còn nhỏ nên tốc độ
viết – nói bằng Tiếng Việt của các em còn chậm. Đây là một lí do chủ yếu dẫn
đến việc hạn chế thời gian tổ chức các trò chơi.
Hạn chế về trang thiết bị dạy học, các hình thức tổ chức, các loại hình hoạt
động giao lưu bằng Tiếng Anh vẫn chưa được phổ biến.
Đa số phụ huynh và học sinh chưa ý thức được tầm quan trọng của môn
học này, vẫn cho rằng môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học là môn học tự chọn, các
em rất ít chú trọng học và chưa có sự tập trung cao trong việc học, nhất là phần
từ vựng.
Việc nhận biết mặt chữ Tiếng Việt đối với các em học sinh lớp 4 người
Êđê vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
1.1 Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi
Ban giám hiệu rất quan tâm đến công tác chuyên môn, coi chuyên môn là
một trong những ưu tiên hàng đầu trong hoạt động của nhà trường.
Bản thân là một giáo viên Tiếng Anh người Êđê, cho nên tôi hiểu được
những trở ngại khi các em giao tiếp bằng Tiếng Việt lẫn Tiếng Anh.
Khoảng cách giữa các trường Tiểu học trong địa bàn xã Ea Bông gần nên
việc dự giờ, trao đổi ý kiến chuyên môn với đồng nghiệp, nội dung các trò chơi
để vận dụng trong giờ dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học, cũng như cách thức tổ
chức và tiến hành dạy thực nghiệm có phần dễ dàng và thuận tiện hơn rất
nhiều.
3
* Khó khăn
Là trường có hơn 70% học sinh là dân tộc Êđê, đa số các em nói Tiếng Việt
chưa chuẩn, giao tiếp bằng Tiếng Việt còn hạn chế (sai thanh dấu).
Thiếu phòng học chuyên dụng để đáp ứng yêu cầu dạy 4 tiết/ tuần theo
chương trình của Bộ Giáo Dục, do đó việc thực hiện công tác dạy học Tiếng
Anh còn hình thức, chưa có điều kiện giảng dạy chuyên sâu.
Cha mẹ và các em học sinh người Êđê tại địa bàn trường đều chưa nhận
thức được tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh, vẫn xem Tiếng Anh như là
một môn phụ trong chương trình học, chưa chú trọng đầu tư , mua sắm sách vở
phục vụ học Tiếng Anh cho con em mình. Đây chính là bước cản lớn nhất trong
công tác dạy và học Tiếng Anh tại trường Tiểu học Ea Bông.
Trường TH Ea Bông chỉ có duy nhất một giáo viên Tiếng Anh nên việc dự
giờ trao đổi để tìm ra hướng mới trong công tác giảng dạy còn hạn chế.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Nhiều giáo viên mới vào nghề đôi khi nghĩ rằng cứ bắt đầu bài học thì học
sinh sẽ trật tự, chú ý nghe giảng thôi. Thế nhưng, không phải lúc nào cách này
cũng cho kết quả tốt, bởi lẽ nếu bạn không để tâm đến điều đó thì sẽ khiến cho
các em nghĩ rằng các bạn chấp nhận việc các em làm ồn và cho phép các em nói
chuyện khi các bạn giảng bài. Vậy phải làm sao để khắp phục tình trạng này?
Một gợi ý nhỏ đó chính là: giáo viên cần yêu cầu các em phải chú ý trước khi
bắt đầu bài học nhưng không phải bằng cách quát thật to hay mắng các em, bạn
hãy đứng yên đợi và không bắt đầu cho đến khi mọi người ngồi yên, trật tự.
Biện pháp đứng im không nói gì cả được đánh giá là khá hiệu quả. Thông
thường, bạn nên đợi sau khi cả lớp im lặng (khoảng 10 giây) rồi nói bằng giọng
điệu vừa đủ nghe.
Trước khi bạn bắt đầu bài học phải chắc chắn rằng tất cả các em học sinh
trong lớp chú ý nghe bạn giảng dạy. Đừng cố giảng dạy khi các em đang ồn ào
và không chú ý.
