Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

SANG KIEN KINH NGHIEMSKKN - VAT LI 6.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.91 KB, 8 trang )


Đề tài : Hớng dẫn học sinh học tập Vật Lý 6 ở lớp và ở nhà
I- Lí do chọn đề tài:
Trong quá trình học tập, học sinh vừa là đối tợng vừa là chủ thể của sự
lĩnh hội các tri thức. Việc học tập của học sinh không những là một quá trình
tiếp thu, ghi nhớ các sự kiện, hiện tợng, khái niệm, công thức.... đợc giáo
viên truyền đạt mà còn phải là một quá trình chủ động tích cực lĩnh hội tri
thức, một quá trình chỉ có thể đạt đợc hiệu quả do nghiền ngẫm tài liệu với
một sự việc tự lực năng nổ. Hớng dẫn học sinh học tập là một điều hết sức
cần thiết. Không có một dạng làm việc nào của học sinh mà lại không đòi hỏi
sự hớng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp của giáo viên. Có rất nhiều công việc
học sinh phải làm trong quá trình học tập vật lý. Nhng tôi chỉ đi sâu vào hai
nội dung chủ yếu đó là hớng dẫn học sinh học tập vật lý ở trên lớp và hớng
dẫn học sinh học tập vật lý ở nhà.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Hớng dẫn học sinh học tập vật lý ở trên lớp:
Trong toàn bộ quá trình học tập vật lý của học sinh thì khâu học tập ở
trên lớp là vô cùng quan trọng, giữ một vai trò chủ yếu. Những công việc mà
học sinh phải làm trên lớp rất đa dạng. Ngay chỉ trong một giờ họ mà phải
nhiều công việc phải làm nh: Nghe giảng, suy nghĩ chuẩn bị ý kiến xây dựng
bài, qua sát thí nghiệm ghi chép đọc sách giáo khoa, làm thí nghiệm luyện
tập v.v... Tất cả những công việc đó hợp thành một thể liên hoàn và hoàn
chỉnh nhằm đạt tới mục đích, nhất định của giờ học. Do vậy bất kỳ hoạt động
nào của học sinh giáo viên cũng phải quan tâm và có những hớng dẫn cụ thể:
a. Hớng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa ở lớp:
1

Sách giáo khoa vật lý đợc soạn và nhằm để học sinh dùng làm tài liệu
học tập .
Đối với giáo viên sách giáo khoa là tài liệu chủ yếu để giáo viên làm
kế hoạch và soạn giáo án giảng dạy. Học sinh sử dụng sách giáo khoa ở trên


lớp là để tự mình tìm hiểu kiến thức, tự mình khai thác kiến thức. Vì vậy cần
phải coi việc sử dụng sách giáo khoa là một công tác tự lực của học sinh
đồng thời cũng là để rèn luyện cho học sinh biết cách đọc sách và sử dụng
sách ở trên lớp có thể cho học sinh sử dụng sách giáo khoa trong những trờng
hợp sau:
- Học sinh sử dụng sách giáo khoa làm tài liệu nghiên cứu.
- Học sinh có thể sử dụng sách giáo khoa để củng cố tài liệu vừa học
trong giờ học nh xem lại các định nghĩa,các khái niệm vật lý để việc làm đó
có hiệu quả thì sau khi học sinh đọc xong cần bắt học sinh nhắc lại và nói lên
những điều mình hiểu đợc. Thí dụ nh nhắc lại định nghĩa và phân tích các
khái niệm có mặt trong đó.
Có thể cho học sinh sử dụng sách giáo khoa để tự nghiên cứu một vấn
đề nào đó thay cho việc trình bày bằng lời của giáo viên. Đây là một công
việc có tính chất tự lực cao của học sinh đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu
chu đáo và thận trọng trong việc chọn đề tài cho học sinh tự nghiên cứu.
Tự nghiên cứu sách giáo khoa là một vấn đề khó đối với học sinh. Điều
quan trọng là phải làm cho học sinh quen dần với loại hoạt động này.
Đó là nêu rõ mục tiêu cụ thể của từng bài về kiến thức, kĩ năng và thái độ
đã đợc lợng hoá mà học sinh đã đạt đợc
Trong khi học sinh đọc sách giáo khoa giáo viên có thể làm những việc
cần thiết chuẩn bị cho đàm thoại nh , chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm, đồng thời
quan sát theo dõi việc đọc của học sinh. Sau khi đọc xong giáo viên tiến hành
đàm thoại theo hệ thống câu hỏi sách giáo khoa, trong một số trờng hợp cần
kèm theo câu hỏi phụ nhằm giúp học sinh hiểu sâu kiến thức hơn, từ đó tự
rút ra nhận xét và đi đến hình thành khái niện. Cuối cùng giáo viên tổng kết,
sau đó đa ra kết luận đúng và ra bài tập vận dụng cho học sinh để rèn luyện
kỹ năng củng cố kiến thức đồng thời cũng là để kiểm tra mức độ thông hiểu
kiến thức của học sinh.
Ta hãy xét một thí vụ về hớng dẫn học sinh tự đọc đề tài "Thực hành
xác định khối lợng riêng của sỏi. Theo sách giáo khoa vật lý 6 tại lớp.

