Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

SKKN: Một số biện pháp chỉ đạo việc thiết kế và tổ chức các trò chơi trong dạy học Lịch sử lớp 4 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.11 KB, 37 trang )

I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.

         Đổi mới giáo dục đã được Đảng và nhà nước khẳng định là vai trò quan  
trọng cấp thiết trong hệ thống “Đổi mới sự nghiệp giáo dục”, là nền tảng, là  
động lực thúc đẩy công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá đất nước để  Việt Nam  
từng bước vững vàng khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
   Như vậy, để  thực hiện quá trình đổi mới giáo dục không chỉ  đối mới  
về nội dung chương trình sách giáo khoa mà còn phải đối mới về cả phương 
pháp dạy­ học. Đây là hai vấn đề  có mối liên quan chặt chẽ  với nhau trong  
quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục trong giai đoạn mới. Qua  phân môn Lịch 
sử  các em được hiểu sâu hiểu kĩ về  quá trình và từng thời kì xây dựng đấu 
tranh và gìn giữ đất nước. Có thể nói rằng học  lịch sử có tác dụng rất lớn khi  
học các môn khác hay nói cách khác học lịch sử là điểm tựa, là nền tảng cho  
các môn học khác như Địa Lí, Tiếng Việt .... 
 Như chúng ta đã biết kiến thức Lịch sử   ở Tiểu học : Cung cấp cho HS 
một số  kiến thức cơ  bản, thiết thực về: Các sự  kiện, hiện tượng, nhân vật  
lịch sử tiêu biểu ở các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu  
dựng nước tới nay;    hoc sinh biết vận dụng các kiến thức đã học vào thực 
tiễn đời sống và góp phần bồi dưỡng và phát triển ở HS những thái độ và thói 
quen: Ham học hỏi, ham hiểu biết thế giới xung quanh;  yêu thiên nhiên, con 
người, đất nước; Có ý thức bảo vệ thiên nhiên và các di sản văn hoá.
Dạy Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát  
sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin 
khác nhau; phân tích, so sánh, đánh giá, hệ  thống kiến thức về  các sự  kiện  
lịch sử, nhân vật lịch sử, mốc thời gian. Phân môn Lịch sử  góp phần hình  
thành, bồi dưỡng  ở  học sinh thái độ  và thói quen: ham học hỏi, thích tìm 

1



hiểu về cội nguồn dân tộc, giao duc t
́ ̣ ư tưởng, tinh cam, đao đ
̀
̉
̣ ức cho người  
học.
Học Lịch sử  là để  hiểu, để  sống và để  rung động với những sự  kiện  
lịch sử. Để  rút ra những bài học về  lòng yêu nước, về  nhân văn, để  thực  
hành lời Bác đã dạy. Do vây viêc kh
̣
̣
ơi dây niêm say mê, h
̣
̀
ưng thu hoc lich s
́
́ ̣ ̣
ử 
la nhiêm vu va muc đich cua ng
̀
̣
̣ ̀ ̣
́
̉
ươi giao viên trong s
̀ ́
ự  nghiêp đao tao thê hê
̣
̀ ̣
́ ̣ 

trẻ, con ngươi m
̀ ơi xa hôi chu nghia. 
́ ̃ ̣
̉
̃ Trong những năm trở lại đây học sinh 
có xu hướng thiên về các môn Toán và Tiếng Việt, Ngoại ngữ, không chú ý  
đến Lịch sử. Phải chăng vì Lịch sử  khó học, khó nhớ  hay vì một lý do nào 
khác  ?  Hơn nữa trong thời đại công nghệ  thông tin hiện nay, các em ngại 
đọc những bài học nhiều kênh chữ mà thích xem những sách nhiều kênh hình 
và các bộ  phim hoạt hình,... Vì vậy muốn các em học tốt môn học thì điều 
trước tiên phải tạo cho các em say mê và hứng thú với môn học . Nhưng hiện 
nay, một số  giáo viên vẫn còn xem nhẹ  môn Lịch sử  mà chỉ  tập trung thời 
gian, tâm sức vào hai môn Toán và Tiếng Việt dẫn đến việc dạy lịch sử đôi  
khi còn cắt xén thời gian cho môn học khác. Đa số học sinh còn thờ ơ, không 
hứng thú, ngại học Lịch sử. Các em không nhớ  được các sự  kiện, nhân vật, 
mốc thời gian lịch sử nên chất lượng dạy ­ học môn này còn hạn chế so với  
các môn học khác. 
Với tinh thần " học mà chơi, chơi mà học", trò chơi thực sự  là một 
phương tiện hữu hiệu để  tạo ra sự  hài hoà, thoải mái, không rập khuôn, khô 
cứng, đảm bảo tính tự  nhiên cho cuộc sống cũng như  trong học tập của học 
sinh tiểu học một cách hứng thú và bổ  ích. Cùng với những kinh nghiệm chỉ 
đạo chuyên môn tôi thấy phân môn Lịch sử  có nhiều kiến thức thực tế trong  
đời sống, mặt khác phân môn học này có sự  gắn bó, liên hệ  chặt chẽ, liên 
quan mật thiết với các môn học khác, hỗ trợ cho các em về mặt kiến thức và 
giúp các em mở rộng hiểu biết. 

2


Từ  trước đến nay đã có nhiều đồng nghiệp quan tâm và nghiên cứu về 

vấn đề dạy và học Lịch sử nhưng các đề tài đó chỉ  đi sâu vào một khía cạnh  
nhất định như  : giúp học sinh yêu thích phân môn Lịch sử; phát huy tính tích  
cực của học sinh khi học phân môn Lịch sử; ...Với mong muốn được góp 
phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch 
sử   ở  trường Tiểu học Lê Hồng Phong, tôi mạnh dạn chọn đề  tài:  “Một số  
biện pháp chỉ đạo việc thiết kế và tổ chức các trò chơi trong dạy học Lịch  
sử lớp 4 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ".
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.

a. Mục tiêu của đề tài   
        Mục tiêu mà đề  tài này hướng tới chính là  tập trung đi sâu tìm hiểu, 
nghiên cứu đưa ra một số biện pháp để chỉ đạo việc thiết kế và tổ chức trò  
chơi khi dạy lịch sử   ở Tiểu học theo hướng đổi mới phát huy tính tích cực  
chủ động của học sinh, vận dụng tính ưu việt của mô hình VNEN, giúp giáo 
viên  có một số biện pháp để dạy tốt hơn phân môn Lịch sử. 
        Khơi dậy khả năng tư  duy sáng tạo, tích cực chủ  động của học sinh.  
Trang bi, cung câp cho hoc sinh nh
̣
́
̣
ưng bi
̃
ện pháp, kĩ năng để  học tốt phân 
môn Lịch sử, để các em hiêu va yêu thich phân môn này. 
̉
̀
́
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Lịch sử lớp 4.
b. Nhiệm vụ của đề tài
Tìm hiểu cơ  sở  lí luận của vấn đề  nghiên cứu (phương pháp trò chơi  

trong dạy học) của giáo viên ở trường tiểu học. 
  Thiết kế  các loại trò chơi trong dạy học phân môn Lịch sử  và cách  
thức 
sử dụng chúng một cách có hiệu quả trong dạy học phân môn Lịch sử. 