4
Hình minh họa
Đôi khi một số thầy cô ít kinh nghiệm nghĩ rằng cứ bắt đầu bài học thì lớp
sẽ chú ý thôi. Có thể cách này sẽ có kết quả, nhưng làm như thế các em nghĩ
rằng các bạn chấp nhận việc các em không tập trung và cho phép các em nói
chuyện khi các bạn giảng bài.
Dưới đây là một vài biện pháp giúp học sinh chú ý hơn trong giờ học Tiếng
Anh. Việc chúng ta sử dụng nó hiệu quả đến đâu còn phụ thuộc vào năng lực
giảng dạy, tính cách, sở thích, phong cách học tập và đối tượng học sinh.
Giải pháp 1: Sử dụng những trò chơi, câu chuyện kể liên quan đến nội
dung bài học kèm theo các bài hát, bài “chant” vào tiết học.
Trong chương trình đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay có khá nhiều
hình thức tổ chức tiết học rất hay chẳng hạn như: tổ chức trò chơi, thi đua tổ,
thi đua cá nhân, thảo luận nhóm… Với các hình thức tổ chức các tiết học như
vậy sẽ tạo không khí sôi nổi, hứng thú cho học sinh. Thông qua trò chơi, thảo
luận nhóm,.. sẽ thỏa mãn được nhu cầu chơi và giao tiếp của học sinh.
Việc sử dụng các trò chơi trong dạy học Ngoại ngữ nhằm thu hút sự chú ý
của học sinh trong giờ học là một nhiệm vụ quan trọng, giáo viên cần phải biết
vận dụng sao cho phù hợp, linh hoạt cho học sinh theo hình thức ” học mà chơi,
chơi mà học”. Tuy nhiên, tùy vào từng bài cụ thể mà giáo viên có thể chọn ra trò
chơi phù hợp với nội dung bài học.
5
Hình minh họa Trò chơi Slap the board
Chúng ta có thể sử dụng trò chơi “Slap the board” để kiểm tra từ vựng
hoặc củng cố kiến thức.
Ví dụ: Khi dạy Unit 13: Would you like some milk?
Giáo viên ghi các từ mới trong bài, dán lên bảng, sau đó gọi từng cặp học
sinh lên hoặc chia nhóm, giáo viên hô to từ bằng Tiếng Việt, các em học sinh sẽ
đập lên bảng vào từ bằng Tiếng Anh tương ứng, nhóm nào vỗ đúng và nhiều
hơn thì sẽ dành chiến thắng.
Ngoài ra, giáo viên còn có thể lồng ghép trò chơi Guessing game – hỏi đoán,
giáo viên cho học sinh mô tả để các em học sinh còn lại trong lớp đoán.
6
Hình minh họa Slap the board and guessing game
Đối với lứa tuổi thiếu nhi, thế giới cổ tích luôn là điều hấp dẫn nhất,
những câu huyện thần bí, những chi tiết li kì cùng những nhân vật hài hước,
những cô bé, cậu bé ngoan được các bà tiên giúp đỡ… các câu chuyện cổ tích
luôn có sức hút mạnh mẽ đối với tất cả trẻ em trong độ tuổi này. Các giáo viên
nên tận dụng điểm này để rèn cho các em thói quen trật tự, chú ý trong thời gian
dài. Những giờ rãnh rỗi hay tiết sinh hoạt lớp chính là thời điểm thích hợp để
giáo viên kể cho học sinh, hay cũng có thể lồng ghép vào các tiết học nếu như
câu chuyện có liên quan đến môn học đó.
7
Hình minh họa The Fairy tales
Mặt khác, giáo viên cũng có thể tổ chức cho các em đóng vai theo câu
chuyện để tạo sự phấn khích. Chắc chắn rằng quá trình này sẽ giúp các em có
thói quen tập trung chú ý trong khoảng thời gian lâu hơn. Thông qua đó, học sinh
giữ được trật tự trong suốt tiết học mà không bị gò bó hay gượng ép. Và một khi
đã khắp phục được tình trạng mất trật tự hay nói chuyện riêng trong giờ học thì
học sinh sẽ trở nên ngoan hơn, học tập tốt hơn, bài học được các em tham gia
trong sự nghiêm túc. Chính vì thế, chất lượng giáo dục sẽ ngày càng được cải
thiện.
