Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc – từ thực tiễn thành phố hòa bình, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.25 KB, 118 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NINH VIT TNG

Bảo đảm quyền con ngời trong việc áp dụng biện
pháp đa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - Từ thực
tiễn
thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2019


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NINH VIT TNG

Bảo đảm quyền con ngời trong việc áp dụng biện
pháp đa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - Từ thực
tiễn
thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp v Lut Hnh chớnh
Mó s: 8380101.02

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. BI TIN T


H NI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Ninh Viết Tùng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
NINH VIẾT TÙNG...........................................................................................1
NINH VIẾT TÙNG...........................................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung

thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội...................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn............................................................................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................1
Ninh Viết Tùng..................................................................................................1
Chương 1.........................................................................................................12
1.1. Cơ sở lý luận của việc bảo đảm quyền con người trong áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.................................................................................................................12
1.1.1. Khái quát chung về quyền con người và bảo đảm quyền con người...............................12
1.1.2. Giới hạn quyền con người.................................................................................................16
1.1.3. Cơ sở lý luận của biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và đảm bảo quyền con
người trong trình tự, thủ tục tại Tòa án nhân dân......................................................................19


1.2. Pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người trong thủ tục áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: lịch sử và hiện tại...................................................................26
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 1995....................................................................................................26
1.2.2. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995...............................................................28
1.2.3. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008). 31
1.2.4. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.........................................................................36
1.2.5. Đánh giá việc bảo đảm quyền con người trong các Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành
chính năm 1995, 2002 và Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.........................................41
1.2.6. Đặc điểm của bảo đảm quyền con người trong áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc thông qua Tòa án nhân dân.............................................................................43
1.3. Đánh giá về việc bảo đảm quyền con người trong áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc theo pháp luật hiện hành.............................................................................54


Chương 2.........................................................................................................57
2.1. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc................................................................................57
2.1.1 Khái quát tình hình áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại
thành phố Hòa Bình – tỉnh Hòa Bình...........................................................................................57
2.1.2. Thực trạng bảo đảm quyền của người trong thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình – tỉnh Hòa Bình........................66
2.1.3. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân...................................................................................74
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người trong trình tự, thủ tục xem xét,
quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.........................................90
2.2.1. Nhóm những giải pháp chung...........................................................................................90
2.2.2. Nhóm những giải pháp cụ thể...........................................................................................94

KẾT LUẬN...................................................................................................102


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ICCPR:

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966

ICESR:

Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966

Pháp lệnh 09:

Pháp lệnh trình tự thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân số
09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban Thường

vụ Quốc hội khóa XIII.

UBND:

Ủy ban nhân dân

UDHR:

The Universal Declaration of Human Rights - Tuyên ngôn
thế giới về quyền con người năm 1948

XLHC:

Xử lý hành chính

XLVPHC:

Xử lý vi phạm hành chính


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Biểu đồ 2.1


Số lượng người sử dụng trái phép chất ma túy (nghi Error:
nghiện) đang ở cộng đồng giai đoạn 2009-2018
Refere
nce
source
not
found

Biểu đồ 2.2

Số người nghiện ma túy vi phạm pháp luật hoặc Error:
phạm tội giai đoạn 2009-2013
Refere
nce
source
not
found

Biểu đồ 2.3

Số người nghiện ma túy vi phạm pháp luật hoặc Error:
phạm tội giai đoạn 2014-2018
Refere
nce
source
not
found

Biểu đồ 2.4


Số người nghiện ngoài cộng đồng giai đoạn 2014-2018

Biểu đồ 2.5

Số người cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma Error:
túy số 1 tỉnh Hòa Bình theo Quyết định của Tòa án Refere
nhân dân thành phố Hòa Bình
nce
source

Error:
Refere
nce
source
not
found


not
found
Biểu đồ 2.6

Số hồ sơ đề nghị Tòa án xem xét, quyết định cai Error:
nghiện bắt buộc
Refere
nce
source
not
found


Biểu đồ 2.7

Thời gian cai nghiện bắt buộc theo quyết định của Error:
Tòa án
Refere
nce
source
not
found