3


   Nghiên cứu những biện pháp giúp giáo viên có định hướng đúng đắn 
trong việc thiết kế, lựa chọn trò chơi học tập, tạo tiết học sinh động, nhẹ 
nhàng, đạt hiệu quả  cao trong dạy học Lịch sử  khi thực trạng  ở trường tổ 
chức tiết học còn nặng nề, mang tính truyền thống.
3. Đối tượng nghiên cứu.

Một số biện pháp chỉ đạo việc thiết kế và tổ chức các trò chơi khi dạy 
lịch sử lớp 4 ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong,
4. Giới hạn của đề tài.

    Giáo viên và học sinh lớp 4, trường Tiểu học Lê hồng Phong, huyện  
Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk, năm học 2016­2017 và học kì I năm học 2017­ 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu.

Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
­ Phương pháp phân tích ­ tổng hợp tài liệu;
­ Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
b. Nhom ph
́
ương pháp nghiên cứu thực tiễn
­ Phương pháp điều tra;

­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục; 
­ Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
­  Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
c. Phương pháp thống kê toán học
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận 

Đai­ ri nhà giáo dục Liên­xô cũ đã từng nói: “ Dạy Lịch sử  cũng như 

4


dạy bất cứ thứ gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không 
phải bắt buộc các trí nhớ làm việc, bắt nó ghi chép rồi trả lại”. Như vậy mục  
đích của dạy học lịch sử là người giáo viên không chỉ giúp học sinh hình dung, 
ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà việc  dạy học lịch sử là tái tạo lại 
“hiện thực quá khứ  lịch sử  “ đó cho người học thông qua những chứng cứ 
vật chất, dấu vết lịch sử để lại. 
        Nghiên cứu và sử dụng trò chơi học tập vào mục đích giáo dục và phát  
triển một số  năng lực, phẩm chất trí tuệ  cho HS, mà tiêu biểu là các nhà sư 
phạm nổi tiếng như T.M. Babunova, A.K. Bodarenco, ….. Với khuynh hướng  
này, trò chơi học tập được xem như  là một phương pháp dạy học hiệu quả,  
góp phần quan trọng vào việc nâng cao tính tích cực, độc lập trong quá trình 
nhận thức của HS. Mục đích cuối cùng là giúp người học có thể  hình dung 
được về  con người và hoạt động của con người trong bối cảnh thời gian,  
không gian lịch sử nhất định. Vậy để thực hiện mục đích đó, ngoài việc cung 
cấp kiến thức cho các em trên lớp, giáo viên nên hướng dẫn để các em tự tìm 
ra kiến thức, mở  rộng hiểu biết của mình bằng nhiều cách khác nhau và tự 
các em chuyển tải những thông tin đó đến bạn bè. Khi đó, các em sẽ càng say  
mê tìm tòi, nghiên cứu, dần dần hình thành ở các em tình yêu môn học. 

        Về mặt giáo dưỡng, lịch sử là một môn học mang tính giáo dục chính trị 
sâu sắc. Về giáo dục, cung cấp cho học sinh những hiểu biết về những thời  
kì lịch sử hào hùng của dân tộc và nhìn thấy được toàn cảnh lịch sử  thế  giới 
trong quá khứ. “Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống”, vì thế  việc giảng dạy 
lịch sử  như  thế  nào để  cho học sinh chúng ta “…phải biết sử  ta/ Cho tường 
gốc tích nước nhà Việt Nam” là nhiệm vụ rất  to lớn nhưng đầy vẻ vang của 
người thầy giáo. Nhưng trong thực tế, một bộ phận giáo viên và cả học sinh  
vẫn còn những nhận thức chưa đúng về  phân môn Lịch sử, không dành sự 
quan tâm đến môn học này dẫn đến chất lượng dạy và học chưa cao. Như 

5


vậy muốn đào tạo con người phát triển toàn diện thì vấn đề cấp thiết là thay 
đổi cách dạy, cách học phân môn Lịch sử. 
2.Thực trạng vấn đề nghiên cứu 
** Ưu điểm:
         Trước khi thực hiện đề tài này thì  t rường tiểu học Lê Hồng Phong thực 
hiện chương trình VNEN đã được 4 năm. Với mô hình dạy học hợp tác này 
(học sinh chủ  động học tập, tự  khám phá chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là 
người định hướng, tổ chức, hướng dẫn, gợi mở để  học sinh nắm được kiến  
thức). Vì vậy những học sinh chậm tiến được giáo viên hỗ trợ kịp thời.
          Chuyên môn đã tổ chức một số chuyên đề, hội giảng về các tiết dạy  
lịch sử  với một số  dạng bài lịch sử  để  giáo viên trao đổi học hỏi và rút kinh 
nghiệm. 
                 Trong giảng dạy giáo viên đã khai thác dụng đồ  dùng dạy học và 
phương tiện dạy học và từng bước  ứng dụng công nghệ  thông tin phù hợp  
trong dạy lịch sử. Một số  tiết học giáo viên đã tổ  chức các trò chơi học tập 
để củng cố kiến thức cũ hay ghi nhớ kiến thức mới,... xong các trò chơi chưa 
thu hút được sự tham gia nhiệt tình của các đối tượng học sinh.

            Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới 
VNEN cũng giống như  chương trình trước đây nhưng cách chia nội dung bài 
trong tài liệu Hướng dẫn học thì mỗi bài được tích hợp nhiều nội dung, gồm  
một chuỗi sự  kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử  tiêu biểu của một giai 
đoạn lịch sử nhất định. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 2 đến 3  
tiết.  Nội dung bài khá dài và dàn trải.  Như  vậy việc chia nội dung bài học 
theo từng thời kì, từng giai đoạn lịch sử, nội dung từng phần không tách bạch 
rõ ràng, sắp xếp một số chỗ chưa lôgic gây khó hiểu cho học sinh trong việc  
tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức. Do đó giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung 
từng bài để  thiết kế  các tiết dạy hấp dẫn, gây hứng thú cho các học sinh 
6


