Tải bản đầy đủ (.pdf) (262 trang)

Luận án Tiến sĩ Sử học: Hội quán người Hoa ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.17 MB, 262 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỤY HỒNG YẾN

HỘI QUÁN NGƢỜI HOA Ở NAM BỘ
TỪ CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA
THẾ KỶ XX
Ngành: Lịch Sử Việt Nam
Mã số: 9229013

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. NGÔ MINH OANH
2. TS. PHẠM THỊ THU NGA

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công
bố trong bất cứ một công trình nào./.
Tác giả luận án

LÊ THỤY HỒNG YẾN


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI
NIỆM, THUẬT NGỮ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ............................................. 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................................. 8
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ............................ 23
1.3. Thuật ngữ liên quan đến đề tài ............................................................................... 25
CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI NAM BỘ VÀ
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA HỘI QUÁN NGƢỜI HOA
Ở NAM BỘ .................................................................................................................. 32
2.1. Khái quát về vùng đất, con ngƣời Nam Bộ ............................................................ 32
2.2. Quá trình di cƣ của ngƣời Hoa đến Nam Bộ.......................................................... 35
2.3. Sự hình thành và phát triển của hội quán ngƣời Hoa ở Nam Bộ ........................... 51
CHƢƠNG 3: HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI QUÁN NGƢỜI HOA Ở NAM BỘ TỪ
CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XX .................................................... 72
3.1. Hoạt động của hội quán ngƣời Hoa ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XVIII đến năm 1945 . 72
3.2. Hoạt động của hội quán ngƣời Hoa ở Nam Bộ từ năm 1945 đến năm 1963.................. 97
CHƢƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT, VAI TRÕ CỦA HỘI QUÁN ĐỐI
VỚI CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA Ở NAM BỘ ..................................................... 115
4.1. Đặc điểm, tính chất của hội quán ngƣời Hoa ở Nam Bộ ..................................... 115
4.2. Vai trò của hội quán đối với cộng đồng ngƣời Hoa ở Nam Bộ ........................... 118
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 130
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ............................................... 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 136
PHỤ LỤC .........................................................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự trỗi dậy và hoạt động di dân của Trung Quốc hiện nay thì việc
nghiên cứu về ngƣời Hoa cần phải đƣợc quan tâm nghiêm túc và có tính hệ

thống. Việc ứng xử với cộng đồng ngƣời Hoa ra sao, có những chính sách nào
phù hợp đều cần phải dựa trên cơ sở hiểu rõ về cộng đồng này. Ở Việt Nam,
Nam Bộ là nơi có đông ngƣời Hoa sinh sống nhất, đặc biệt là vùng đất Sài
Gòn – Chợ Lớn chiếm 50% ngƣời Hoa cả nƣớc và 60% ngƣời Hoa của vùng
đất phƣơng Nam, điều này đang tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức đối với vấn đề
an ninh, phát triển và hội nhập. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về ngƣời Hoa
nói chung có ý nghĩa cấp thiết cao.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, do có những đặc thù
về mặt địa lý, đồng thời chịu những ảnh hƣởng về điều kiện chính trị, xã hội
của khu vực và quốc tế, cho nên Việt Nam là nơi diễn ra sự đan xen, giao thoa
giữa các nền văn hóa, tộc ngƣời; trong đó nhân tố ngƣời Hoa nổi lên thƣờng
xuyên và có ảnh hƣởng lớn. Từ rất sớm, ngƣời Hoa đã có mặt ở Việt Nam với
số lƣợng khá đông đảo. Từ cuối thế kỷ XVII, những nhóm lƣu dân ngƣời Hoa
đã đến Đàng Trong và dần dần trở thành một bộ phận của cƣ dân Việt Nam.
Trƣớc những khó khăn, thách thức phải đối mặt ở vùng đất mới, cộng đồng
ngƣời Hoa đã thành lập các hội quán để hỗ trợ, giúp đỡ nhau, đồng thời qua
đó tăng thêm sự cố kết lẫn nhau trong cộng đồng. Hội quán của ngƣời Hoa
đƣợc thành lập với chức năng là nơi dành cho các hiệp hội theo ngôn ngữ hay
theo xuất xứ. Hội quán là hình thức cổ truyền quan trọng nhất của cộng đồng
ngƣời Hoa trong quá trình thích nghi tại Đông Nam Á nói chung và tại Việt
Nam nói riêng. Do vậy, có thể khẳng định hội quán ngƣời Hoa là một đối
tƣợng nghiên cứu về đề tài ngƣời Hoa nói chung.
Từ trƣớc đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài ngƣời
Hoa xoay quanh vấn đề định cƣ, tôn giáo, tín ngƣỡng, chùa chiền, các lĩnh
vực sinh hoạt kinh tế, thƣơng mại, chính sách của các chính quyền…, nhƣng
chƣa có một công trình riêng biệt, chuyên sâu nào nghiên cứu về hội quán
1


ngƣời Hoa ở Nam Bộ. Vì vậy, việc chúng tôi nghiên cứu hội quán ngƣời Hoa

ở Nam Bộ với một cách nhìn toàn diện, hệ thống, qua đó làm rõ quá trình
hình thành, cơ cấu tổ chức, hoạt động và vai trò của hội quán đối với cộng
đồng ngƣời Hoa ở Nam Bộ là việc làm có ý nghĩa thiết thực, đóng góp vào cơ
sở khoa học và thực tiễn.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Hội quán người Hoa ở
Nam Bộ từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX” để nghiên cứu và làm luận
án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là nhằm hiểu rõ hơn cộng đồng
ngƣời Hoa ở vùng đất Nam Bộ đó là sự hình thành và phát triển, cơ cấu tổ
chức, hoạt động, đặc điểm, tính chất, vai trò của hội quán; từ đó, cung cấp cơ
sở khoa học để góp phần giúp chính quyền có những chủ trƣơng, chính sách
phù hợp đối với cộng đồng ngƣời Hoa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Trình bày quá trình di cƣ của ngƣời Hoa từ cuối thế kỷ XVII và sự
định cƣ của ngƣời Hoa ở vùng đất Nam Bộ.
- Phục dựng quá trình hình thành của các bang, hội quán ngƣời Hoa ở
Nam Bộ.
- Làm rõ các hoạt động của hội quán ngƣời Hoa ở Nam Bộ, từ cơ cấu tổ
chức, quản lý đến kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Khẳng định vai trò của hội quán đối với cộng đồng ngƣời Hoa ở Nam Bộ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án xác định đối tƣợng nghiên cứu của mình là các hội quán ngƣời
Hoa ở vùng đất Nam Bộ.