2

Trớc tiên giáo viên cùng với học sinh nhắc lại công thức tính khối lợng
riêng của một chất D =
v
m
. Sau đó giáo viên đề xuất vấn đề tạo nên nhu cầu
học tập cho học sinh rồi yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa để trả lời các
câu hỏi sau:
1. Để xác định KLR của một chất ta cần đo những đại lợng nào ? và
dùng dụng cụ nào để đo.
2. Nêu quy tắc cân ? những chú ý khi sử dụng cân.
3. Nêu cách đo thể tích vật rắn không thấm nớc.
4. Cách đổi đơn vị mg , g thành kg; cm
3
, dm
3
, ml , l ..thành m
3

5. Cách ghi mẫu báo cáo thí nghiệm.
6. Nêu các bớc tiến hành đo.
- Giáo viên cần hớng dẫn
- Trớc hết khi xác định thể tích của sỏi cần phải rửa sạch làm khô.
- Khi đổ nớc vào bình chia độ cần cầm ống hơi nghiêng một chút để n-
ớc khỏi rơi ra ngoài.
- Trong khi đo bình chia độ phải đặt thẳng đứng để kết quả đọc đợc
chính xác.
- Khi cân để cân ở mặt bàn nằm ngang, điều chỉnh cân thăng bằng.
- Không cân những vật lớn hơn giới hạn của cân.

- Nếu cân Robecven có thanh điều chỉnh thì ĐCNN của cân là giá trị
của khối lợng ứng với một vạch chia trên thanh điều chỉnh.
Khi học sinh đã có một số kỹ năng sử dụng sách giáo khoa, giáo viên
có thể vận dụng phơng pháp dạy học chơng trình hoá vào việc sử dụng sách
giáo khoa trên lớp. Trớc hết giáo viên nghiên cứu kỹ nội dung đề tài trình
bày trong sách giáo khoa và soạn các câu hỏi theo chơng trình đờng thẳng
hoặc phân nhánh. Những câu hỏi này đợc chép lên bảng phụ hoặc bảng phụ.
Việc làm này đòi hỏi giáo viên phải có nhiều biện pháp tích cực theo dõi
hoạt động của học sinh. Cuối cùng giáo viên đa ra một số câu hỏi nhằm hệ
thống hoá lại vấn đề học sinh đã học. Qua đó kiểm tra mức độ thông hiểu của
học sinh.
3

b. Hớng dẫn học sinh ghi chép
Trớc hết cần phải khẳng định rằng việc học sinh ghi chép vào vở là rất
cần thiết.Việc ghi chép theo giáo viên lôi cuối học sinh vào công việc chung
với giáo viên kích thích học sinh tập trung chú ý vào tài liệu trình bày. Việc
biến học sinh thành ngời chỉ ngồi nghe và nhìn sẽ dẫn học sinh đến tình
trạng thụ động kéo theo sự phân chia t tởng. Về nhà xem lại điều đã ghi ở
lớp, nhờ sự liên tởng học sinh nhớ lại bài giảng của giáo viên tốt hơn và sáng
tỏ đợc nhiều đoạn của bài giảng mà sách giáo khoa không thể làm đợc.
Việc ghi chép của học sinh ở trên lớp không chỉ làm cho học sinh tập
trung chú ý vào bài giảng mà còn giúp học sinh biết phân tích so sánh, tổng
hợp các vấn đề, biết chọn những vấn đề chủ yếu. Cần phải ghi chép để nhớ
để hiểu làm chìa khoá mở cho các vấn đề sau. Học sinh không thể máy móc
ghi từng lời, từng chữ của giáo viên mà phải chọn lọc cân nhắc trên cơ sở
hiểu vấn đề. Do đó mà t duy của họ phát triển, kiến thức của họ đợc khắc sâu
mang nhiều tính chất tự giác tích cực.
Không nên cho rằng học sinh đã có sách giáo khoa thì không cần ghi
chép hay vẽ hình gì cả, sợ mất nhiều thời gian vẽ không đẹp không đúng.