thông qua trò chơi học tập.
          Khi đề tài được áp dụng trong một học kì thì kết quả mang lại rõ rệt. 
Đa số học sinh có kĩ năng mạnh dạn, tự tin khi tham gia trò chơi, tích cực thảo 
luận nhóm và tự  nghiên cứu sách giáo khoa. Ngoài ra các em còn tự  tìm hiểu  
thông tin bài học trước qua nhiều kênh thông tin. Do đó các tiết học lịch sử trở 
thành những tiết học lý thú của cả  cô và trò, các em nhớ  các sự  kiện lịch sử 
để tham gia tốt vào các hoạt động ngoài giờ lên lớp như: “Rung chuông vàng”,  
chủ điểm “Uống nước nhớ nguồn”,… 
       ** Hạn chế 
Tuy nhiên do kiến thức của Lịch sử lớp 4 quá xa so với thời đại của 
các em hiện nay nên cả  giáo viên và học sinh cảm thấy khó hiểu, đồ  dùng 
dạy học ít, khó sưu tầm về tranh ảnh;  giờ học trở nên khô khan, nhàm chán 
với những sự  kiện tẻ  nhạt, những con số  vô hồn, ít đọng lại trong tâm trí 
non nớt của trẻ thơ.
 Thiết bị dạy học phục vụ cho  phân môn Lịch sử đã được các cấp và 
nhà trường đầu tư, trang bị nhưng cũng không thể  đáp ứng đầy đủ  nhu cầu 
dạy học Lịch sử. Các tranh, ảnh, mô hình, sa bàn, tư liệu lịch sử … còn ít.

Một vài giáo viên chưa đầu tư cho việc nghiên cứu, chuẩn bị bài trước 
khi lên lớp, chưa có phương pháp dạy hiệu quả  để  lôi cuốn người học; có 
đưa trò chơi vào dạy học các bài Lịch sử  nhưng  chưa nhiều, ít đầu tư  suy 
nghĩ nên dẫn đến tiết học không có sự  đổi mới, khởi sắc, đơn điệu trong  
hình thức tổ chức.
          Một số giáo viên chưa mạnh dạn trong việc đổi mới phương pháp dạy 
học.       Khi tổ chức trò chơi giáo viên chưa hiểu hết mục đích của trò chơi  
ấy mang lại ý nghĩa gì? Vận dụng kiến thức gì cho môn học. Khi tổ chức các 
trò chơi thì giáo viên giao việc cho học sinh chưa rõ ràng, cụ  thể. Thời gian 
quy định cho mỗi hoạt động chơi chưa rõ ràng.
7


Học sinh thiếu mạnh dạn, tự  tin khi tham gia các trò chơi truyền thống  
khô khan, nhàn chán dẫn đến thái độ chán học Lịch sử.
             Chính vì những   nguyên nhân đó bản thân tôi cần nhận thấy phải có  
những phương pháp dạy học phù hợp hơn trong quá trình giảng dạy  phân 
môn Lịch sử 4 theo cách dạy học mà chơi, chơi mà học.
** Nguyên nhân
Lịch sử  là những việc đã diễn ra và tồn tại trong quá khứ, một số  từ 
ngữ “cổ, từ Hán Việt” không được chú thích nên gây khó hiểu cho học sinh.  
Mặc khác các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình, nên các em chưa  và 
không hiểu nhiều đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông. 
Đối với các em thì đó là những chuyện của ngày xưa ngày xửa, nó quá xa vời 
mà các em chỉ mới xem qua phim hoạt hình và đọc truyện lịch sử. Các em ít 
tìm tòi về  lịch sử  mà chỉ  dành nhiều thời gian cho môn Tiếng Việt, Toán,  
Tiếng Anh. Nhiều em có tâm lí sợ học lịch sử vì cho rằng môn học này “khô, 
khổ, khó”. Khô vì giờ học tẻ nhạt, đơn điệu và nhàm chán. Khổ vì phải quan  
sát, phân tích, so sánh, đánh giá, khái quát, hệ  thống hóa, kể  chuyện, đóng 
vai. Khó vì phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện, nhân vật, mốc thời gian mà điều 

này đối với người lớn cũng hết sức khó khăn huống chi là trẻ  nhỏ. Từ  đó 
học sinh không hứng thú, học vẹt, học chỉ  để  trả  bài, để  qua các lần kiểm 
tra chứ hiểu và yêu thích phân môn này thì rất ít. 
         Ở lớp 4, Lịch sử là một phân môn hoàn toàn mới mẻ đối với các em,  
nhiều em còn bỡ ngỡ, chưa có cách học phù hợp để mang lại hiệu quả. 
 Thời lượng của một tiết học phân môn Lịch sử không quá 40 phút nên 
rất gò bó, eo hẹp khó có thể tổ chức trò chơi một cách thoải mái để đạt được  
hiệu quả cao.
          Một số  giáo viên còn ít có sự  đầu tư, chưa mạnh dạn điều chỉnh nội 
dung và thay đổi hình thức dạy học, ngại tổ  chức các trò chơi học tập trong 
8


các tiết dạy lịch sử nếu có tổ chức chỉ mang tính hình thức vì để chuẩn bị cho 
một trò chơi trong tiết học người giáo viên phải chuẩn bị rất nhiều  (đồ dùng 
học tập, các thiết bị  dạy học, hình thức tổ  chức, cách tổ  chức….),  nhất là 
ngại tổ chức các trò chơi khi soạn giáo án điện tử. Chính vì vậy mấy năm gần 
đây đa số học sinh không thích học và ít nhớ những kiến thức về lịch sử “cổ”  
do đó khi học lên các lớp trên các em không còn nhớ  được nhiều kiến thức 
lịch sử này. 
         Một số giáo viên còn ngại sưu tầm, thiết kế các trò chơi để phục vụ tiết 
dạy. Khi trong tiết dạy giáo viên như sợ học sinh không hiểu bài nên cố gắng  
nói nhiều và cho học sinh làm nhiều để  nắm bài, không dành thời gian chơi  
trò chơi.
      Một số  học sinh bị hổng kiến thức nên trong khi chơi không tự  tin tham 
gia hết mình. Nhiều học sinh còn lơ đãng trong quá trình học làm hiệu quả trò 
chơi hoặc kết quả đạt được chưa cao.
­ Qua điều tra khảo sát thực tế 5 lớp của khối Bốn trước khi thực hiện  
đề tài như sau: 
Sự yêu thích học phân môn Lịch sử của học sinh như sau

Mức độ yêu 

Lớp 4A Lớp 4 B

Lớp 4C Lớp 4 D

Lớp   4  Tổng
E

thích

26
25
18
18
23
110
Say mê hứng thú
5
5
4
3
4
21
Thích học
17
17
11
12
13

70
Không hứng thú
4
3
3
3
6
19
Kết quả cuối năm học 2015­ 2016 môn Lịch sử và Địa lí của toàn khối  
như sau:
Lớp 4A Lớp 4 B