2



3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: luận án tập trung tìm hiểu các hội quán ngƣời
Hoa ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX.
Mốc thời gian mở đầu là vào năm 1787, Chúa Nguyễn Phúc Ánh cho
lập bốn bang ngƣời Hoa, bao gồm: Quảng Châu, Phúc Kiến, Triều Châu và
Hải Nam nhằm đơn giản hóa các thủ tục hành chính, dễ dàng trong việc kiểm
soát và thu thuế mau lẹ [102, tr.36-37]. Tiếp đó, vào năm 1790, Chúa Nguyễn
Ánh lập ra “phủ” với các chức Cai phủ, Ký phủ để tổ chức, quản lý ngƣời
Hoa di trú ở Gia Định [111, tr.34].
Mốc thời gian kết thúc là vào ngày 10/6/1960, Tổng thống Ngô Đình
Diệm đã ra “Sắc lệnh số 133-NV (gồm 8 điều) quyết định giải tán các Lý sự
Hội quán Trung Hoa và các Bang Á kiều khác”. Sau đó, Thủ tƣớng chính phủ
lâm thời Sài Gòn là Nguyễn Ngọc Thơ tiếp tục ban hành “Sắc lệnh số 39-TTP
ngày 23/12/1963 sửa đổi sắc lệnh số 133-NV ngày 10/6/1960 về việc giải tán
các Lý sự Hội quán Trung Hoa và các Bang Á kiều khác”.
Phạm vi về không gian: luận án nghiên cứu trên một phạm vi không
gian khu vực Nam Bộ. Vùng đất Sài Gòn – Chợ Lớn là một trong những địa
phƣơng có ngƣời Hoa cƣ trú lâu đời và chiếm số lƣợng đông đảo nhất; nơi
đây vẫn còn bảo lƣu nhiều hội quán với các đặc điểm cơ cấu tổ chức, các hoạt
động văn hóa, xã hội, kiến trúc, nghệ thuật… cũng nhƣ các yếu tố đặc trƣng
văn hóa của tộc ngƣời Hoa. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
chọn Sài Gòn – Chợ Lớn làm địa bàn nghiên cứu chính, đồng thời tiến hành
khảo sát ở các địa phƣơng còn lại của vùng đất Nam Bộ để có cái nhìn tổng
quan về hội quán của ngƣời Hoa.
Phạm vi nội dung nghiên cứu: chúng tôi xác định đây là vấn đề vừa
rộng vừa khó, do vậy khuôn khổ luận án chỉ tập trung giải quyết một số vấn
đề chính là: quá trình hình thành, cơ cấu tổ chức, các hoạt động và vai trò của
hội quán đối với cộng đồng ngƣời Hoa ở vùng đất Nam Bộ.


3


4. Phƣơng pháp luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi dựa trên phƣơng pháp luận
chủ yếu là phƣơng pháp luận Sử học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng hai phƣơng pháp chính là phƣơng pháp lịch sử và
phƣơng pháp logic.
Phƣơng pháp lịch sử: giúp chúng tôi phân tích vấn đề theo lịch đại và
phân kỳ (khi trình bày bối cảnh quá trình di dân và định cƣ của ngƣời Hoa ở
vùng đất Nam Bộ, sự hình thành các hội quán ở vùng đất này theo trình tự thời
gian và có tính liên tục. Phƣơng pháp này cho thấy đƣợc sự chuyển biến của hội
quán từ khi ở Trung Quốc ra hải ngoại; ở Việt Nam thì từ khi giai đoạn Hội An
đến Sài Gòn – Chợ Lớn biến đổi ra sao), theo đồng đại (tìm ra sự tƣơng tác của
hội quán đối với ngƣời Hoa ở Nam Bộ cũng nhƣ giữa các Hội quán với nhau).
Phƣơng pháp logic: đảm bảo cho các sự kiện đƣợc kết nối với nhau trong
mối tƣơng quan vốn có và cùng hƣớng tới mục đích chúng tôi đặt ra từ đầu là
nhằm hiểu rõ hơn cộng đồng ngƣời Hoa ở Nam Bộ thông qua việc nghiên cứu về
hội quán.
Trong từng chƣơng, mục nhất định mà nổi lên phƣơng pháp lịch sử hay
phƣơng pháp logic, hoặc có sự kết hợp cả hai phƣơng pháp trong từng nội
dung nghiên cứu.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
Phƣơng pháp phân tích – phê khảo sử liệu: giúp chúng tôi hệ thống hóa
các loại tài liệu và đánh giá tính khả thi cũng nhƣ vai trò của từng loại tài liệu
khi thực hiện đề tài.

Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: làm sáng rõ hơn hội quán ngƣời Hoa ở
Nam Bộ so với hội quán ngƣời Hoa ở những nơi khác.
Phƣơng pháp nghiên cứu trƣờng hợp cụ thể: giúp chúng tôi chọn ra
những địa phƣơng mang tính đặc trƣng nhất khi nghiên cứu hội quán ngƣời
4


Hoa ở Nam Bộ (nơi mà ngƣời Hoa sinh sống với mật độ dân cƣ lớn, tập
trung) nhƣ: Đồng Nai, Mỹ Tho và đặc biệt là Sài Gòn – Chợ Lớn.
Phƣơng pháp điền dã: việc sử dụng tƣ liệu gốc văn bia, tƣ liệu địa
phƣơng là một trong những phƣơng pháp không thể thiếu. Chúng tôi đã tiến
hành khảo sát điền dã để tìm, dịch và phân tích tƣ liệu liên quan đến đề tài
luận án.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
nhƣ phƣơng pháp nghiên cứu dân tộc học, phƣơng pháp xã hội học, phƣơng
pháp nghiên cứu văn hóa (nhất là văn hóa tộc ngƣời)… để giải quyết những
mục tiêu, nhiệm vụ luận án đặt ra.
4.3. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi dựa trên 3 nguồn tƣ liệu:
Thứ nhất là tƣ liệu gốc: chúng tôi khai thác các thông tin về ngƣời Hoa
ở vùng đất Nam Bộ từ các bộ chính sử nhƣ Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất
thống chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Gia Định thành thông chí. Bên
cạnh đó, chúng tôi cũng xúc tiến khai thác những văn bản gốc liên quan đến
các chính sách, quyết định bổ nhiệm của chính quyền, báo cáo về một số hoạt
động của ngƣời Hoa, hội quán ngƣời Hoa dƣới thời Pháp thuộc và dƣới thời
chính quyền Sài Gòn (chủ yếu thời Ngô Đình Diệm) đƣợc lƣu trữ trong Trung
tâm lƣu trữ Quốc gia II, Thƣ viện Khoa học Tổng hợp (thuộc tƣ liệu hạn chế).
Thứ hai là những công trình nghiên cứu, các tài liệu viết chuyên đề về
ngƣời Hoa xuất bản trong và ngoài nƣớc cùng nhiều bài viết đăng trên các tạp
chí chuyên ngành nhƣ Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu lịch sử, Xƣa và