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999
được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009
(có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010) đã phi hình sự hóa hành vi Sử
dụng trái phép chất ma túy vốn được quy định tại Điều 199 của Bộ luật Hình
sự năm 1999 để phù hợp với quy định của Luật phòng, chống ma túy năm
2000 (sửa đổi bổ sung 2008). Tinh thần này tiếp tục được thể hiện trong việc
xây dựng và ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Nhà nước ta khẳng định nghiện ma túy là một dạng bệnh lý cần chữa trị. Mức
độ nguy hiểm của việc nghiện hút không còn cao như trước. Hành vi sử dụng
trái phép chất ma túy chỉ cần áp dụng hình thức xử lý khác như là phạt tiền
hoặc cưỡng chế cai nghiện là đủ mà không cần phải xử lý bằng hình phạt. Tuy
nhiên, người sử dụng trái phép chất ma túy nói chung và người nghiện ma túy
nói riêng vẫn là nhóm người tiềm ẩn khả năng cao gây ra những hành vi vi
phạm pháp luật khác như trộm cắp, cướp giật tài sản, buôn bán chất gây
nghiện, giết người, cố ý gây thương tích, vi phạm pháp luật giao thông, gây
rối trật tự công cộng... gây ảnh hưởng tiêu cực an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Thực tế đã chứng minh rất nhiều vụ việc thương tâm xảy ra có nguyên nhân

từ việc người phạm pháp đang trong tình trạng hưng phấn, mất kiểm soát
hành vi do sử dụng ma túy.
Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vẫn bị coi là vi phạm hành
chính, tùy trường hợp có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc theo thủ tục xử lý hành chính với thời hạn từ 01- 02 năm.
Nếu như trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999, người phạm tội “sử
dụng trái phép chất ma túy” sẽ phải chấp hành hình phạt tù tại các cơ sở giam
giữ thì khi không truy cứu trách nhiệm hình sự với loại tội phạm này thì số

1


người nghiện ma túy ngoài cộng đồng gia tăng đáng kể. Đối với những người
sử dụng ma túy thường xuyên, bản thân họ bị lệ thuộc vào ma túy thì các biện
pháp giáo dục, thuyết phục, cai nghiện tại cộng đồng không đem lại hiệu quả.
Việc để họ sinh hoạt ngoài cộng đồng mà không có biện pháp cách ly với ma
túy thì không những không giúp họ thoát khỏi tình trạng nghiện ma túy mà còn
để lại lỗ hổng trong công tác quản lý nhà nước, đe dọa gây mất an ninh trật tự và
gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ cho những người xung quanh. Để khắc phục
tình trạng này, Nhà nước thành lập các trung tâm cai nghiện bắt buộc để nhằm
hạn chế số lượng người bị lệ thuộc vào chất ma túy ngoài cộng đồng, áp dụng
các liệu pháp điều trị cắt cơn để giúp họ sớm thoát khỏi tình trạng nghiện (chữa
bệnh), và đồng thời thực hiện các biện pháp giáo dục, cải tạo họ về ý thức chấp
hành pháp luật cũng như hướng nghiệp. Nên xét về mục đích, biện pháp cai
nghiện bắt buộc nhằm mục đích ngăn chặn, phòng ngừa là chủ yếu.
Đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc là một trong 3 biện pháp xử lý
hành chính, được Nhà nước quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân.
Khi đi cai nghiện bắt buộc, người nghiện ma túy bị hạn chế một số quyền tự do
cá nhân như: tự do cư trú và đi lại, bị áp dụng chế độ lao động, học tập, kỷ luật
theo quy định của Nhà nước. Do đó, việc giao cho Tòa án quyết định áp dụng

các biện pháp xử lý hành chính theo trình tự, thủ tục chặt chẽ với việc người bị
đề nghị được có mặt tại phiên họp, được trình bày ý kiến công khai, khắc phục
tình trạng đơn phương quyết định của Ủy ban nhân dân như trước đây là giải
pháp hữu hiệu bảo đảm quyền cơ bản của công dân, bảo đảm tính khách quan,
minh bạch, chính xác. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020”, xác định Tòa án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm
cũng như nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [38, Điều 102, Khoản 3].