Một phần cũng không thể thiếu trong giảng dạy Tiếng Anh đó là âm nhạc.
Tiết học có chứa âm điệu cộng hưởng cùng nhạc điệu sẽ làm kích thích sự chú
ý, tăng mức độ hào hứng học cho các em. Điều này không chỉ làm các em tích
cực học mà còn tạo ra được hiệu ứng tốt cho cả thầy lẫn trò trong mỗi tiết học.
8
Hình minh họa The Song and Chant
Giải pháp 2: Linh hoạt trong việc sắp xếp chỗ ngồi
Đối với bất cứ một cấp học nào, chọn chỗ ngồi trong lớp luôn được xem là
việc hết sức quan trọng đối với các em học sinh và nếu không sắp xếp một chỗ
ngồi thích hợp và khoa học cho HS thì có thể gây ra những hậu quả không mong
muốn. Bởi lẽ, điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng tập trung của các em
trong giờ học mà còn kéo theo nhiều yếu tố khác nữa. Tùy theo giới tính, cá tính,
năng lực học tập, thể chất của học sinh, giáo viên có thể xếp chỗ ngồi cho HS
theo các hướng sau:
Xếp những em hiếu động, hay nói chuyện riêng ngồi cũng dãy với những
em trầm tính, ngoan và không nói chuyện, các bàn đều xen kẽ nam và nữ( nhằm
bình đẳng giới, hạn chế HS làm việc riêng, dung hòa cá tính hiếu động của HS
nam).
Xếp theo nhóm đối tượng: học sinh giỏi ngồi một dãy, khá một dãy, trung
bình một dãy để dễ hoạt động hoặc giao bài vở theo nhóm cá thể hóa ( không để
9
HS biết cách chia theo nhóm trình độ để tránh gây mặc cảm cho em học
chưa tốt hoặc sự tự kiêu cho các em học giỏi)
Xếp học sinh khá, giỏi ngồi cùng các em trung bình và yếu: mục đích cho
các em học khá giỏi giúp đỡ, chia sẻ với bạn các câu hỏi, bài tập khó.
Giải pháp 3: Xây dựng nội dung bài giảng sao cho thật hấp dẫn, lôi
cuốn kết hợp lồng ghép tam ngữ trong giao tiếp(AnhViệtÊđê)
Nội dung học tập nhàm chán, thiếu hấp dẫn cũng là điều dễ khiến các em
chán nản, chỉ biết nói chuyện cho nhanh hết giờ. Để học sinh chú ý trong học
tập, không ồn ào gây mất trật tự thì trong các tiết học đòi hỏi ngườii giáo viên
phải thật sự nỗ lực và thật sáng tạo trong các bài giảng của mình. Nếu cứ gõ
thước và nhắc “ Các em im lặng đi, các em không được nói chuyện rồi gọi tên
liên tục: Duy, Nam, Bảo” thì sẽ không có hiệu quả mà ngược lại giáo viên sẽ
mất thời gian, từ đó có thể tạo thêm sự căng thẳng trong giờ học. Nếu giáo viên
biết kết hợp các hình thức, phương pháp dạy học một cách linh hoạt, mềm dẻo,
phù hợp thì sẽ thu hút học sinh chú ý hơn vào bài học, khắp phục được tình
trạng mất trật tự, nói chuyện riêng một cách nhanh chóng.
Hình 2 Vai trò của giáo viên đối với công tác dạy học
Tuy nhiên, nhiều giáo viên vẫn dạy theo kiểu cũ mà họ cho là an toàn,
không mất nhiều công sức soạn giảng cũng như hoạt động trong quá trình dạy.