Nay, Khoa học xã hội, Việt Nam khảo cổ tập san, Dân tộc học…, các bộ địa
chí, lịch sử địa phƣơng… đều đƣợc chúng tôi xem xét, khai thác một cách
thích hợp để phục vụ cho công trình nghiên cứu của mình.
Thứ ba là chúng tôi tiến hành công tác điền dã, khảo sát hội quán
ngƣời Hoa ở các tỉnh Nam Bộ. Chúng tôi tiến hành dịch thuật một số văn
bia, lƣ hƣơng, chuông đồng đƣợc lƣu giữ trong các hội quán ngƣời Hoa để
xác định đƣợc năm thành lập, trùng tu hội quán… Ngoài ra, chúng tôi còn
5


gặp gỡ, trao đổi với một số ban ngành ở địa phƣơng, những ngƣời trong
Ban quản trị hội quán.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hóa các công trình nghiên cứu khoa học
của các tác giả đi trƣớc liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi kế thừa có chọn
lọc và phát triển, hoàn thiện nội dung khoa học, từ đó đƣa ra những luận điểm
của mình về vấn đề nghiên cứu. Luận án có những đóng góp mới nhƣ sau:
Thứ nhất, luận án hệ thống hóa tƣ liệu về ngƣời Hoa nói chung và hội
quán ngƣời Hoa ở Nam Bộ nói riêng.
Thứ hai, luận án góp phần bổ sung vào những khoảng trống về các hoạt
động của hội quán ngƣời Hoa ở khu vực Nam Bộ, từ cơ cấu tổ chức đến các
hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, từ đó giúp tái hiện bức tranh tổng thể, toàn
diện về hội quán ngƣời Hoa. Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu, luận án làm
rõ đặc điểm, tính chất và vai trò của hội quán đối với cộng đồng ngƣời Hoa ở
Nam Bộ.
Thứ ba, luận án góp thêm luận cứ khoa học làm cơ sở để chính quyền
có những chủ trƣơng, chính sách phù hợp với cộng đồng ngƣời Hoa trong
thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nƣớc, góp phần vào sự đoàn kết
dân tộc.
Thứ tư, luận án sẽ có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy

và học tập của sinh viên ngành lịch sử, ngành văn hóa học, các ngành thuộc
khoa học xã hội và nhân văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho các cơ quan, ban ngành chức năng trong việc đề ra chủ trƣơng, chính sách
phù hợp đối với ngƣời Hoa nhằm bảo tồn văn hóa truyền thống tộc ngƣời,
tăng cƣờng đoàn kết gắn bó với cộng đồng, phát huy các tiềm năng và thế
mạnh của ngƣời Hoa vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua công trình nghiên cứu, luận án đóng góp thêm tƣ liệu về vùng đất
và con ngƣời Nam Bộ.
Luận án cũng góp phần làm rõ các hoạt động và vai trò của hội quán
ngƣời Hoa ở Nam Bộ, từ đó gợi mở một số hƣớng nghiên cứu mới cho những
công trình tiếp theo.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của đề tài luận án gồm 4 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và thuật ngữ liên quan đến
đề tài
Chương 2. Khái quát về vùng đất, con người Nam Bộ và sự hình thành,
phát triển của hội quán người Hoa ở Nam Bộ.
Chương 3. Hoạt động của hội quán người Hoa ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ
XVIII đến giữa thế kỷ XX.
Chương 4. Đặc điểm, tính chất, vai trò của hội quán đối với cộng đồng
người Hoa ở Nam Bộ


7


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM,
THUẬT NGỮ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngƣời Hoa tuy không phải là bộ phận cƣ dân chiếm số lƣợng đông đảo
nhất tại Việt Nam, nhƣng họ lại là bộ phận cƣ dân rất đặc thù. Do vậy, trong
chiều dài lịch sử dân tộc, họ luôn đƣợc chính quyền “ƣu tiên quan tâm”.
Trong những năm gần đây, đề tài ngƣời Hoa đƣợc nhiều học giả trong
và ngoài nƣớc tiến hành nghiên cứu. Tính đến nay, có khá nhiều công trình đã
đƣợc công bố. Chúng tôi có thể chia theo hai nhóm công trình nhƣ sau:
1.1.1. Những công trình có liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu nước ngoài
Trƣớc hết là những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của các
tác giả nƣớc ngoài.
Tài liệu viết tay bằng tiếng Pháp Étude sur la Cochinchine française
(Nghiên cứu và điều tra Nam kỳ của thực dân Pháp) (1871) đƣợc lƣu giữ tại
Thƣ viện Khoa học Tổng hợp, trình bày khá nhiều lĩnh vực: từ tổ chức hành
chính, luật pháp của ngƣời Việt, quyền sở hữu đất đai tại Nam Kỳ, các loại
thuế…, cho đến đời sống xã hội và tập quán ở Nam Kỳ. Chúng tôi có sự tiếp
thu và trích dẫn những nội dung về “mối quan hệ giống nòi giữa ngƣời An
Nam và ngƣời Hoa” (theo cách dùng từ của tác giả), khái quát về sự định cƣ
của ngƣời Hoa ở xứ Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVII, về tổ chức bang cũng
nhƣ những quy định đối với ngƣời Minh Hƣơng từ công trình này.
Tác phẩm Les institutions annamites en Basse-Cochinchine avant la
conquête francaise (Thể chế của Việt Nam ở vùng Hạ Nam Kỳ trƣớc cuộc
chinh phục của ngƣời Pháp) của tác giả Alfred Schreiner (1901) trình bày về

làng xã và chức năng làng xã, về giáo dục, tín ngƣỡng, hiếu hỷ, tang ma, sở
hữu ruộng đất… ở Việt Nam. Tác giả có dành những trang viết về hiệp hội
8


nghề, ngƣời Hoa và làng Minh Hƣơng, nội dung này đƣợc chúng tôi tham
khảo khi thực hiện luận án.
Tại Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, các công trình nghiên cứu về
ngƣời Hoa ở Việt Nam vẫn còn khiêm tốn. Tiêu biểu là các công trình nghiên
cứu của tác giả Trần Kinh Hòa (Chen Chingho) về cộng đồng Minh Hƣơng ở
Hội An nhƣ: “Chú thích Mạc thị gia phả Hà Tiên trấn Hiệp trấn” (Học báo
Văn Sử Triết, Đài Loan, số 7 – 1956), “Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã
và các cổ tích tại Hội An” (1960, 1962), “Phố người Đường và thương
nghiệp ở Hội An thế kỷ XVII – XVIII” (Học báo Tân Á, Hƣơng Cảng, số 1,
quyển 3, 1969)… Tác giả đã nghiên cứu về lịch sử di cƣ của ngƣời Hoa cũng
nhƣ quá trình hình thành các nhóm cộng đồng ngƣời Hoa ở Việt Nam. Ngoài
ra, tác giả cũng tiến hành khảo sát các điểm tụ cƣ của ngƣời Hoa từ thời Đàng
Trong nhƣ làng Minh Hƣơng, phố Thanh Hà ở Thuận Hóa (Huế), làng Minh
Hƣơng ở Hội An, đất Hà Tiên và họ Mạc… Đây là các tác phẩm có nguồn
gốc từ việc khảo cứu địa phƣơng có giá trị khoa học.
Tác giả Furiwara Riichio đã có bài viết Chính sách đối với dân Trung
Hoa di cư của các triều đại Việt Nam (1974) trên tập san Việt Nam khảo cổ.
Tác giả đã trình bày vắn tắt và đƣa ra những nhận định của mình về một số
khía cạnh trong nội dung chính sách của các vƣơng triều Việt Nam đối với di
dân Trung Hoa. Đề tài thì rộng mà chỉ đƣợc trình bày trong một bài viết ngắn,
cho nên tác giả không tránh khỏi việc thiếu tƣ liệu chứng minh, sơ lƣợc về nội
dung, mặc dù nhận định của tác giả tỏ ra khá xác đáng, phần nào cung cấp
cho chúng tôi những thông tin về các chính sách của các triều đại Việt Nam
đối với ngƣời Hoa.
Năm 1992, Hội Sử học Việt Nam cho xuất bản cuốn L'Empire