Lớp 4C Lớp 4 D

Lớp   4  Tổng
E

Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành

26
5
19
2

25
5
19
1


18
4
14
0

18
3
15
0

23
4
18
1

110
21
85
4
9


Trăn trở  trước những thực trạng nêu trên, tôi nhận thấy dạy học bằng  
trò chơi sẽ tạo nên hứng thú và rèn luyện được khả năng phát triển tư duy rất  
tốt cho học sinh, giúp các em đạt kết quả  cao trong  học tập. Để  khắc phục 
thực trạng nên trên và nâng cao chất lượng dạy học, giáo viên cần sử  dụng 
hợp lý các phương pháp dạy học khác nhau. Trong đó  “ cần sử  dụng linh  
hoạt và có hiệu quả các trò chơi” trong dạy học Lịch sử là cần thiết. Phương 
pháp này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học, với định 

hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay  ở bậc Tiểu học theo phương 
châm “Nhẹ  nhàng hơn, tự  nhiên hơn và hiệu quả  hơn”. Việc   “sử  dụng có  
hiệu quả các trò chơi” sẽ có tác dụng phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học 
tập, giáo dục kĩ năng giao tiếp, tự  tin cho học sinh. Qua đó học sinh tiếp thu  
kiến thức bài học một cách nhẹ  nhàng, tự  nhiên làm cho giờ  học sinh động 
hơn, tự  nhiên hơn. Điều đó giúp các em biết và hiểu môn học sâu sắc hơn, 
tránh được sự gò bó, áp đặt trong lĩnh hội kiến thức. Từ đó các em sẽ biết yêu 
thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước; các em biết tôn trọng, bảo vệ 
cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử văn hóa; các em sẽ tự hào về đất  
nước, con người Việt Nam.
2. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp

Để nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn Lịch sử lớp 4, tôi đã đưa 
ra những biện pháp giúp giáo viên có định hướng đúng đắn trong việc thiết  
kế, lựa chọn trò chơi học tập, tạo tiết học sinh động, nhẹ  nhàng, đạt hiệu 
quả cao trong dạy học để giúp giáo viên và học sinh yêu thích Lịch sử.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.

Biện pháp 1: Chỉ đạo giáo viên xác định đúng vị trí, mục tiêu, nội dung,  
chuẩn kiến thức kĩ năng và đặc trưng bộ môn, nắm vững kiến thức Lịch một  
cách có hệ thống. 

10


Nói đến Lịch sử là nói đến từng giai đoạn lịch sử, mốc thời gian, các sự 
kiện lịch sử  , các triều đại, các cuộc khởi nghĩa và những anh hùng dân tộc 
ứng với mỗi triều đại , mỗi cuộc khởi nghĩa đó. Việc nắm kiến thức Lịch sử 
logic chính xác, có hệ thống của giáo viên là rất cần thiết, giúp học sinh định 

hướng và hiểu đúng về  một thời kì lịch sử, nhân vật lịch sử  và những trận  
đấu tranh oanh liệt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Thực tế  cho thấy một số  ít giáo viên chưa xác định được đúng đặc 
trưng của môn Lịch sử, mỗi tiết lên lớp chỉ  cung cấp cho học sinh đủ, đúng  
kiến thức trong sách giáo khoa, ít mở  rộng, liên hệ những kiến thức về hiện  
tại, chưa thiết lập được cho học sinh mối quan hệ  giữa các sự  kiện lịch sử 
với nhau, hệ  thống kiến thức không lôgic nên dẫn đến tình trạng giáo viên 
cung cấp đến đâu thì học sinh chỉ hiểu và biết đến đó, hết giờ  học gấp sách 
lại là kiến thức cũng “gấp” lại luôn. Nên đối với giáo viên việc đọc nhiều  
sách báo, nghiên cứu tài liệu, lấy thông tin, sư  tầm tư liệu có liên quan trong  
thời điểm hiện tại một cách cập nhật là điều hết sức cần thiết và quan trọng 
đối với phân môn Lịch sử. 
Phụ trách chuyên môn nhà trường tạo điều kiện để  các tổ  chuyên môn 
sinh hoạt, giáo viên hệ  thống hóa kiến thức môn mình giảng dạy, tránh dạy  
lớp nào biết lớp đó. Kiến thức Lịch sử  được trình bày trong SGK và SGV 
hướng dẫn rất đơn giản, ngắn gọn, nó như cái cốt, cái lõi để dựa vào đó giáo 
viên biết cách khai thác, hướng dẫn giúp học sinh tìm đúng nội dung, hiểu 
chính xác kiến thức được truyền tải. Chính vì vậy ngoài việc nắm vững kiến  
thức Lịch sử trong sách giáo khoa Tiểu học giáo viên cần phải chú trọng việc 
bồi dưỡng kiến thức, tư  liệu, cập nhật kip thời   thông tin qua nhiều nguồn  
khác nhau, khai thác có hiệu quả tài nguyên mạng, trong các cuốn sử liệu...để 
truyền thụ đến học sinh một cách chính xác. 
Ví dụ:  Một số yếu tố cơ bản trong chương trình phân môn Lịch sử lớp  4
Giai 

Thời 

Triều đại trị vì

Nội dung cơ bản của lịch sử.


11


đoạn lịch 

gian

Tên nước­ kinh đô

sử

Nhân vật lịch sử tiêu biểu

Buổi 

Khoản

đầu 

g   700  nước   Văn   Lang,  tập quán riêng.

dựng 

năm 

nước và  TCN 

  Các   Vua   Hùng,    Hình thành đất nước với phong tục, 
đóng   đô   Phong    Đạt được nhiều thành tựu như: đúc 

Châu­ Phú Thọ.
đồng( trống đồng), xây thành Cổ Loa.

giữ 

đến 

An   Dương   Vương, 

nước

năm 

nước Âu Lạc, đóng 

179 

đô ở Cổ Loa.

TCN
Hơn 

Từ 

Các triều đại Trung    Hơn 100 năm nhân dân ta anh dũng 

1000 

năm 


Quốc   thay   nhau  đấu tranh.

năm 

179 

thống trị nước ta

đấu 

TCN 

tiêu   biểu   như:   Hai   Bà   Trưng,   Bà 

tranh 

đến 

Triệu...

giành 

năm 

Với chiến thắng Bạch Đằng 938, Ngô 

lại   độc  938

Quyền giành lại độc lập cho đất nước 


lậ p
Buổi 

ta.
Từ  938   Nhà Ngô, đóng đô ở  Sau ngày độc lập, nha  nước đầu tiên 

đầu độc  đến 
lậ p

 Có nhiều nhân vật và cuộc khởi nghĩa 

1009

Cổ Loa.