2


Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013; theo Nghị quyết số 24/2012/QH13 ngày
20-6-2012 của Quốc hội “Về việc thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính”,
thì riêng các quy định liên quan đến việc xử lý hành chính (trừ biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn) do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định áp dụng.
Ngày 20/01/2014, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số
09/2014/UBTVQH13 quy định trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân có hiệu lực từ ngày
20/01/2014 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh 09). Pháp lệnh này quy định trình tự,
thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định
việc hoãn, miễn chấp hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành
phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại; khiếu nại, kiến
nghị, kháng nghị; giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong việc áp
dụng biện pháp xử lý hành chính [56, Điều 1]. Việc giao thẩm quyền này cho

Tòa án nhân dân là phù hợp với thực tiễn, thể hiện sự thay đổi căn bản trong
quan điểm của Nhà nước về việc cần có những bảo đảm quyền con người
trong thủ tục áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc. Bởi lẽ, các biện pháp xử
lí hành chính là biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt nghiêm khắc hơn
so với các hình thức xử phạt vi phạm hành chính khác (ví dụ như phạt tiền,
tịch thu tang vật) song ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, được áp dụng đối
với những cá nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự (tức là cao hơn so với vi
phạm hành chính và thấp hơn so với tội phạm).
Mặc dù trong giai đoạn đầu tiếp nhận thẩm quyền từ Ủy ban nhân dân cấp
huyện, số lượng hồ sơ đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy còn
thấp dẫn đến số lượng người nghiện ma túy ngoài cộng đồng còn tương đối cao,

3


gây ra nhiều vụ việc phức tạp về an ninh trật tự. Nhưng sau khi Tòa án nhân dân
tối cao có những hướng dẫn cụ thể, các Tòa án nhân dân địa phương đã thực
hiện tốt việc mở phiên họp cưỡng chế cai nghiện. Các quy định, biểu mẫu, thống
kê đã từng bước được hoàn thiện, sự tham gia của người nghiện ma túy trong
quá trình Tòa án giải quyết hồ sơ cũng tích cực hơn.
Tuy nhiên, qua 05 năm kể từ ngày Ủy ban thường vụ Quốc hội giao cho
các Tòa án nhân dân cấp huyện thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện ma túy bắt buộc, thực tiễn đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc, và
cũng chưa thực sự tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc đảm bảo quyền
của người bị đề nghị như mong đợi. Thời gian lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc kéo dài cùng với việc người nghiện ma túy thường
không có nơi cư trú, việc làm ổn định nên trong thời gian lập hồ sơ, chờ đi cai
nghiện họ vẫn thường xuyên sử dụng ma túy. Qúa trình xây dựng hồ sơ còn
thiếu các quy định về xác định nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để
Thẩm phán đưa ra phán quyết tương xứng đối với từng người nghiện ma túy

nên Tòa án gặp khó khăn trong việc đưa ra thời hạn cai nghiện bắt buộc và
đảm bảo sự công bằng giữa những người nghiện ma túy. Thêm vào đó, tại các
phiên họp thì người bị đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thường
không có mặt để trình bày ý kiến, quan điểm, nguyện vọng của bản thân. Bản
thân họ cũng không chấp hành các thủ tục và cũng chưa hiểu biết được đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó còn có những vi phạm của cơ
quan, người có thẩm quyền lập và xem xét hồ sơ đề nghị như không đánh giá
hết các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của người nghiện ma túy; không tạo điều
kiện để người nghiện ma túy được thu thập chứng cứ, trình bày ý kiến, đưa ra
mức đề nghị; vấn đề công khai, minh bạch các thủ tục... Thực tế đó đặt ra vấn
đề cần có những sự đảm bảo của Nhà nước về mặt pháp luật đối với quyền
của người nghiện ma túy trong giai đoạn Tòa án tiến hành xem xét, quyết định
việc xử lý hành chính với họ.