Điều này dẫn tới những giờ học rập khuôn, máy móc, không có sự thay đổi hình
thức, điều này làm cho học sinh không có hứng thú học, thường là học để đối
phó, kết quả học tập không cao, học sinh luôn trong tình trạng bị động trong giờ
học. Nếu giáo viên chúng ta chưa chịu thay đổi, việc hướng tới một giờ học thu
hút theo phong cách ngoại ngữ sẽ vẫn là vấn đề nằm trên lý thuyết.
Giáo viên chúng ta vẫn còn áp dụng các PPDH, cách giải quyết vấn đề cơ
bản như là: Học sinh – Trật tự. Hoặc, giáo viên có xu hướng nói những câu
mệnh lệnh như: Stop! Be quiet!.
10
Ở một khía cạnh nào đó, những cách làm này vẫn nhận được kết quả là
học sinh tạm thời giữ được trật tự, nhưng sự chú ý không được lâu, theo thói
quen học sinh miệng thì trả lời: Trật tự nhưng sau đó lại nói chuyện riêng ngay
được. Kết quả là, dần dần học sinh chỉ trả lời như một thói quen mà không ý
thức được mình đang nói gì.
Một khía cạnh nữa, tôi muốn đề cập đến đó là việc sử dụng tam ngữ trong
quá trình dạy. Bản thân là người Êđê, hiểu được những trở ngại mà các em học
sinh gặp phải, nếu trường hợp các em không hiểu được nhanh nội dung bài thì
tôi vẫn sử dụng Tiếng Êđê để giải nghĩa cho các em hiểu nhưng với mức độ
vừa phải, không lạm dụng để mất đi tính chất của việc dạy học môn Tiếng
Anh.
Giải pháp 4: Sử dụng dụng cụ dạy học trực quan, ứng dụng công
nghệ thông tin
Theo quan điểm của tôi, tất cả các đồ dùng dạy học như loa, đài, máy
chiếu, máy tính và các phương tiện dạy học trực quan như tranh ảnh minh họa,
con rối, đồ vật thật đều thu hút sự chú ý cho học sinh trong giờ học. Việc sử
dụng đồ dùng trực quan, ứng dụng công nghệ thông tin là phương pháp gây sự
chú ý hiệu quả nhất trong việc giảng dạy Ngoại ngữ vì phương tiện trực quan
đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ giữa ngôn ngữ và ý
nghĩa, giúp học sinh liên tưởng được ý nghĩa của ngôn ngữ một cách dễ dàng, dễ
khắc sâu mà không cần phiên dịch.
Giáo cụ trực quan trong giảng dạy ngoại ngữ có thể chia làm ba loại: Giáo
cụ trực quan thị giác (giáo cụ “nhìn”): hiện vật, tranh ảnh, mô hình, bảng biểu,
đồ họa; giáo cụ trực quan thính giác (giáo cụ “nghe”): cát sét, máy ghi âm, loa;
giáo cụ tổng hợp: máy chiếu, phim ảnh, tivi, camera, phòng thực nghiệm ngôn
ngữ.
11
Hình minh họa Giáo cụ trực quan
Việc giảng dạy ngoại ngữ cần lấy thực tiễn làm cơ sở, sử dụng giáo cụ
trực quan một cách khoa học mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn.
Để phát huy vai trò của phương pháp ứng dụng giáo cụ trực quan trong giảng
dạy ngoại ngữ, cần chú ý một số vấn đề sau đây:
Một là, giáo cụ trực quan cần lưu ý lứa tuổi của người học
Hai là, lựa chọn giáo cụ trực quan căn cứ vào tính chất, nội dung bài giảng
Ba là, huy động cùng lúc nhiều giác quan vào việc học
Bốn là, phát huy hết mức vai trò chủ đạo của giáo viên
Năm là, ứng dụng giáo cụ trực quan cần hợp lý, có giới hạn
Với các chủ đề gần gũi, xác thực với cuộc sống trong bộ sách giáo khoa
Tiếng Anh tiểu học của Bộ giáo dục từ khối 3 đến khối 5, giáo viên có thể giới
thiệu từ mới thông qua đồ dùng trực quan như hình ảnh hay đồ vật thật.