đã được xây dựng.
  Khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm 
vào thời kì loạn 12 sứ  quân. Đinh Bộ 
Lĩnh   là   người   dẹp   loạn   thống   nhất 
đất nước.
  Đinh   Bộ   Lĩnh   mất,   quân   Tống   kéo 
sang xâm lược nước ta, Lê Hoàn lên 
ngôi lãnh đạo nhân dân đánh tan quân 
12


xâm lược Tống.
Nước 

1009­ 


Nhà   Lý,  nước   Đại    Xây dựng đất nước thinh vượng về 

Đại 

1226

Việt, kinh đô Thăng  nhiều mặt: kinh tế, văn hoá, giáo dục, 

Việt 

Long.

thời Lý

cuối triều đại vua quan ăn chơi xa xỉ 
nên suy vong.
 Đánh tan quân xâm lược nhà Tống lầ 
thứ hai.
  Nhân vật lịch sử  tiêu biểu:  Lý Công 
Uẩn, Lý Thường Kiệt...

Nước 

1226­ 

Triều   Trần,   nước   Tiếp tục xây dựng đất nước, đặc biệt 

Đại 


1400

đại   Việt,   kinh   đô  chú   trọng   đắp   đế,   phát   triển   nông 

Việt 

Thăng Long

nghiệp.

thời 

  Đánh   bại   cuộc   xâm   lược   của   giặc 

Trần

Mông­ Nguyên.
Các nhân vật lịch sử  tiêu biểu: Trần 
Hưng Đạo, Trần Quốc Toản...

Nước 

Thế   kỉ  Nhà   Hồ,   nước   đại   20 năm chống giặc Minh, giải phóng 

Đại 

XV

ngu, kinh đô Tây Đô. đất nước( 1407­ 1428).


Việt 

Nhà   Hậu   Lê,   nước  Tiếp   tục   xây   dựng   đất   nước,   đạt 

buổi 

Đại   Việt,   kinh   đô  được đỉnh cao trong mọi lĩnh vực thời 

đầu 

Thăng Long.

thời 

Lê Thành Tông.
  Các   nhân   vật   lịch   sử   tiêu   biểu:   Lê 

Hậu Lê

Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông

Nước 

Thế   kỉ  Triều Lê suy vong

Các   thế   lực   phong   kiến   tranh   nhau 

Đại 

XVI­ 


quyền lợi, nhà lê suy vong, đất nước 

Việt 

XVIII

Triều Mạ
Trịnh­ Nguyễn

loạn lạc bởi nội chiến, kết quả  chia  

13


thế   kỉ 

cắt thành Đàng Trong­ đàng ngoài hơn 

XVI­ 

200 năm.

XVIII

Cuộc   khai   hoang   phát   triển   mạnh   ở 
đàng Trong.
 Thành thi phát triển.

Triều Tây Sơn


Nghĩa   quân   Tây   Sơn   đánh   đổ   chính 
quyền họ Nguyễn, học Trịnh.
 Nguyễn Huệ  lên ngôi hoàng đế, lãnh 
đạo nhân dân đánh tan giặc Thanh.
 Bước đầu xây dựng đất nước.
 Các nhân vật lịch sử tiêu biểu: Quang 
Trung..

Buổi 

1802­ 

Triều

đầu 

1858

nước Đại Việt, kinh  để thâu tóm quyền lực.

thời 

 

Nguyễn,   Họ Nguyễn thi hành nhiều chính sách 

đô Huế.

 Xây dựng kinh thành Huế.


Nguyễn
      Như vậy xác định đúng vị trí, mục tiêu, nội dung, chuẩn kiến thức kĩ  
năng và đặc trưng của môn học này được sẽ  giúp người giáo viên xây dựng 
được phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp, thiết kế được các trò  
chơi phù hợp sẽ truyền thụ được hết nội dung kiến thức Lịch sử đến với các  
em, giúp các em hiểu được sâu sắc được nội dung bài học.
Biện pháp 2. Bồi dưỡng kĩ năng soạn và trình chiếu giáo án điện tử, 
thiết kế các trò chơi cho giáo viên:
     Việc ứng dụng CNTT vào dạy học có hiệu quả thiết thực hay không  
phụ  thuộc chủ  yếu vào người giáo viên. Vì vậy người giáo viên cần phải  
14


mạnh dạn, không ngại khó, tự  thiết kế  và sử  dụng các Slides trong việc tổ 
chức các trò chơi học tập sẽ giúp rèn luyện được nhiều kĩ năng và phối hợp  
tốt các phương pháp dạy học tích cực khác.
      BGH triển khai tốt công tác bồi dưỡng thường xuyên, các Môdun có  
tác dụng thiết thực trong việc bồi dưỡng kiến thức và vận dụng vào thực tiễn  
dạy học. Bồi dưỡng giáo viên thực hành soạn và trình chiếu Power Point, tìm 
kiếm thông tin trên mạng. Tổ chức có chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên 
môn, chú trọng đề   chuyên đề: Nâng cao  kĩ năng soạn và trình chiếu giáo án 
điện tử, thiết kế các trò chơi cho giáo viên.
    Giáo viên tích cực tự học, tự tham gia các lớp tập huấn hoặc qua các 
buổi sinh hoạt chuyên môn nhằm nâng cao kĩ năng thực hành soạn và trình 
chiếu Power Point. Ta dễ dàng thấy rằng  trò chơi khi xây dựng bằng giáo án 
điện tử có nhiều ưu điểm:
+ Trong cùng một khoảng thời gian như nhau nếu tổ chức trò chơi bằng  
hình thức thủ  công sẽ  tốn nhiều công, nhiều kinh phí cho việc chuẩn bị  đồ 
dùng, nhưng nếu thiết kế bằng giáo án điện tử sẽ tốn ít thời gian, truyền tải 

được nhiều nội dung cùng một lúc.
+ Trò chơi bằng giáo án điện tử có thể một lúc kiểm tra được nhiều học 
sinh, nhiều đối tượng học sinh tham gia cùng một lúc.
+ Khi kiểm tra câu trả lời, sự  phản hồi của học sinh, giáo viên dễ  dàng 
bật máy và bấm nút để  kiểm tra. Tiện lợi nhất là câu trả  lời trắc nghiệm 
đúng/ sai.
+ Giáo án điện tử  thực sự  có những hình  ảnh đẹp, mới lạ, sống động 
nhiều trường hợp có cả âm thanh. Nên kiến thức trở nên gần gũi, học sinh dễ 
hiểu và thực tế hơn.
+ Tiết kiệm được đồ dùng.