4


Quá trình Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình mở phiên họp xem xét,
quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế cai nghiện trong 05 năm qua cũng
gặp những khó khăn, hạn chế, vướng mắc tương tự. Việc nghiên cứu, đánh giá
hiệu quả triển khai Pháp lệnh số 09 trên địa bàn thành phố Hòa Bình để tìm ra
nguyên nhân của những hạn chế, định hướng và giải pháp nhằm đảm bảo hơn
nữa quyền của người bị đề nghị đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Tòa án là cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người nói chung
Quyền con người và bảo đảm quyền con người đã được đưa vào nghiên
cứu và giảng dạy từ lâu. Có rất nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu về quyền
con người nói chung và quyền con người trong thực hiện các thủ tục tại Tòa
án nói riêng. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như sau:

- Quyền con người (tập tài liệu chuyên đề của Liên hợp quốc), ấn phẩm
được xuất bản theo chương trình hợp tác giữa Khoa Luật ĐHQGHN, Trung
tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân trực thuộc khoa Luật
(CRIGHTS) và Trung tâm quyền con người quốc gia Na Uy (NCHR), Nxb.
Công an nhân dân, năm 2010.
- Quyền con người (tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của
Ủy ban công ước Liên hợp quốc) ấn phẩm được xuất bản theo chương trình
hợp tác giữa Khoa Luật ĐHQGHN, Trung tâm nghiên cứu quyền con người –
quyền công dân trực thuộc khoa Luật (CRIGHTS) và Trung tâm quyền con
người quốc gia Na Uy (NCHR), Nxb. Công an nhân dân, năm 2010.
- Thực hiện các quyền Hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Do
PGS.TS Trịnh Quốc Toản và PGS.TS Vũ Công Giao đồng chủ biên, Nxb.
Hồng Đức, năm 2015.

5


2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về biện pháp xử lý hành chính
- “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế
hành chính và trách nhiệm hành chính theo yêu cầu tôn trọng quyền con
người, quyền công dân” của PGS.TS Nguyễn Cửu Việt.
- “Về các biện pháp xử lý hành chính khác: thực trạng và định hướng
hoàn thiện”, của PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Kinh tế - Luật số 24, năm 2008, tr.152-159.
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Các biện pháp xử lý hành chính khác và
việc bảo đảm quyền con người” do Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ
Tư pháp thực hiện năm 2008.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Luận cứ khoa học cho những giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về ma túy”
của GS.TS Nguyễn Phùng Hồng và Đại tá Vũ Hùng Vương, Cục CSĐT tội

phạm về ma túy, năm 2001.
- Báo cáo ngày 06/8/2011 của Bộ Tư pháp về kết quả nghiên cứu, khảo
sát thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Báo cáo số 248/TANDTC-KHXX ngày 19/12/2013 của Tòa án nhân
dân tối cao về “Tổng kết thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở
giáo dục và đưa vào cơ sở chữa bệnh từ năm 2003 đến nay”.
- “Bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý
hành chính”, luận văn thạc sỹ của Dương Thị Bích Hạnh, Khoa Luật ĐHQGHN,
năm 2014.
- “Từ biện pháp XLHC đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, luận văn thạc sỹ của Phạm Tiến Thành, Khoa
Luật ĐHQGHN, năm 2014.

6


- “Quản lý nhà nước về công tác phòng chống ma túy ở Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập”, luận án tiến sỹ của Phan Thị Mỹ Hạnh, Học viện Hành chính
Quốc gia, năm 2016.
Ngoài ra còn nhiều công trình, tài liệu, bài nghiên cứu khác có liên
quan đến lĩnh vực đảm bảo quyền con người trong quá trình áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính đăng tải trên các tập san, tạp chí chuyên ngành như
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Tòa án
nhân dân, Tạp chí Kiểm sát; các tham luận tại Hội thảo chuyên đề về quyền
con người và các biện pháp xử lý hành chính... Các công trình trên đã cung
cấp nhiều kiến thức về lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo hữu
ích cho tác giả trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này.
Tuy nhiên, vấn đề bảo đảm quyền con người trong quá trình trình tự,
thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dưới góc độ