Học sinh ghi sai là do các em cha hiểu kiến thức hoặc hiểu sai. Đấy cũng là
một cơ hội rất tốt để giáo viên biết tình hình tiếp thu kiến thức của học sinh,
qua đó mà uốn nắn sửa chữa kịp thời. Vậy học sinh cần phải vẽ hình và ghi
chép thế nào ? Khi nào thì cần vẽ hình và ghi chép ? Trớc hết học sinh cần vẽ
những hình nào có tác dụng giúp các em hiểu kỹ bài. Nên ghi theo lời giảng
của giáo viên. Cần chú ý ghi hoặc (hoặc vẽ) theo những điều mà giáo viên
dặn dò. Ghi chép bảng tóm tắt mà giáo viên trình bày trên bảng. Trong khi
ghi chép và vẽ hình, học sinh có thể tự ghi chú thêm dùng ký hiệu để nhấn
mạnh điều quan trọng, đánh dấu hỏi ở những điểm cha rõ, cần tìm hiểu thêm.
Ghi chép, vẽ hình là công việc tự lực của học sinh, giáo viên không thể
làm thay. Nội dung ghi chép của học sinh dù đầy đủ đến đâu cũng không thể
thay sách giáo khoa. Vì vậy phải tránh hết sức đọc chính tả cho học sinh mà
phải hớng dẫn cho học sinh tự ghi chép.
Để giúp cho học sinh có thể tự ghi chép tài liệu mà giáo viên trình bày
có thể làm nh sau:
Lúc học sinh cha quen với việc trình bày tài liệu của giáo viên thì cần
nói cho các em biết khi nào ghi lại. Khi ghi ghi những gì và ghi nh thế nào ?
4

Khi học sinh đã biết ghi thì để các em tự ghi, giáo viên hớng dẫn bằng sự
thay đổi nhịp điệu giọng nói cũng nh thời gian nói và nghỉ. Lúc đầu cũng có
thể không cho học sinh ghi ngay vào vở mà ghi ra nháp. Sau đó về nhà dựa
vào sách giáo khoa các em sẽ chỉnh lý lại rồi ghi vào vở. Nhng không nên
kéo dài cách làm này vì lãng phí công sức.
2. Hớng dẫn học sinh học tập vật lý ở nhà:
Việc học sinh tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục và
giáo dỡng. Nếu việc học ở nhà của học sinh đợc tổ chức tốt nó rèn luyện cho
học sinh thói quen làm việc tự lực, giáo dục cho học sinh những tình cảm,
tinh thần trách nhiệm, giúp các em nắm vững tri thức kỹ năng và kỹ xảo. Ng-
ợc lại nếu việc học tập ở nhà của các em không đợc quan tâm tốt sẽ làm cho

học sinh quen thói làm ăn cẩu thả thái độ tắc trách đối với việc thực hiện
nhiệm vụ của mình và có những thói quen xấu làm cản trở đến việc học tập
quen lừa dối. Và do đó có thể làm cho học sinh mệt mỏi căng thẳng quá sức
không cần thiết.
Công việc học tập của học sinh ở nhà có những đặc điểm riêng của nó.
Đặc điểm thứ nhất là công việc đợc tiến hành trong một thời gian ngắn
không có sự hớng dẫn trực tiếp của giáo viên mặc dù đấy là công việc do
chính giáo viên giao cho học sinh phải tự mình hoàn thành, tự kiểm tra công
việc mình làm.
Đặc điểm thứ hai là công việc này đợc thực hiện tuần tự tuỳ theo hứng
thú, nhu cầu năng lực của học sinh.
Đặc điểm thứ ba là dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác có thể coi quá
trình học tập của học sinh ở nhà bao gồm các giai đoạn nh: Trớc hết phải
phục hồi những điều đã học trên lớp và sau đó phải phục hồi những điều đã
học trên lớp và sau đó rèn luyện vân dụng sáng tạo. Mỗi giai đoạn có một nội
dung công việc cụ thể. Tất nhiên giữa các giai đoạn này không có một ranh
giới rõ rệt. Việc học tập của học sinh ở nhà dĩ nhiên là phụ thuộc vào việc
dạy học trên lớp. Vì vậy giáo viên phải căn cứ vào tình hình nắm kiến thức
của học sinh và dựa vào tình hình cụ thể mà giao cho các em những việc có
tính chất bổ sung phục hồi tài liệu đã học nh nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ
hình...
5

×