15


     Qua từng đợt BGH có đánh giá việc soạn giáo án điện tử và vận dụng 
vào thực tiễn dạy học của giáo viên.
Biện pháp 3. Trang bị  cho giáo viên những kiến thức, kĩ năng sư  phạm  
khi tổ chức trò chơi học tập môn Lịch sử:
     ** . Hiểu thế nào là “Trò chơi học tập”?
   Muốn tổ chức tốt một trò chơi thì trước hết người dạy phải hiểu thế 
nào là trò chơi ? Trò chơi học tập là trò chơi có luật, trong đó có nội dung tri  
thức gắn liền với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm 
của bản thân để  chơi, thông qua chơi, học sinh được củng cố  vận dụng các  
kiến thức, nội dung đã học vào các tình huống của trò chơi và do đó trẻ được 
học. Trò chơi học tập có tác dụng cả về mặt rèn luyện trí tuệ lẫn thể chất và 
phẩm chất đạo đức.
    Một trò chơi nói chung, trò chơi học tập nói riêng chỉ trở thành trò chơi 
thực sự  khi những người chơi thực hiện hành động chơi. Do đó nếu hành 
động chơi đòi hỏi những kiến thức, kĩ năng học sinh chưa có thì trò chơi đó  
không có tác dụng đối với các em. Trò chơi Lịch sử  là trò chơi trong đó có 

chứa đựng một trong các yếu tố về  Lịch sử.
* Các trò chơi khi dạy lịch sử:
1. Trò chơi "Nối nhanh tay".
2. Trò chơi " Buộc dây cho bóng".
3. Trò chơi " Ai nhanh ai đúng".
4. Trò chơi "Ô chữ kì diệu".
5. Trò chơi " Kết bạn".
6. Trò chơi " Đố vui".
7. Trò chơi " Thử tài đoán nhanh".
8. Trò chơi " Gửi thư nhanh".
16


9. Trò chơi " Điền đúng điền nhanh".
10. Trò chơi " Đoán tên nhân vật"...
**.  Nguyên tắc khi thiết kế và tổ chức trò chơi.
 ­ Chọn trò chơi phù hợp với từng bài học, bám chuẩn kiến thức kĩ năng, 
mục tiêu bài học và phù hợp với điều kiện của học sinh, lớp học. 
­ Xác định phạm vi, mục đích của trò chơi.
­ Chọn trò chơi phù hợp với kĩ năng cần rèn cho học sinh.
­ Biên soạn trò chơi phải xác định thời gian trong từng tiết dạy (3­5 
phút).
­ Trò chơi phải có sức hấp dẫn, thu hút được sự tham gia của học sinh và  
tạo được tâm lý thoải mái, hưng khởi trong học tập.
­ Tùy mỗi bài học để  thay đổi trò chơi nhằm thu hút học sinh và không 
nên lạm dụng quá nhiều trò chơi trong một tiết học.
­ Khi tổ  chức trò chơi giáo viên phải động viên, khích lệ  học sinh tham 
gia chơi bằng nhiều hình thức, tránh chê trách các em khi thua cuộc.Có thể nói 
cùng với học thì chơi là nhu cầu không thể thiếu được của học sinh tiểu học.  
Dù không phải là hoạt động chủ  đạo song vui chơi vẫn giữ  một vai trò rất 

quan trọng trong hoạt động sống và học tập của trẻ.
    Trò chơi học tập là trò chơi có nội dung gắn với hoạt động học tập 
của học sinh hướng đến sự  mở  rộng, chính xác hoá, hệ  thống hoá các kiến 
thức của các em nhằm phát triển các năng lực trí tuệ, giáo dục lòng ham hiểu  
biết của học sinh. Trò chơi học tập có tác dụng làm thay đổi hình thức hoạt  
động học tập trên lớp, làm không khí lớp học trở nên thoải mái, dễ chịu, giúp 
quá trình học tập trở nên hấp dẫn, nhẹ nhàng, tự nhiên, phù hợp với đặc điểm  
tâm sinh lí học sinh tiểu học là: “ Học mà chơi, chơi mà học”. Chính vì vậy  

17


vận dụng trò chơi học tập một cách hợp lí sẽ  góp phần nâng cao hiệu quả 
giáo dục.
** Hiểu vai trò, ý nghĩa của trò chơi học tập khi dạy Lịch sử  ở trường  
tiểu học.
     Trong giảng dạy nói chung và dạy lịch sử nói riêng, tổ chức trò chơi  
học tập có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trong đối với các em: 
 ­ Giúp các em thay đổi hình thức, phương pháp học tập thụ động trước  
đây,làm cho giờ học bớt căng thẳng, nặng nề, tạo cảm giác dễ chịu giúp học 
sinh hứng thú, tích cực tìm hiểu, khám phá và tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng 
hơn.
­ Rèn kĩ năng hợp tác theo nhóm, giao tiếp,  ứng xử  mọi tình huống khi 
tham gia vào trò chơi.
­ Tạo cho học sinh tự tìm tòi, sáng tạo, rèn luyện óc tư duy để hoàn thiện  
bản thân.
­ Qua trò chơi kích thích học sinh vận dụng những kiến thức đã học, rèn  
luyện trí nhớ, phát triển khả  năng phán đoán, suy luận… Từ  đó giúp các em  
xử lý các tình huống trong cuộc sống để thích nghi với điều kiện mới của xã  
hội.

­ Thông qua trò chơi giúp các em sống có kỉ luật, có nề nếp, có tình đoàn 
kết tương thân tương ái, lòng trung thành và có trách nhiệm lẫn nhau từ đó các 
em sẽ yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước, các em sẽ tôn trọng và 
bảo vệ. 
** Giáo viên chủ động, mạnh dạn đổi mới PPDH trong  từng bài dạy cụ  
thể:
Định hướng dạy học theo phương pháp tích cực, lấy học sinh làm trung 
tâm, giáo viên đóng vai trò chủ đạo thì việc chủ  động đưa phương pháp mới 

18


vào dạy học Lịch sử là cần thiết, phục vụ thiết thực cho dạy học nhẹ nhàng,  
tích cực, ở mỗi bài học, tiết học giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương 
pháp. Có thể một tiết học sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học cốt  
sao để  việc chuyển tải nội dung bài học một cách dễ  hiểu đến với mọi đối 
tượng học sinh trong lớp. Sử dụng phù hợp các phương pháp dạy học Lịch sử 
góp phần nâng cao chất lượng môn học nói riêng và chất lượng giáo dục nói  
chung.
Biện pháp 4. Chỉ đạo giáo viên tuân thủ các yêu cầu khi thiết kế và tổ 
chức các trò chơi trong dạy học Lịch sử:
 

­ Xây dựng và sử  dụng các trò chơi trong dạy học lịch sử  có vai trò rất 

quan trọng trong việc hình thành củng cố  tri thức cho học sinh, đây là hình 
thức để  kiểm tra, đánh giá và tự  kiểm tra đánh giá kết quả  học tập của học  
sinh bởi vì, khi hoàn thành các trò chơi học sinh sẽ nhận thấy những thiếu sót  
của mình, giáo viên biết kết quả  nắm kiến thức của học sinh. Song để  có 
được các trò chơi trong dạy học lịch sử có chất lượng đòi hỏi giáo viên phải 

đầu tư  suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo và dày công thiết kế. Đặc biệt nó đòi hỏi 
mỗi GV thật sự phải có tâm huyết với nghề nghiệp.
­ GV đọc kỹ  sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo,các loại tài  
liệu để  lựa chọn đúng vấn đề, xác định nội dung, khối lượng của trò chơi 
cho phù hợp, trên cơ  sở đó xây dựng ,thiết kế được những trò chơi  phù hợp  
với tính chất của bài học ,phù hợp với trình độ  nhận thức của học sinh và 
thời lượng tiết học.
­ Học sinh phải có sự  chuẩn bị  trước ( theo hướng dẫn phân công của 
GV), đây là điều rất quan trọng bởi vì phần lớn kiến thức chủ yếu  các em đã  
quên hoặc nhớ không chính xác. Mặt khác, cho các em chuẩn bị trước ở nhà là  
cách dạy học tích cực, học sinh chủ  động nắm vững kiến thức và được đối  
chiếu kiến thức đó trong tiết dạy của giáo viên .