“quyền được xét xử công bằng” chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và
trực tiếp về cả lý luận và thực tiễn. Các công trình nghiên cứu, bài viết chỉ tập
trung vào việc bảo đảm quyền con người tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc mà
chưa tìm hiểu sâu về giai đoạn tố tụng tại Tòa án trước khi đi cai nghiện.
Quyền của người nghiện ma túy tại Tòa án là một vấn đề mới, ít được phân
tích, nghiên cứu.
Sau khi ban hành Luật XLVPHC năm 2012 và Pháp lệnh số 09, đã có
nhiều văn bản, nhiều hướng dẫn về thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế cai
nghiện. Những khó khăn, vướng mắc đã bộc lộ nhiều.
Để đánh giá kết quả 5 năm thực hiện chuyển giao thẩm quyền xem xét,
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc từ Ủy ban nhân dân cấp huyện sang Tòa án nhân dân cấp huyện theo
trình tự tư pháp thì đề tài mà luận văn này nghiên cứu có tính cấp thiết, ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Luận văn sẽ chỉ rõ cơ sở lý luận của việc áp

7


dụng biện pháp cưỡng chế cai nghiện; những ưu điểm, hạn chế, khó khăn
vướng mắc trong các quy định hiện hành và đề xuất những giải pháp cụ thể để
nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người trong áp dụng biện pháp cưỡng
chế cai nghiện tại Tòa án nhân dân.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận, pháp luật
của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cai nghiện và cần đảm bảo quyền con
người trong thủ tục đó. Thông qua nghiên cứu, khảo sát quy trình đưa người
nghiện đi cai nghiện bắt buộc tại địa bàn thành phố Hòa Bình, trong đó tập
trung vào các thủ tục tại Tòa án để đánh giá việc thực thi các quy định của
pháp luật trong thực tiễn của địa phương, tìm ra những mặt hạn chế, bất cập

để đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế
tăng cường bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần thực hiện các
nhiệm vụ sau:
- Phân tích các quy định của Luật Nhân quyền quốc tế và pháp luật của
Việt Nam có liên quan về biện pháp cưỡng chế cai nghiện qua đó làm rõ vấn
đề đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc cần thực hiện theo thủ tục tư
pháp, thuộc thẩm quyền của Tòa án.
- Phân tích, đánh giá 05 năm thực hiện thủ tục đưa người vào cơ sở cai
nghiện ma túy bắt buộc theo Pháp lệnh về trình tự, thủ tục đề nghị xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp XLHC tại Tòa án nhân dân, chỉ ra những
kết quả và tồn tại, hạn chế trong việc đảm bảo quyền con người của người bị
đề nghị (người nghiện ma túy) trong quá trình tiến hành các thủ tục đó.

8


- Đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để
vừa đảm bảo yêu cầu của quản lý nhà nước, vừa đảm bảo quyền con người
của người nghiện ma túy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là bảo đảm quyền con người trong
thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện tại Tòa án nhân dân.
Nghiên cứu việc bảo đảm quyền của người bị đề nghị đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại Tòa án. Nghiên cứu hệ thống các văn bản pháp luật trong
nước hiện hành có liên quan. Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định
pháp luật trên thực tế và hướng hoàn thiện.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có 03 giai đoạn
như sau: (1) lập hồ sơ đề nghị; (2) Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp cai nghiện và (3) giai đoạn người nghiện ma túy đi thi hành quyết định
của Tòa án tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Luận văn chỉ nghiên cứu giai
đoạn thứ hai là gia đoạn Tòa án xem xét các hồ sơ đề nghị. Qua đó, đánh giá
thực trạng bảo đảm quyền của người bị đề nghị tại Tòa án nhân dân thành phố
Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình trong 05 năm, từ năm 2014 đến hết năm 2018.
Vấn đề quyền con người và đảm bảo quyền con người trong giai đoạn
lập hồ sơ đề nghị và giai đoạn thi hành quyết định cưỡng chế cai nghiện của
Tòa án tại các cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc không thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận văn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Về cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