Vietnamien face à la France et à la Chine 1847-1885 (Nước Đại Nam đối
diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885) của Giáo sƣ Tiến sĩ Yoshiharu
Tsuboi (Nguyễn Đình Đầu dịch). Tác phẩm vốn là luận án tiến sĩ của tác giả
Yoshiharu Tsuboi tại Đại học Khoa học xã hội ở Paris. Trên nền tảng làm chủ
9


một thƣ mục đồ sộ và hữu ích, tác giả tập trung nghiên cứu nƣớc Đại Nam ở
thời kỳ “mấu chốt” - thời vua Tự Đức. Trƣớc những bão táp Âu – Mĩ, nhờ
tiến hành cuộc duy tân Minh Trị (1868) mà Nhật Bản vẫn giữ vững độc lập và
nhanh chóng trở thành cƣờng quốc ở châu Á; trong khi đó Đại Nam từng
bƣớc trở thành nƣớc nửa thuộc địa nửa phong kiến. Tuy đôi chỗ cách lý giải
của tác giả còn tỏ ra khiêng cƣỡng, nhƣng nhìn chung đây là một công trình
nghiên cứu khoa học nghiêm túc, giúp chúng tôi hểu rõ hơn bối cảnh lịch sử
Việt Nam nói chung vào đầu thế kỷ XIX.
Năm 1995, tác giả Cheng Lim Keak có công trình nghiên cứu Chinese
clan associations in Singapore: Social change and continuity (Các bang hội
ngƣời Hoa ở Singapore: tính kế tục và sự biến đổi xã hội). Cũng trong năm
này, tác giả Wang Gungwu viết The Southeast Asian Chinese and
development of China (Ngƣời Hoa ở các nƣớc Đông Nam Á và sự phát triển
của Trung Quốc). Hai tác phẩm này đã cung cấp những thông tin về tổ chức
bang, hội của ngƣời Hoa trong khu vực, ít nhiều giúp chúng tôi có cái nhìn
bao quát hơn khi thực hiện đề tài.
Nhóm tác giả Vƣơng Triệu Tƣờng – Lƣu Văn Trí xuất bản cuốn “Thương
nhân Trung Hoa, họ là ai ?” (1999, Cao Tự Thanh dịch) đã khái quát về sự phát triển,
đặc điểm các tổ chức xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của giới thƣơng nhân Trung
Hoa. Nguồn tài liệu này ít nhiều cung cấp cho chúng tôi những kiến thức cơ bản về
nguồn gốc ra đời, chức năng của hội quán, công sở của thƣơng nhân ngƣời Hoa.

Tác giả Choi Byung Wook có công trình nghiên cứu Vùng đất Nam Bộ

dưới triều Minh Mạng (2011). Bằng phƣơng pháp nghiên cứu thực chứng và
phân tích định lƣợng, tác giả đã phục dựng toàn cảnh vùng đất Nam Bộ dƣới
triều vua Minh Mạng, một mảnh đất đầy tiềm năng, xung lực nhƣng cũng
hàm chứa nhiều mâu thuẫn nội tại. Mặc dù đây chƣa phải là công trình nghiên
cứu có nội dung liên quan trực tiếp đến đề tài, nhƣng ít nhiều chúng tôi cũng
đã tiếp thu những thông tin về ngƣời Hoa, ngƣời Minh Hƣơng qua góc nhìn
của tác giả.
10


Paul Doumer viết Xứ Đông Dương (L‟Indo – Chine francaise), đƣợc
xuất bản tại Việt Nam vào năm 2016. Đây là những hồi ức sống động của một
ngƣời từng cai quản cả Đông Dƣơng với những tƣ liệu giá trị về xứ sở này
trong những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Trong chƣơng viết về
Nam Kỳ, tác giả có nêu những thông tin về ngƣời Hoa ở Mỹ Tho, Vĩnh Long
và đặc biệt là vùng Sài Gòn – Chợ Lớn.
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu trong nước
Vấn đề về ngƣời Hoa ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ
XVIII đến giữa thế kỷ XX đã đƣợc những bộ chính sử và những tác giả
đƣơng thời đề cập với những mức độ khác nhau. Có thể kể đến Đại Nam thực
lục, Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn), Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ, Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức)… Những
công trình này đã ghi lại những sự kiện, hiện tƣợng xảy ra dƣới thời Nguyễn,
trong đó có một số thông tin liên quan đến ngƣời Hoa.
Một trong những nghiên cứu mang tính tiên phong về đề tài ngƣời Hoa
là công trình nghiên cứu Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ của
tác giả Đào Trinh Nhất, xuất bản năm 1924 bằng tiếng Việt. Trong tác phẩm
của mình, tác giả Đào Trinh Nhất đã đề cập đến hai vấn đề chính: thời gian
ngƣời Hoa sang Nam Kỳ, dân số, tình hình buôn bán, y tế, giáo dục của ngƣời
Hoa ở Nam Kỳ; đồng thời tác giả cũng lý giải những nguyên nhân, các giải

pháp di dân vào Nam Kỳ. Từ những gì mắt thấy tai nghe cùng những tƣ liệu
hết sức phong phú về hoạt động kinh tế của ngƣời Hoa ở Nam Kỳ vào đầu thế
kỷ XX, tác giả bƣớc đầu phác họa đƣợc bức tranh về thế lực của ngƣời Hoa ở
Việt Nam. Tác giả đã cho thấy sự trù phú của vùng đất Nam Kỳ và chỉ ra mối
nguy hại của việc ngƣời Hoa thao túng toàn bộ thị trƣờng Nam Kỳ, nhất là
vấn đề độc quyền về lĩnh vực buôn thóc gạo. Tác giả đồng thời cũng đề ra
giải pháp nhằm “kháng cái thực lực của Hoa kiều”.
Một công trình nghiên cứu hết sức công phu và đƣợc xem nhƣ nghiên
cứu nền tảng về đề tài ngƣời Hoa là Luận án Tiến sĩ Đại học Sorbon Người
11