19


­ Các trò chơi  phải phục vụ đúng yêu cầu của bài học, bám sát mục tiêu 
của bài,  mục tiêu của các tiểu mục, hay của 1 chương… kể cả mục tiêu về 
kiến thức, về kĩ năng,về tư tưởng tình cảm.
­ Hệ thống câu hỏi, bài tập được áp dụng trong các trò chơi phải phong 
phú, đủ các dạng trong  tiết học (có câu hỏi tái hiện, câu hỏi kiểm tra, câu hỏi  
nêu vấn đề…), đảm bảo tính vừa sức học sinh ( học sinh năng khiếu và học 
sinh chậm tiến) để  các em đều có thể  tham gia một cách tích cực trong giờ 
học lịch sử. 
       Những yêu cầu trên giúp cho việc nhận thức lịch sử  của học sinh  
được vững chắc, sâu sắc. Tránh tình trạng “học trước quên sau” hoặc chỉ học 
thuộc lòng mà không hiểu bài .
Biện pháp 5. Giúp giáo viên tiến hành tốt các bước khi tổ chức các trò 
chơi học tập:
Trong dạy học Lịch sử, trò chơi vô cùng quan trọng là phương pháp củng 

cố kiến thức, chốt kiến thức một cách khéo léo, nhẹ nhàng và đạt hiệu quả.
     Muốn vậy phụ  trách chuyên môn giúp giáo viên tổ  chức tốt trò chơi 
học tập theo các bước sau:
   Bước 1: Lựa chọn trò chơi.
Trên cơ  sở  mục đích, yêu cầu, nội dung của bài học mà giáo viên lựa 
chọn trò chơi cho phù hợp, sao cho trò chơi nào cũng trả  lời được câu hỏi: 
Với mục đích, nội dung của bài học này, có thể lựa chọn những loại trò chơi 
nào? Trò chơi nào sẽ  đạt hiệu quả  tốt nhất? Có như  vậy việc lựa chọn trò 
chơi và tổ  chức tiến hành chơi sẽ  đúng hướng và đạt kết quả  tốt. Thông  
thường đối với những bài học giới thiệu có thể sử dụng trò chơi  “Ai đúng, ai  
nhanh”; đối với những bài ôn tập, có thể  sử  dụng trò chơi “Ô chữ kì diệu”,  
hoặc  “Hái hoa dân chủ”; “Rung chuông vàng”,  “Ra câu đố”... Sau khi lựa 
chọn trò chơi, giáo viên chuẩn bị  những phương tiện cần thiết phục vụ  cho 
20


trò chơi, kế hoạch chơi, kể cả những phần thưởng cho những người tham gia  
và người thắng cuộc.
      Bước 2: Giới thiệu và tổ chức trò chơi.
       Giáo viên nêu tên trò chơi, chủ đề chơi, giải thích rõ mục đích, yêu cầu,  
cách chơi và luật chơi, cách đánh giá thắng thua cho học sinh . 
Giáo viên giới thiệu một cách hẫp dẫn, ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm, giới 
thiệu và giải thích phải đơn giản, dễ  hiểu để  các em nắm vững và hiểu trò 
chơi, cách chơi. Nếu học sinh chưa biết trò chơi đó giáo viên giải thích và cho 
học sinh chơi thử trước; nếu học sinh đã biết và nắm vững trò chơi giáo viên 
không cần giải thích nhiều chỉ cần nêu luật chơi.
 Bước 3: Tổ chức tiến hành trò chơi.
Để  trò chơi đạt kết quả  tốt, sau khi hướng dẫn và giải thích xong nên 
cho học sinh chơi thử  vài lần và như  vậy các em sẽ  nắm vững cách chơi, 
cũng có thể khi cho học sinh chơi thử xong giáo viên rút kinh nghiệm và điều 

chỉnh một vài yêu cầu nếu thấy cần thiết. Trong khi học sinh chơi giáo viên là 
trọng tài theo dõi diễn biến trò chơi để có những nhận xét đánh giá đúng đắn 
khách quan. Để  trò chơi thực sự  sôi động hấp dẫn cần sự  động viên cổ  vũ 
của tập thể đồng thời giáo viên kịp thời uốn nắn các trường hợp không trung 
thực hoặc vi phạm luật chơi. 
 Bước 4: Nhận xét đánh giá kết quả.
 Kết thúc trò chơi, giáo viên nhận xét, đánh giá kết quả  một cách khách  
quan công bằng giáo viên thống kê những ưu, nhược điểm của từng cá nhân, 
từng đội cụ  thể: Về thời gian, ai hoàn thành trước, kết quả  đúng hay sai, số 
người vi phạm luật lệ. Dựa vào yêu cầu, nội dung chơi và kết quả. Giáo viên 
tạo điều kiện cho học sinh tự nhận xét, đánh giá lẫn nhau. Giáo viên dành ít  
phút biểu dương khen ngợi những cá nhân, đội chơi đạt kết quả  tốt, hoạt 
động tích cực.
21


  ** Một số trò chơi thường sử dụng:  
Ví dụ 1:  Khi dạy Củng cố các cuộc khởi nghĩa của nhân ta chống lại ách 
đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc thì sẽ cho tổ chức trò chơi " 
Nối nhanh tay"
   ­ Chuẩn bị:  2 tờ giấy có ghi đầy đủ các nội dung chơi, 2 bút dạ.
    ­ Cách tiến hành: 
  Chọn hai đội chơi, mỗi đội có 6 học sinh.
  Giáo viên cho cả lớp cùng quan sát, sau đó giáo viên phát cho hai nhóm, 
mỗi nhóm 1 tờ  giấy có nội dung như  trên màn hình, mỗi đội có 15 giây đọc 
các thông tin trên bảng. Sau khi giáo viên hô "1, 2, 3. Bắt đầu!" và tính giờ thì 
mỗi đội cử  1 em lên nối, nối xong em đó trở  về  đứng cuối hàng em thứ  hai  
mới được lên. Cứ  như  vậy cho đến học sinh cuối cùng. Hết giờ  đội nào nối 
đúng nhiều hơn, thời gian nhanh hơn, nối đẹp hơn đội đó là đội thắng cuộc.
­ Nội dung trò chơi" nối nhanh tay":