9


và các quan điểm của các tổ chức quốc tế, của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước và Pháp luật về quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt dưới góc độ
“quyền được xét xử công bằng” - một quyền tuyệt đối theo Luật Nhân quyền
quốc tế. Như các chủ thể tham gia các loại hình tố tụng tại Tòa án, trong thủ
tục áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, người bị đề
nghị “có quyền được hưởng một phiên tòa bình đẳng và công khai do cơ quan
xét xử độc lập và công bằng được thành lập theo quy định của pháp luật (Điều
10, 11 UDHR; Điều 11, 14, 15 ICCPR).
5.2. Về phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp

nghiên cứu cụ thể là phân tích, tổng hợp các tài liệu, công trình nghiên cứu;
thống kê, so sánh các số liệu thu thập thực tế; nghiên cứu các báo cáo, các hồ
sơ áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc của từng đối tượng tại địa phương;
khảo sát ý kiến của người nghiện ma túy tại các phiên họp do Tòa án tiến
hành từ năm 2014 đến hết năm 2018.
Ngoài ra, xuyên suốt luận văn là phương pháp tiếp cận dựa trên các
tiêu chuẩn quyền con người được Luật nhân quyền quốc tế thừa nhận và
hướng tới việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người trong trình tự, thủ
tục áp dụng biện pháp cưỡng chế đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa
án nhân dân. Phương pháp này giúp người viết triển khai các nội dung của
đề tài và chỉ ra những vấn đề pháp lý còn bất cập, chưa hoàn thiện trong
bảo đảm quyền con người.
6. Tính mới và đóng góp của luận văn
Các công trình nghiên cứu trước đây không nghiên cứu thủ tục áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dưới góc độ quyền con người và
cũng mới chỉ nêu ra những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quy
định của pháp luật có liên quan.

10


Luận văn này là công trình nghiên cứu, khảo sát chuyên sâu về việc
đảm bảo quyền con người trong quá trình Tòa án xem xét, quyết định áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa
Bình kể từ khi thẩm quyền này được trao cho các Tòa án nhân dân. Riêng về
bảo đảm quyền của người bị đề nghị với tư cách là quyền con người khi tham
gia các thủ tục pháp lý tại Tòa án vẫn còn ít được nghiên cứu ở nước ta.
Do đó, với những số liệu, phân tích, đề xuất mới của luận văn này sẽ có
giá trị tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật cũng như tạo ra cơ chế
để thực hiện và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người khi áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 2 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật của việc bảo đảm quyền con
người trong áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Chương 2. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền
con người trong áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực
tiễn thành phố Hòa Bình – tỉnh Hòa Bình.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA VIỆC
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC
1.1. Cơ sở lý luận của việc bảo đảm quyền con người trong áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.1.1. Khái quát chung về quyền con người và bảo đảm quyền con người
Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về quyền con
người thì “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc
mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con
người” [15, tr.37]. Quyền con người là giá trị thiêng liêng, hiện hữu trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống, đòi hỏi được tôn trọng và đảm bảo.
Qua các tài liệu, giáo trình, có thể đưa ra những thuộc tính cơ bản của
quyền con người như sau:
- Tính phổ biến: Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người (UDHR)
nêu: "Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các

quyền. Họ được phú cho lý trí và lương tri và cần đối xử với nhau trên tình
anh em" [27, Điều 1]. Như vậy, tự do và bình đẳng là quyền bẩm sinh và
không thể chuyển nhượng. Mọi cá nhân đều có quyền thụ hưởng các quyền và
tự do cơ bản. Cấm bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới
tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị hay quan điểm, dân tộc hay nguồn gốc xã
hội, tài sản hay giống nòi...
- Tính không thể bị tước bỏ: Các quyền tự do cơ bản của con người có
thể bị tước bỏ hoặc phải chịu những giới hạn nhất định. Những giới hạn đó nếu
có phải được quy định trong pháp luật với mục đích nhằm bảo đảo sự thừa