Ví dụ: Khi dạy Unit 12: What does your father do?
Giáo viên có thể sử dụng những tấm hình chụp thật và giới thiệu: My
mother is a teacher.; My father is a factory worker; My sister is a clerk; My
brother is a farmer.
Sau đó giáo viên có thể dùng máy chiếu để chiếu lại các đồ vật bị khuyết
để học sinh nhắc lại từ vựng trong bài đã học. Tuy nhiên không phải lúc nào
cũng có sẵn đồ vật thật ở trên trường cho nên giáo viên phải chuẩn bị tranh ảnh
minh họa kèm theo. Trong bộ sách giáo khoa Tiếng Anh mới, hình ảnh được đưa
ra giới thiệu rất sẵn, sống động và là hình ảnh thật trong cuộc sống. Vì vậy,
giáo viên không những phải biết khai thác và sử dụng một cách triệt để mà còn
12
phải sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các tranh ảnh này. Đây là cách dạy
nhẹ nhàng và dễ hiểu nhất đối với các em học sinh Tiểu học, nó vừa khêu gợi trí
tò mò, sự chú ý cũng như mang lại hiệu quả tối đa cho mỗi tiết học Tiếng Anh.
Ví dụ: khi dạy Unit 19: What animal do you want to see?
Giáo viên có thể dùng tranh trong sách hoặc phóng to các bức tranh lên giấy
rôki và treo lên bảng nhằm tạo sự chú ý của các em, sau đó đưa ra các câu hỏi
gợi mở về chủ đề bài học.
GV: Em hãy nhìn vào tranh và cho cô biết về đặc tính của những con vật
này.
HS:
Giáo viên đưa ra chủ đề: animal do you want to see
Ngoài việc sử dụng đồ dùng trực quan để giới thiệu từ mới, chủ đề hay
tình huống của bài, giáo viên có thể sử dụng lại chúng để củng cố bài học nhằm
giúp học sinh khắc sâu nội dung của bài và học sôi nổi hơn.
Ví dụ: sau khi dạy xong Unit 12, giáo viên có thể sử dụng tranh để củng cố
lại từ mới cũng như kiến thức mà các em đã học trong bài bằng cách: Giáo viên
treo các bức tranh nói về gia đình và công việc.
Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh gấp sách vở lại, nhìn vào tranh và nói về
nghề nghiệp.
Ví dụ: Picture a: My mother is a nurse.
Picture b: My brother is a worker.
13
Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi thấy các giáo cụ trực quan luôn làm cho
tiết học trở nên sôi nổi, học sinh chú ý học hơn, đạt hiệu quả cao và gây hứng
thú học hơn cho học sinh.
Giải pháp 5: Sử dụng hình thức dạy học “mở” pha chút “hài hước”
trong tiết học
Có một định lý trong giáo dục học là: Tâm trạng của học sinh khi học ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng tiếp thu và kết quả học tập.
Trạng thái tâm lý thuận lợi cho việc học là: thoải mái, vui vẻ, phấn khích,
tập trung. Học mà vui sướng, tập trung và hăng say như là đang được chơi một
trò thú vị, là học nhanh vào nhất. Ngược lại, nếu rơi vào một trong các trạng thái
như hoang mang, sợ hãi, cáu kỉnh, bực bội, buồn chán, lơ đãng thì sẽ khó dung
nạp được kiến thức.
Ảnh minh họa
Theo bài báo nhan đề “Humour as means to make mathematics enjoyable”
của Shmakov & Hannula (Univ. of Turku, Finland):
One “fundamental principle of human behavior is that emotions energize and
organize perception, thinking and action” (Ref: Izard, The psychology of
emotions, N.Y.: Plenum Press, 1991). Research has confirmed a positive
relationship
between positive affect and
achievement. It
seems that the affective
outcomes are most
important during the first
school years, as
they are less likely to be
altered later on.