Hoa ở miền Nam Việt Nam của tác giả Tsai Maw Kuey (Thái Mậu Khuê)
(1968). Có thể nói đây là một công trình mang tính chất chuyên luận về ngƣời
Hoa ở miền Nam Việt Nam với sự trình bày, phân tích khá sâu sắc. Luận án
đề cập đến lịch sử di cƣ, sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội của ngƣời Hoa ở
miền Nam. Đặc biệt, tác giả đi sâu vào các hoạt động kinh tế của ngƣời Hoa ở
miền Nam Việt Nam trƣớc năm 1955. Thông qua những thống kê từ Phòng
thƣơng mại Hoa kiều Chợ Lớn và các ngân hàng của ngƣời Hoa, tác giả
khẳng định vị trí về kinh tế của ngƣời Hoa trong xã hội. Ngoài ra, tác giả cũng
đề cập đến vấn đề tổ chức xã hội ngƣời Hoa ở miền Nam khi trình bày sự ra
đời và hoạt động của 5 nhóm cộng đồng ngôn ngữ: Quảng Đông, Triều Châu,
Phúc Kiến, Hẹ (Hakka), Hải Nam.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, trên các tạp chí Nông Cổ Mín Đàm,
Lục Tỉnh Tân Văn, Văn hóa nguyệt san, Đại Việt… cũng đã đăng tải nhiều bài
viết về Hoa. Đáng chú ý là tác giả Khuông Việt và Tân Việt Điểu. Tác giả
Khuông Việt có loạt bài Lược khảo về lịch sử người Tàu ở Nam Kỳ đăng trên
Đại việt tạp chí (1942), tác giả Tân Việt Điểu với loạt bài Lịch sử Hoa kiều
tại Việt Nam (1962) đã trình bày về quá trình hình thành của cộng đồng ngƣời
Hoa và tổ chức xã hội của ngƣời Hoa ở Nam Kỳ và Việt Nam. Các tác giả tập

trung vào vấn đề bang và bang trƣởng. Những bài viết này đã góp phần nhất
định vào nguồn tƣ liệu cho các nhà nghiên cứu về sau.
Cuốn Sài Gòn năm xưa của tác giả Vƣơng Hồng Sển xuất bản năm
1968 bao gồm 8 phần và phần phụ lục. Bên cạnh việc “nhắc lại cuộc Nam
tiến vĩ đại của dân Việt”, tìm hiểu về địa danh, vị trí “Sài Gòn”, tác giả viết
về nhiều khía cạnh trong cuộc sống của ngƣời Hoa nhƣ: quá trình di dân,
phong tục tập quán, chùa chiền, đƣờng phố, các nhân vật ngƣời Hoa tiêu
biểu… Tuy nhiên, tác giả chỉ mới dừng lại ở mức độ miêu tả và điểm qua một
vài nét về ngƣời Hoa mà thôi.
Một số luận văn của học viên trƣờng Quốc gia Hành chánh ở Sài Gòn
trƣớc 1975 tuy không đề cập trực tiếp đến tổ chức bang, hội quán của ngƣời
12


Hoa, nhƣng phần nào cung cấp cho chúng tôi những hiểu biết về đời sống
sinh hoạt văn hóa – xã hội, kinh tế của ngƣời Hoa ở miền Nam trƣớc năm
1975. Điểm chung của các luận văn này là nghiên cứu về ngƣời Hoa ở thời
điểm “nhạy cảm” khi chính quyền Sài Gòn thi hành các biện pháp quản lý
ngƣời Hoa chặt chẽ và cứng rắn. Có thể kể đến các tác giả sau: Lƣu Trƣờng
Khƣơng, Trần Thanh Long, Trƣơng Hoàng Tấn, Nguyễn Văn Sang…
Từ sau khi đất nƣớc thống nhất, điều kiện nghiên cứu cũng đƣợc thuận
lợi hơn trƣớc. Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về ngƣời Hoa ở Việt Nam trên các
phƣơng diện kinh tế, chính trị, xã hội…, những công trình nghiên cứu về
ngƣời Hoa một cách hệ thống và chuyên sâu đã xuất hiện. Tuy nhiên, cũng có
khi do những biến động chính trị, xã hội hoặc có một số sự kiện ở Việt Nam
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cộng đồng ngƣời Hoa mà ít nhiều tác
động đến quan điểm của ngƣời nghiên cứu.
Tác giả Huỳnh Lứa đã tập hợp những bài viết trƣớc đây của mình
trong cuốn sách Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII,
XVIII (2000) và viết cuốn sách Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ (2017)

trên cơ sở kế thừa những tƣ liệu của các sử gia phong kiến cùng những
công trình khảo cứu tập thể, cá nhân đi trƣớc. Mặc dù chỉ mới dừng lại ở
cái nhìn tổng quan, nhƣng có thể nói đây là một công trình đƣợc viết công
phu và đã trở thành công cụ không thể thiếu cho những ai quan tâm nghiên
cứu về lịch sử vùng đất Nam Bộ.
Khi Việt Nam bƣớc vào thời kỳ đổi mới, vấn đề ngƣời Hoa càng đƣợc
quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Có nhiều cuộc hội thảo quốc gia và những
công trình cấp Nhà nƣớc đã đƣợc tiến hành, đặt nền tảng cho việc nghiên cứu
về ngƣời Hoa một cách hệ thống và toàn diện.
Phan An là một chuyên gia nghiên cứu ngƣời Hoa ở Nam Bộ, do vậy
tác giả đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này. Vào năm 1990, tác
giả Phan An chủ biên cuốn sách Chùa Hoa thành phố Hồ Chí Minh. Tác
phẩm trình bày về các ngôi chùa của ngƣời Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
13


bao gồm các mặt: quá trình hình thành, những đặc điểm kiến trúc, điêu khắc,
thờ tự, sinh hoạt tôn giáo tín ngƣỡng. Tác phẩm này đã hệ thống hóa các cơ
sở tôn giáo tín ngƣỡng của ngƣời Hoa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là một tài liệu có liên quan đến đề tài luận án, nhất là về vấn đề kiến trúc,
tín ngƣỡng, tôn giáo của ngƣời Hoa. Ngoài ra, tác giả Phan An còn có nhiều
công trình nghiên cứu khác, nhƣ: Người Hoa ở Nam Bộ (2005), Góp phần tìm
hiểu văn hóa người Hoa ở Nam Bộ (2006), Quá trình hội nhập và phong trào
đấu tranh cách mạng của người Hoa Sài Gòn – Chợ Lớn và các tình Nam Bộ
từ năm 1930 đến năm 1975 (2013), Văn hóa người Hoa Nam Bộ (2016). Nhìn
chung, tác giả đã trình bày một cách có hệ thống những vấn đề về cộng đồng
ngƣời Hoa ở Nam Bộ từ lịch sử hình thành cộng đồng ngƣời Hoa ở Nam Bộ,
hoạt động kinh tế, đời sống xã hội, cho đến quá trình hội nhập và phong trào
đấu tranh cách mạng của ngƣời Hoa. Tuy nhiên, vì khuôn khổ của từng cuốn
sách mà đôi chỗ vấn đề chỉ mới dừng lại ở việc phác thảo những nét cơ bản.