Nối các ý cột A với các ý ở cốt B cho phù hợp

A

B

( Thời gian)

( Các cuộc khởi nghĩa)

 Năm 40

Khởi nghĩa Lí Bí

 Năm 248

Khởi nghĩa Mai Thúc Loan

Năm 542

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng

Năm 550

Chiến thắng Bạch Đằng

Năm 722

Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ


Năm 766

Khởi nghĩa Triệu Quang Phục

22


Năm 905

Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ

Năm 931

Khởi nghĩa Bà Triệu

Năm 938

Khởi nghĩa Phùng Hưng

­ Tác dụng của trò chơi này: Học sinh được quan sát đáp án và nhận xét 
nhanh bài của các đội.
Ví dụ 2. Khi  dạy các sự kiện lịch sử, thời gian và địa danh lịch sử  ngay  
sau khi học bài Nhà Trần và việc đắp đê cho học sinh chơi trò chơi  "Ai nhanh 
ai đúng"
­ Chuẩn bị: Các câu hỏi liên quan trong phạm vi bài học. Các câu hỏi và  
đáp án đều được chuẩn bị đủ trên giáo án điện tử.
­ Cách tiến hành:
Chơi theo tổ, mỗi tổ  được lựa chọn câu hỏi 3 lần, trả  lời đúng 1 câu  
trong 10 giây được 10 điểm, nếu đội lựa chọn không trả  lời được đội kia 
giành quyền trả lời nếu đúng được 10 điểm, sai bị  trừ 5 điểm.( Trò chơi này 

có thể áp dụng cho tất cả các bài học khi củng cố kiến thức).
1

2

3

4

5

6

7

Câu hỏi 1: Nhà Trần thay thế cho triều đại nhà nào?
Câu hỏi 2: Nhà Trần thành lập năm nào?
Câu hỏi 3: Tên một chức quan trông coi việc đắp đê.
Câu hỏi 4: Thời Trần quy định con trai từ  bao nhiêu tuổi trở  lên phải 
dành một số ngày tham gia đắp đê?
Câu hỏi 5: Nghề chính của nhân dân ta cuối thời Trần là nghề gì?
Câu hỏi 6: Tên nước ta dưới triều Trần là gì?
Câu hỏi 7: Kinh đô dưới thời Trần ở đâu?
23


­ Tác dụng của trò chơi này:  Học sinh có thể  chọn bất kỳ  ô chữ  nào, 
không nhất thiết máy móc chọn lần lượt các ô chữ. Trò chơi này có thể  tổ 
chức chơi cá nhân, nhóm hoặc cũng có thể  chơi cả  lớp bằng cách học sinh  
viết câu trả lời vào bảng con.

       Ví dụ 3.  Bài 1: Nước Văn Lang (Sử dụng công nghệ thông tin)
(Lịch sử lớp 4­ trang 11)
      Giáo viên chiếu hình 1: Học sinh đây là lược đồ  Bắc Bộ, Trung Bộ  ngày 
nay. Khoảng 700 năm trước công nguyên, ở khu vưc Sông Hồng, Sông Mã và  
Sông Cả, nơi người lạc Việt sinh sống, nước Văn Lang ra đời. Kinh đô đặt ở 
Phong Châu (Phú Thọ)
       Giáo viên chiếu hình 2:  Đứng đầu nhà nưôc có vua, gọi là Hùng Vương. 
Lăng vua Hùng ở Phú Thọ.
     Giáo viên chiếu hình 3,4,5:  Đây là những đồ  dùng như  lưỡi cày, lưỡi xéo 
muôi (bằng đồng )
     Giáo viên chiếu hình 6,7,10: Đây là các hình vẽ trang trí trên trống đồng;
   Trò chơi này thường tổ  chức cuối giờ  học hướng dẫn viên vừa chỉ  vừa  
thuyết minh. Cả  lớp nhớ  lại buổi đầu dựng nước của dân tộc ta. Đây cùng 
chính là nhằm cũng cố bài học.
Ví dụ  4. Củng cố kiến thức về thời gian, nhân vật và sự kiện lịch sử về 
chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938 tổ chức trò chơi " Ô 
chữ kì diệu"
­ Chuẩn bị: Các ô chữ, các câu hỏi và đáp án trên giáo án điện tử.
­ Cách tiến hành:
+ Ô chữ gồm 8 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc. Cách chơi như sau:
Cả lớp chia thành 4 đội chơi.
Các đội chơi lần lượt chọn từ  hàng ngang, giáo viên sẽ  đọc gợi ý về 
các từ hàng ngang, đội chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời. Nếu sai hoặc sau  
24


30 giây không có câu trả lời thì đội khác được quyền đoán.

Mỗi   từ   hàng 


ngang được 10 điểm, từ hàng dọc được 30 điểm. Trò chơi kết thúc khi có đội 
tìm ra từ hàng dọc.
Đội nào có điểm cao hơn thì đội đó thắng.
­ Nội dung ô chữ và gợi ý cho từng ô chữ:
1. Hậu quả mà quân nam Hán phải nhận khi sang xâm lược nước ta năm 
938.( thất bại)
2. Nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô.( Cổ Loa)
3. Vũ khí làm thủng thuyền của giặc.( cọc gỗ)
4. Ngô Quyền đã dựa vào hiện tượng thiên nhiên này để đánh giặc.(thuỷ 
triều)
5. Quê của Ngô Quyền.(Đường Lâm)
6. Quân nam Hán đến từ phương này.(Bắc)
7. Người lãnh đạo trận Bạch Đằng.(Ngô Quyền)
8. Tướng giặc tử trận ở Bạch Đằng.(Hoằng Tháo)
­ Tác dụng của trò chơi này:  Thiết kế  trò chơi này trên máy chiếu sẽ 
không mất nhiều thời gian, cả  âm thanh như  tiếng vỗ  tay khen khi học sinh  
trả lời đúng. Học sinh có thể tự lựa chọn câu hỏi. 
Ví dụ 5. Giúp học sinh củng cố về thời gian, nhân vật lịch sử, giáo viên 
sử dụng trò chơi: “ Đố vui”, giáo viên chuẩn bị các câu đố, lời giải.
­ Cách tiến hành: Cả  lớp cùng tham gia; cuối giờ  học giáo viên nêu các  
câu thơ, nếu học sinh nào nhanh giành quyền trả  lời đúng được thưởng 1 
bông hoa xuất sắc.
Câu hỏi: Ai quê ở tận Hà Tây  
         Cờ lâu tập trận đố bạn là ai? 
25


×