Two key elements of a
desired affective
disposition are self
confidence and
motivation to learn (Ref:
Hannula, Affect in
Mathematical Thinking
and learning. In: J. Maaß & W. Schlöglmann eds., New mathematics education
research and practice, 2006).
Nhiều phương pháp giáo dục cổ điển chỉ chú trọng đến phần kiến thức,
nhồi nhét kiến thức, mà không quan tâm đến tâm lý học sinh.
14
Các phương pháp giáo dục hiện đại đang chú ý hơn đến việc làm sao cho
học sinh “học mà phấn khởi như chơi”, nhằm tăng hiệu quả của quá trình tiếp
thu kiến thức. Một trong các phương pháp đó thậm chí có tên rất ngộ là CheCha
(viết tắt của hai chữ Cheerful và Challenging gép lại với nhau), được giới thiệu
trong bài báo có nhắc tới phía trên của Shmakov & Hannula. Phương pháp
CheCha dựa trên các câu truyện tranh ảnh hài hước và các “riddles” (bài toán đố)
cũng như các trò chơi để kích thích trí tò mò của học sinh, và tạo không khí vui
vẻ trong quá trình học.
Những giáo viên luôn tìm kiếm những cách thức vui nhộn, hài hước để tạo
động lực cho học sinh. Chúng ta cũng biết rằng ở các trường Sư phạm giáo viên
thường không được lựa chọn hay được đào tạo để trở thành một “diễn viên hài.
Tuy nhiên, một không khí tích cực học tập và sự hứng thú học có mối liên hệ
mật thiết với năng lực ghi nhớ thông tin và khả năng ứng dụng kiến thức vào
mọi tình huống của cuộc sống hàng ngày (bao gồm cả các bài kiểm tra).
Hình 3 Ý nghĩa của phương pháp dạy học “mở” và pha chút “hài hước”.
Nhưng trên hết, hài hước mang đến cảm giác thoải mái và dễ chịu, tạo sự
đồng cảm, những trải nghiệm tích cực liên quan đến cảm xúc mà học sinh chia
sẻ với giáo viên và các bạn cùng lớp.
Đôi khi những tiếng cười lại giúp "kéo" mạch lớp học trở lại như cũ. Tuy
nhiên, nhiều GV nhầm lẫn giữa những câu hỏi hài hước với lời châm chọc.
Trong khi sự hóm hỉnh có thể nhanh chóng "hóa giải" tình huống sư phạm thì lời
mỉa mai có thể làm tổn thường mối quan hệ của giáo viên với học sinh. Hãy
dùng việc đánh giá tối ưu nhất nhưng giáo viên phải có sự tinh tế bởi lẽ, điều
học trò này nghĩ là vui thì có thể học trò kia lại nhận thấy bị xúc phạm. Do đó,
giáo viên phải thực sự khéo léo khi sử dụng biện pháp này.
Việc đưa ra phương pháp học “mở” sẽ giúp học sinh tự tin hơn khi thể
15
hiện bản thân, vừa phát huy được cá tính của học sinh, vừa giúp cho giáo viên
nhận diện đối tượng học sinh, thông qua đó có sự linh hoạt hơn trong phương
pháp dạy để đạt hiệu quả tốt nhất trong môn học.
IV. Tính mới của giải pháp:
Tính cho đến thời điểm hiện tại( đã gần hết học kì) thì tình hình học tập
của các em đã có nhiều tiến triển, hầu hết các em đã chú ý trong giờ học hơn,
khắc sâu kiến thức hơn cũng như lĩnh hội kiến thức một cách linh hoạt hơn, phát
huy được tính tích cực trong giờ học Tiếng Anh.
Hình 4 Các hình thức dạy học
Có một bộ phận không nhỏ giáo viên vẫn lựa chọn các hình thức truyền
thống để duy trì sự chú ý của học sinh với tâm lý e ngại sự thay đổi, sợ mất thời
gian khi thực hiện. Giáo viên có thể đạt được một phần nào đó mục đích của
mình nhưng lại không thỏa mãn được yêu cầu đổi mới cho chính môn học mà
mình đang dạy, không kích thích được sự năng động, sáng tạo của học sinh và
trên hết chưa tạo ra được không khí một giờ học ngoại ngữ đặc trưng. Đây là
một trong những hạn chế được đưa ra từ thực tế dạy học.