Dẫu vậy, từ những nội dung đƣợc tác giả trình bày sẽ tạo tiền đề cho những
công trình nghiên cứu về ngƣời Hoa tiếp theo trong tƣơng lai.
Tác giả Nguyễn Văn Huy và công trình nghiên cứu Người Hoa tại Việt
Nam (1993) đã nêu lên nhiều vấn đề cơ bản nhƣ: nhập cƣ, quốc tịch, dân số,
chính sách đối với ngƣời Hoa từ thời quân chủ cho đến trƣớc năm 1975 và vị
trí của ngƣời Hoa trong nền kinh tế Việt Nam… Bên cạnh đó, tác giả cũng giới
thiệu những nét chính, thế mạnh trong hoạt động kinh tế của các bang và hội
của ngƣời Hoa. Đây là công trình cung cấp nhiều tƣ liệu về ngƣời Hoa ở Việt
Nam, do vậy, chúng tôi có sự kế thừa nhất định từ những nội dung này.
Tác giả Nghị Đoàn – Chủ tịch Hội văn hóa các dân tộc thành phố Hồ
Chí Minh – đã biên soạn cuốn sách Người Hoa ở Việt Nam – Thành phố Hồ
Chí Minh (1999). Đây là chuyên khảo về ngƣời Hoa, đƣợc chính tác giả tập
hợp lại sau những năm tháng tham gia công tác tổ chức ngƣời Hoa. Tác phẩm
đã cung cấp cho chúng tôi nhiều thông tin về các chính sách của Đảng, Nhà
nƣớc hiện nay đối với ngƣời Hoa ở Việt Nam nói chung và ngƣời Hoa ở Nam
14


Bộ nói riêng. Ngoài việc đúc kết những bài học kinh nghiệm trong công tác
Hoa vận, tác giả còn rút ra nhận định: quá trình hòa nhập của ngƣời Hoa vào
cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã bị cản trở dƣới thời Pháp thuộc và thời
chính quyền Sài Gòn.
Tác giả Nguyễn Cẩm Thúy với Định cư của người Hoa trên đất Nam
Bộ từ thế kỷ XVII đến năm 1945 (2000) đã trình bày về những làn sóng di cƣ
của ngƣời Hoa vào Việt Nam và vùng đất Nam Bộ, các hoạt động kinh tế, tổ
chức xã hội – chính trị, văn hóa tín ngƣỡng của ngƣời Hoa. Tác phẩm cũng
nhấn mạnh tinh thần tƣơng trợ của ngƣời Hoa đƣợc duy trì bền chặt là nhờ
vào sự điều hành khéo léo của tổ chức bang, hội và vai trò của bang trƣởng.
Tác giả cũng cho thấy những đặc điểm cơ bản của ngƣời Hoa trong các mối
liên kết xã hội.

Viết về vùng đất Hội An cho đến nay có nhiều nhà nghiên cứu thực
hiện. Luận án chúng tôi tiếp thu những nội dung nghiên cứu từ tác giả
Nguyễn Phƣớc Tƣơng với “Hội An di sản thế giới” (2001) và nhóm tác giả
Trần Văn An – Nguyễn Chí Trung – Trần Ánh viết cuốn “Xã Minh Hương với
thương cảng Hội An thế kỷ XVII – XIX” (2005). Những thông tin về ngƣời
Minh Hƣơng ở Hội An từ lịch sử hình thành, đặc điểm kết cấu cộng đồng cho
đến các hoạt động kinh tế, văn hóa, tôn giáo – tín ngƣỡng…, góp phần bổ trợ
cho chúng tôi trong việc đối sánh tổ chức của ngƣời Hoa Hội An với những
vùng đất khác ở Nam Bộ.
Năm 2005, tác giả Ngô Văn Lệ và Nguyễn Duy Bính cùng viết cuốn
Người Hoa ở Nam Bộ. Trong tác phẩm này, các tác giả đã trình bày về lịch sử
hình thành, hoạt động kinh tế, chế độ hôn nhân, các loại hình thức, chức năng
của gia đình ngƣời Hoa (chủ yếu là ngƣời Hoa Quảng Đông, Triều Châu,
Phúc Kiến, Hải Nam và Hẹ). Qua đó, các tác giả rút ra đƣợc tính kế thừa và
sự thích nghi của ngƣời Hoa trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng
đất Nam Bộ.

15


Tác giả Trần Hồng Liên trên cơ sở khảo cứu về giáo dục, tín ngƣỡng
tôn giáo, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, y tế và chăm sóc sức khỏe của
ngƣời Hoa ở Nam Bộ nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã biên
soạn cuốn sách Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ: tín ngưỡng và tôn giáo (2005)
và Góp phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (2007).
Trên cơ sở những tƣ liệu thu thập đƣợc, tác phẩm cung cấp những cứ liệu vào
việc đề ra chính sách phù hợp cho cộng đồng ngƣời Hoa, nhằm nâng cao đời
sống tinh thần và vật chất cho ngƣời Hoa trong quá trình đất nƣớc đi lên công
nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Nhóm tác giả Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc, Trƣơng Ngọc

Tƣờng, Lý Lƣợc Tam, Lê Hải Đăng, Phạm Hoàng Quân cùng viết cuốn sách
Văn hóa và nghệ thuật người Hoa thành phố Hồ Chí Minh (2006), Người Hoa
tại thành phố Hồ Chí Minh (2007). Đến năm 2012, nhóm tác giả trên có
những kế thừa từ công trình nghiên cứu cũ, đồng thời có bổ sung thêm để
xuất bản cuốn sách Đặc khảo văn hóa người Hoa ở Nam Bộ. Nhóm tác giả
mong muốn phục dựng nên bức tranh toàn cảnh về văn hóa của cộng đồng
ngƣời Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh cũng nhƣ vùng đất Nam Bộ trên cơ sở
trình bày khái lƣợc về các cộng đồng ngƣời Hoa, các hoạt động tôn giáo, tín
ngƣỡng, các loại hình văn hóa cụ thể, các thể loại nghệ thuật, phong tục tập
quán, các di tích kiến trúc nghệ thuật của ngƣời Hoa. Đây là những khảo cứu
về ngƣời Hoa với nguồn tƣ liệu phong phú, do đó, chúng tôi có sự tiếp thu và
kế thừa khi thực hiện luận án.
Cuốn sách 100 câu hỏi đáp về người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
(2013) của tác giả Phan Thị Yến Tuyết – Cao Tự Thanh đã giới thiệu tóm tắt
những vấn đề, sự kiện, nhân vật nổi bật trong lịch sử phát triển của cộng đồng
ngƣời Hoa ở vùng đất Gia Định – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Tác
phẩm này đã cung cấp cho chúng tôi những thông tin ngắn gọn, súc tích về
những đặc điểm của cộng đồng ngƣời Hoa, nhất là thời Pháp thuộc.

16


Nam Bộ đất và người do tác giả Võ Văn Sen chủ biên (2011) là bộ sách
tập hợp bài viết của nhiều tác giả khác nhau về phƣơng pháp luận, lịch sử,
nhân vật, vấn đề khảo cổ và di sản văn hóa. Trong bộ sách này có một số bài
viết về Hà Tiên, Mỹ Tho, cổ vật lƣ hƣơng trong các ngôi miếu của ngƣời Hoa
ở thành phố Hồ Chí Minh…, đƣợc chúng tôi lựa chọn tham khảo.
Sài Gòn xưa và nay (2013) là cuốn sách tập hợp bài viết của nhiều tác
giả, tập trung trên các lĩnh vực lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… về
vùng đất Sài Gòn. Đáng chú ý trong cuốn sách này là những bài viết về văn

bia, đình Minh Hƣơng Gia Thạnh, làng Minh Hƣơng, ngƣời Hoa, chùa Bà
Chợ Lớn vì liên quan đến đề tài chúng tôi đang thực hiện.
Tác giả Châu Thị Hải thực hiện các công trình nghiên cứu: Tìm hiểu sự
hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trong bối cảnh lịch sử
Đông Nam Á (1989, luận án Phó Tiến sĩ). Điểm đặc biệt trong luận án là tác giả
nghiên cứu của các tổ chức Bang, Hội của ngƣời Hoa với những đặc điểm, tính
chất của nó và đƣợc đặt trong tƣơng quan so sánh với các nƣớc ở khu vực
Đông Nam Á. Tác giả còn có các công trình nghiên cứu khác nhƣ: Bước đầu
tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử (1998) và
Người Hoa ở Việt Nam và Đông Nam Á: Hình ảnh hôm qua và vị thế hôm nay
(2006). Tác giả nhấn mạnh vị thế kinh tế của ngƣời Hoa và bƣớc đầu giới thiệu
về sự giao lƣu văn hóa Việt – Hoa cũng nhƣ dấu ấn Trung Hoa trong văn hóa
nghệ thuật Đông Nam Á. Ngoài ra, tác giả Châu Thị Hải có rất nhiều bài viết
về đề tài ngƣời Hoa đƣợc đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác.
Tác giả Trần Khánh bảo vệ luận án Phó Tiến sĩ tại Liên Xô năm 1987
với đề tài Những xu hướng cơ bản phát triển kinh tế - xã hội và chính trị tộc
người cộng đồng người Hoa ở Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến 1955 ở
miền Bắc và đến 1975 ở miền Nam. Sau đó, tác giả còn cho công bố các cuốn
sách: Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á (1992),
The ethnic Chinese and economic development in Vietnam (1993, Singapore),
Người Hoa trong xã hội Việt Nam (thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gòn)
17


(2002). Có thể nhận thấy điểm chung từ các công trình nghiên cứu trên là tác
giả tập trung phân tích những yếu tố và quá trình xã hội tác động đến sự thay
đổi hình thức kinh doanh của ngƣời Hoa và vai trò của họ trong sự hình
thành, phát triển những ngành kinh tế then chốt ở Việt Nam cũng nhƣ các
nƣớc Đông Nam Á. Ngoài ra, tác giả Trần Khánh còn có rất nhiều bài viết
đăng trên các tạp chí chuyên ngành nhƣ: Hoạt động kinh tế của người Hoa ở

Đông Nam Á (1984), Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước đông
Nam Á (1992), Sự hình thành cộng đồng người Hoa ở Việt Nam thế kỷ XVII –
XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX (2001), Tìm hiểu các tổ chức xã hội và nghiệp
đoàn của người Hoa ở Việt Nam trong lịch sử (2002), Nguyên nhân di cư và
các dạng di trú của người Hoa trong lịch sử (2002), Đặc điểm và xu hướng
đầu tư của người Hoa ở Việt Nam (thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gòn)
(2002), Vị trí người Hoa trong nền thương mại Việt Nam thời Pháp thuộc
(2002), Đặc trưng văn hóa kinh doanh của người Hoa (2004)… Tác giả đã
trình bày những chính sách cơ bản thời triều Nguyễn, thời Pháp thuộc, thời
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đối với ngƣời Hoa trên các mặt nhập cảnh,
cƣ trú, chuyển quốc tịch, vấn đề thuế khóa, an ninh trật tự, vấn đề xã hội. Đặc
biệt, khi trình bày về vai trò của ngƣời Hoa trong nền kinh tế nƣớc ta thời
Pháp thuộc và dƣới chế độ Sài Gòn, tác giả Trần Khánh còn cung cấp những
số liệu, bảng biểu, sơ đồ hết sức có giá trị. Có thể nói các bài báo trên là một
sự phác thảo quan trọng để các công trình nghiên cứu sau này có điều kiện bổ
sung chi tiết và hoàn chỉnh hơn về nội dung.
Vào năm 2017, có hai bộ sách về vùng đất Nam Bộ đƣợc cuất bản. Một
bộ tổng quan, rút gọn: Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển
(2 tập) do giáo sƣ Phan Huy Lê chủ biên và một bộ chuyên khảo sâu gồm 10
tập, nghiên cứu toàn diện trên nhiều lĩnh vực của vùng đất phƣơng Nam, từ
điều kiện tự nhiên, quá trình lịch sử, dân cƣ, dân tộc, tôn giáo, thiết chế quản
lý xã hội, quá trình Nam Bộ hội nhập với khu vực và quốc tế… Đây là công
trình nghiên cứu đồ sộ, cung cấp một khối lƣợng tri thức lớn, khá đầy đủ, toàn
18


diện và chân xác về vùng đất Nam Bộ. Công trình nghiên cứu này đã cung
cấp những sử liệu cơ bản về vùng đất Nam Bộ qua từng thời kỳ, đặc biệt là
nội dung trình bày về ngƣời Hoa cũng nhƣ thiết chế tự quản của họ, đƣợc
chúng tôi tiếp thu khi thực hiện luận án.

Sách chuyên khảo Tín ngưỡng Thiên Hậu vùng Tây Nam Bộ của tác giả
Nguyễn Ngọc Thơ (2017) giới thiệu khái quát quá trình tín ngƣỡng thờ Thiên
Hậu đƣợc hình thành từ Trung Quốc, đƣợc truyền bá và bản địa hóa tại Tây
Nam Bộ Việt Nam. Tác phẩm có tính tham khảo nhất định đối với chúng tôi
về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa.
Để thực hiện luận án, chúng tôi cũng tiến hành khai thác tƣ liệu một
cách phù hợp đối với những cuốn biên khảo và địa chí. Có thể kể đến các
công trình nghiên cứu nhƣ: Đất Gia Định xưa (1984), Đình miễu và lễ hội
dân gian miền Nam (2009) của tác giả Sơn Nam; Ký ức về lịch sử Sài Gòn
và các vùng phụ cận (1997) của tác giả Trƣơng Vĩnh Ký; Nghiên cứu địa
bạ triều Nguyễn (1994) của tác giả Nguyễn Đình Đầu; Địa chí văn hóa
thành phố Hồ Chí Minh (1998) của tác giả Trần Văn Giàu; Địa chí hành
chính các tỉnh Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1859 – 1954) (2017) của tác giả
Nguyễn Đình Tƣ…
Trong những năm vừa qua đã có không ít các luận án về ngƣời Hoa ở
Việt Nam nói chung và ngƣời Hoa ở Nam Bộ nói riêng liên quan đến đề tài.
Có thể kể đến những công trình nghiên cứu sau:
Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế Người Hoa trong nền kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay (1996) của tác giả Trần Hồi Sinh. Tác giả đã cho
thấy những nét khác biệt của hoạt động kinh tế ngƣời Hoa so với nhiều bộ
phận dân cƣ khác ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Tuy phạm vi thời gian
nghiên cứu của luận án tập trung chủ yếu vào giai đoạn lịch sử hiện đại, song
tác giả cũng có những khái lƣợc về hoạt động kinh tế của ngƣời Hoa trƣớc
năm 1975 và điều này đƣợc chúng tôi tiếp thu có chọn lọc.