Bản thân tôi nhận thấy rằng, phần lớn các giờ học Tiếng Anh ở trường
Tiểu học vẫn tồn tại kiểu duy trì sự tập trung, chú ý của học sinh bằng các biện
pháp truyền thống như: giáo viên gõ thước lên bảng hoặc lên bàn, quát to.
Đối với giáo viên, cứ nhắc nhở học sinh mãi như vậy mà học sinh không
thay đổi nhiều, dẫn tới nhiều lúc mất kiểm soát mà quát mắng học sinh, bản
thân mình cũng ức chế mà học sinh thì căng thẳng. Quan trọng hơn cả là không
khí lớp học chưa thể hiện được phong cách của một giờ ngoại ngữ đặc trưng,
do vậy chưa thu hút được sự chú ý học tập của học sinh hiệu quả. Giáo viên vẫn
chưa có thói quen sử dụng một câu chuyện hay một trò chơi làm chủ đề xuyên
suốt một giờ học. Các hoạt động trong bài sẽ được thiết kế theo mạch của câu
chuyện để tạo ra sự lôi cuốn.
V. Hiệu quả SKKN:
16
Qua quá trình giảng dạy thực tế ở hai lớp 4B, 4C và sau khi áp dụng các
biện pháp thu hút sự chú ý của các em học sinh lớp 4 người Êđê vào các tiết học
Tiếng Anh, tôi thấy có hiệu quả rõ rệt:
Thứ nhất, tâm sinh lý của các em về môn học đã có sự thay đổi rõ rệt, các
em học sinh ở hai lớp này đã chú ý hơn trong giờ học, đa số các em đã thể hiện
tinh thần học tập một cách chủ động hơn. Những giáo viên kiên trì áp dụng các
biện pháp này đều thu được các kết quả khả quan. Bản thân người giáo viên
như tôi cũng linh hoạt hơn trong việc sử dụng các phương pháp giảng dạy, do
đó, chất lượng giảng dạy cũng được nâng cao hơn rất nhiều.
Chưa áp dụng các phương
Đã áp dụng các phương pháp
pháp thu hút sự chú ý
thu hút sự chú ý
( cuối kì I 20182019)
(giữa kì II 20182019)
4B: 20 HS
T
H
C
T
H
C
MĐHT
SL % SL % SL
%
SL
%
SL
%
SL %
3 15 16 80
1
5
6
30
14
70
0
0
4C: 18 HS
T
H
C
T
H
C
MĐHT
SL % SL % SL
%
SL
%
SL
%
SL %
1 5.6 16 89
1
5.4
3 16.7 15 83.3 0
0
Hình 5 Kết quả thực nghiệm thu được
Lớp
Thứ hai, điều quan trọng hơn cả là kết quả học tập của các em tiến bộ theo
từng tuần. Các biện pháp này có sức hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, gây hứng thú
cũng như thu hút sự chú ý của các em trong mỗi tiết học, giúp cho giáo viên
truyền đạt kiến thức một cách hiệu quả.
Phần thứ ba: PHẦN KẾT LUẬN
I. Kết luận
Thông qua sáng kiến này, các giáo viên ngoại ngữ đã tạo được không khí
thoải mái, giờ học nhẹ nhàng kích thích sự sáng tạo và phát triển tư duy cho học
sinh, nhưng thực tế giảng dạy cho thấy vô hình họ bị chi phối bởi cách đứng lớp
của giáo viên cơ bản về tác phong, thái độ. Bên cạnh đó, ngay bản thân nhiều
giáo viên ngoại ngữ cũng không tự thay đổi mình, không ít người cho rằng thân
thiện quá sẽ khiến học sinh “nhờn mặt”, dẫn đến tiếng nói của giáo viên không
còn có uy nữa. Quan sát thái độ của thầy cô giáo người nước ngoài trong khi
giảng dạy, chúng ta có thể thấy rằng họ luôn khen ngợi, động viên học sinh ngay
cả khi học sinh nói hoặc làm chưa đúng, luôn sử dụng óc hài hước để giải quyết
vấn đề trong giờ học để tạo cảm giác thân thiện, cởi mở với học sinh khiến học
sinh không sợ học. Điều này không phải giáo viên người Việt nào dạy Tiếng
Anh cũng làm được.