19


Luận án phó tiến sĩ Tín ngưỡng và tôn giáo của người Hoa Quảng
Đông ở thành phố Hồ Chí Minh (1997) của tác giả Nguyễn Thị Hoa Xinh là

một công trình nghiên cứu đƣợc xây dựng trên cơ sở tƣ liệu điền dã công phu.
Từ việc khái quát về ngƣời Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh và tín
ngƣỡng, tôn giáo của họ, tác giả đi đến nhận định vai trò của tôn giáo, tín
ngƣỡng trong đời sống của ngƣời Hoa Quảng Đông và khẳng định sự hội
nhập văn hóa giữa ngƣời Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh với các
dân tộc Việt Nam là điều tất yếu.
Tác giả Nguyễn Duy Bính với luận án tiến sĩ khoa học Lịch sử Hôn
nhân và gia đình của người Hoa ở Nam Bộ đã cung cấp những nét chung nhất
về những thiết chế và nghi lễ trong hôn nhân, gia đình của ngƣời Hoa truyền
thống và hiện đại, từ đó tác giả cho thấy tính kế thừa và thích nghi của ngƣời
Hoa trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng đất Nam Bộ.
Năm 2005, tác giả Huỳnh Ngọc Đáng đã bảo vệ luận án tiến sĩ khoa
học Lịch sử Chính sách của các vương triều người Hoa ở Việt Nam. Đối
tƣợng nghiên cứu chính của luận án là chính sách của các vƣơng triều phong
kiến Việt Nam từ thời Ngô, Đinh Lê, Lý, Trần… đến triều Nguyễn đối với
ngƣời Hoa. Tác giả trình bày, phân tích nội dung, tính chất các chính sách đối
nội, đối ngoại thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa… của từng vƣơng
triều. Trên cơ sở đó, tác giả còn so sánh đối chiếu những điểm kế thừa, giống
hoặc khác nhau về chính sách đối với cộng đồng ngƣời Hoa giữa các vƣơng
triều phong kiến. Từ công trình nghiên cứu khoa học này, tác giả góp phần
đúc kết lý luận, thực tiễn để xây dựng chính sách phù hợp đối với ngƣời Hoa
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Cũng trong năm 2005, tác giả Võ Thanh Bằng bảo vệ thành công luận
án tiến sĩ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học: Tín ngưỡng dân gian
của người Hoa ở Nam Bộ. Mục đích của tác giả là tìm hiểu tín ngƣỡng dân
gian trong đời sống của ngƣời Hoa, trên cơ sở đó phân loại, hệ thống hóa,
phân tích, đánh giá vai trò và tìm ra những đặc trƣng cơ bản của tín ngƣỡng
20



dân gian ngƣời Hoa. Tác giả trình bày 7 đặc trƣng trong tín ngƣỡng dân gian
của ngƣời Hoa ở Nam Bộ và nêu lên các kiến nghị cho các nhà quản lý và
lãnh đạo trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của
cộng đồng ngƣời Hoa ở Nam Bộ.
Tác giả Nguyễn Đệ bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học Lịch sử Tổ chức xã
hội của người Hoa ở Nam Bộ vào năm 2008. Để thực hiện luận án, tác giả đã
tiến hành thu thập, tổng hợp, phân tích các nguồn tƣ liệu thành văn cùng với
việc thực hiện khảo sát để tìm hiểu về hệ thống tổ chức xã hội của ngƣời Hoa
về sự ra đời, cơ cấu tổ chức, phƣơng thức hoạt động… Đây là công trình
nghiên cứu cung cấp cho chúng tôi nhiều thông tin khoa học quý giá, nhất là
những nội dung đề cập đến tổ chức bang, hội quán của ngƣời Hoa ở Nam Bộ.
Năm 2011, tác giả Dƣơng Văn Huy đã bảo vệ luận án tiến sĩ Lịch sử
với đề tài Người Hoa trong xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Luận án tập
trung chủ yếu vào khoảng thời gian từ khi vƣơng triều Nguyễn đƣợc thành lập
(1802) cho đến trƣớc khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ chính thức lên nƣớc ta.
Đối tƣợng nghiên cứu luôn đƣợc đặt trong bối cảnh thế giới, khu vực và Việt
Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX. Tác giả luận án có những đóng góp nhất định
trong việc sƣu tầm nhiều tài liệu phong phú, có cả nguồn tƣ liệu tự dịch và đã
giải quyết đƣợc những nội dung về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
ngƣời Hoa ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XIX.
Tác giả Trịnh Thị Mai Linh thực hiện luận án tiến sĩ Chính sách của
chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn
1955 – 1975 (2014). Thông qua nội dung trình bày, tác giả đã phục dựng
tƣơng đối hoàn chỉnh các chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với cộng
đồng ngƣời Hoa ở miền Nam theo từng lĩnh vực: vấn đề quốc tịch, kinh tế, tổ
chức xã hội trong những năm 1955 – 1975. Tác giả đã khai thác đƣợc nguồn
tƣ liệu phong phú và chúng tôi có sự kế thừa chọn lọc nguồn tƣ liệu này khi
thực hiện luận án của mình.

21



1.1.2. Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài
Tuy tình hình nghiên cứu về ngƣời Hoa ở trong và ngoài nƣớc ngày
càng khởi sắc, nhƣng mảng đề tài hội quán nói chung và hội quán ngƣời Hoa
ở Nam Bộ nói riêng vẫn chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu đúng mức.
Vào năm 1966, nhà xuất bản Đài Loan học sinh thƣ cục đã phát hành
cuốn sách Trung Quốc hội quán sử luận, tác giả Hà Bính Lệ. Tác phẩm cung
cấp những kiến thức cơ bản về hội quán Trung Hoa, từ nguồn gốc hình thành
cho đến sự phát triển và hội nhập của nó. Đây là tài liệu quan trọng đối với
chúng tôi khi thực hiện luận án, nhất là nội dung thành lập các hội quán.
Bài viết Vài nét về hội quán của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
của tác giả Nguyễn Thị Minh Lý (1998). Đây là bài viết ngắn chƣa tới 8
trang, đƣợc in trong kỷ yếu hội thảo Góp phần tìm hiểu lịch sử - văn hóa 300
năm Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh. Tuy tác giả có trình bày về thời gian
hình thành và phát triển của các hội quán ngƣời Hoa ở thành phố Hồ Chí
Minh, nhƣng do hạn chế về mặt tƣ liệu cũng nhƣ số lƣợng trang viết, tác giả
chỉ mới cung cấp những thông tin cơ bản nhất về hội quán của ngƣời Hoa ở
thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả Võ Thị Ánh Tuyết có bài viết Hội quán Hoa ở Hội An (Quảng
Nam) trong so sánh với các miếu Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (2011) đƣợc
đăng trong cuốn Nam Bộ đất và người (tập 8). Tác giả chỉ ra những nét tƣơng
đồng và những nét khác biệt giữa các hội quán Hoa ở Hội An với các hội
quán Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh trên các tiêu chí tổng thể kiến trúc, trang
trí kiến trúc, thờ cúng, di vật… Tuy nhiên, do khuôn khổ của một bài viết
ngắn 7 trang, cho nên tác giả chƣa có điều kiện đi vào phân tích, so sánh một
cách kỹ lƣỡng, thậm chí đôi chỗ cách dùng từ và luận giải của tác giả chƣa
thật sự thuyết phục.
Liên quan trực tiếp và đƣợc chúng tôi xác định rất quan trọng đối với
chúng tôi khi thực hiện luận án là công trình nghiên cứu Bia chữ Hán trong

hội quán người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh (1999) của nhóm tác giả Li
22


×