17
Bài học kinh nghiệm: Khi sử dụng các biện pháp thu hút sự chú ý trong
giờ học Tiếng Anh, giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:
Sử dụng các biện pháp phải lưu ý tới thời gian.
Sử dụng các hình thức, trò chơi phải đúng mục đích, tình huống, lôgic của
từng bài dạy cụ thể, phải phù hợp với khả năng của giáo viên, môi trường học
tập, sinh hoạt thực tế của học sinh.
Tránh lạm dụng Tiếng Êđê khi sử dụng tam ngữ trong giảng dạy bộ môn
Tiếng Anh.
II. Kiến nghị
Sau khi thực hiện đề tài vài kinh nghiệm thu hút sự chú ý trong giờ học
Tiếng Anh đối với các em học sinh lớp 4 người Êđê, tôi xin kính đề xuất một vài
ý kiến như sau:
Về phía Nhà trường: Cần đầu tư hơn nữa các trang thiết bị dạy học môn
Tiếng Anh như phòng học chuyên dụng, tạo điều kiện áp dụng và phát triển các
biện pháp trên vào công tác dạy học để các em học sinh có đam mê học loại
ngôn ngữ thứ ba này hơn.
Về phía giáo viên: cần áp dụng linh hoạt các phương pháp để nâng cao hơn
nữa chất lượng đại trà môn Tiếng Anh.
Về phía thôn buôn và chính quyền địa phương: Phối hợp tốt cùng nhà
trường, địa phương và cha mẹ học sinh trong giáo dục ý thức về tầm quan trọng
của việc theo học TA Tiểu học, duy trì sĩ số cũng như động viên, khuyến khích
các em theo học cho đúng, đủ chương trình đề ra.
Về phía Cha mẹ học sinh: Thay đổi nhận thức về môn Tiếng Anh, quan tâm
hơn đến việc mua sắm sách vở, duy trì hoạt động đến trường của con em mình.
Trên đây là một số kinh nghiệm cũng như quan điểm của cá nhân tôi trong
quá trình giảng dạy, đặc biệt là một số phương pháp thu hút sự chú ý trong giờ
học Tiếng Anh. Vì sáng kiến có phạm vi rộng nhưng thời gian nghiên cứu còn
hạn chế nên chưa minh họa hết được nội dung cũng như các khía cạnh của đề
tài. Rất mong đồng nghiệp cùng hội đồng nghiệm thu sáng kiến góp ý thêm để
sáng kiến của tôi được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ea Bông, ngày 25 tháng 03 năm 2019
NGƯỜI THỰC HIỆN
18
H’ Bé Ya Hđơk
NHẬN XÉT HĐKH TRƯỜNG TIỂU HỌC EA BÔNG
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
P. CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN
Trần Năng Hiếu
NHẬN XÉT CỦA HĐKH HUYỆN KRÔNG ANA
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Super Mind của Cambridge.
2. Giáo trình, Phần mềm SmartStart level 4.
3. Sách giáo khoa, bài tập Tiếng Anh 4 Nhà xuất bản Giáo Dục Việt
Nam( Macmillan Education).
4. Sách giáo viên Tiếng Anh 4 Nhà xuất bản Giáo Dục Việt
Nam( Macmillan Education).
5. Trang chủ Đề án ngoại ngữ Quốc gia.
6. Trang web học Tiếng Anh cho trẻ em Little Fox.
7. Kênh ChuChu TV, Super Simple Song, PinkFong TV.
8. Trang Web isl.worksheet.com.
9. Từ điển Êđê Việt của Ban tuyên giáo Tỉnh Đăk lăk.
20