12


nhận các quyền tự do của người khác hoặc để đảm bảo các yêu cầu về đạo đức,
trật tự công cộng và vì sự thịnh vượng nói chung [27, Điều 29 Đến điều 30].
- Tính không thể phân chia: các quyền con người có giá trị ngang nhau,
không có quyền nào cao hơn quyền nào và có tầm quan trọng như nhau, đều
bắt nguồn từ phẩm giá con người nên chúng không thể phân chia và chuyển
nhượng. Tuy nhiên trong các tình huống nhất định, quốc gia cơ thể ưu tiên
đảm bảo thực hiện một số quyền theo khả năng của mình nhưng không có
nghĩa phủ nhận các quyền khác. Trước đây, các quốc gia Xã hội chủ nghĩa ưu
tiên các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa hơn là các quyền dân sự và chính trị,
trong khi Hoa Kỳ và các quốc gia thành viên Hội đồng Châu Âu lại thể hiện
sự ưu tiên các quyền công dân và chính trị hơn. Tuy nhiên, tại Hội nghị Quốc
tế về quyền con người ở Tehera năm 1968 cũng như Hội nghị Quốc tế về
quyền con người ở Vienna năm 1993, cuộc tranh luận này đã được giải quyết
bởi việc công nhận cả hai phạm trù hay xu hướng về quyền con người này là
quan trọng như nhau, không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau [62, tr.12].
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các
quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và

tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh
hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong
việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc
bảo đảm các quyền khác. Không thể bảo đảm riêng một quyền con người nào
đó mà bỏ qua các quyền khác.
Theo lĩnh vực, có thể phân loại quyền con người thành 2 nhóm chủ yếu sau:
- Các quyền dân sự, chính trị: bao gồm các quyền và tự do các nhân,
như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do biểu
đạt, quyền được bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công bằng...

13


- Các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa: quyền có việc làm, quyền
được bảo trợ xã hội, quyền được chăm sóc y tế... So với các quyền về dân sự,
chính trị thì nhóm quyền này thực chất hơn vì có những tiêu chí cụ thể để xem
xét xử lý khi có sự xâm phạm.
Kể từ khi Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người được thông qua năm
1948, các quốc gia trên thế giới đều lấy đó làm chuẩn mực chung về nhân
phẩm và các giá trị con người. Các quốc gia đã phê chuẩn hoặc gia nhập một
hoặc cả hai công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và công ước về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) đều chấp nhận nghĩa vụ pháp
lý cũng như luân lý trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền, tự do cơ bản
của con người. Theo đó, các quốc gia có nghĩa vụ:
- Nghĩa vụ tôn trọng: đòi hỏi các nhà nước phải tôn trọng các quyền tự
nhiên của con người bởi bản thân con người sinh ra đã được thừa hưởng các
quyền đó, không phải sự ban phát từ nhà nước. Việc ghi nhận hay không ghi
nhận không làm mất đi những quyền căn bản này và nhà nước không được
phép can thiệp vào việc thụ hưởng các quyền đó. Thực tế các quốc gia đều
đưa vấn đề quyền con người vào Hiến pháp - văn kiện có giá trị pháp lý cao

nhất của quốc gia mình.
- Nghĩa vụ bảo vệ: đòi hỏi các nhà nước phải có những biện pháp để
phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm quyền con người của
bên thứ ba. Người soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, Thomas
Jefferson có nói: "Một chính phủ tốt sẽ coi trọng việc bảo vệ chứ không phải
hủy hoại cuộc sống và hạnh phúc của mỗi con người là mục tiêu đầu tiên và
duy nhất của nó" [64].
- Nghĩa vụ thực hiện: đòi hỏi nhà nước phải chủ động có những
biện pháp hỗ trợ công dân được hưởng thụ các quyền con người ở mức
độ cao nhất.

14


Tại Việt Nam, bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ngày 02 tháng 9 năm 1945 có đoạn nêu: "Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc". Từ những ngày đầu lập nước, Việt Nam đã ghi
nhận các giá trị của quyền con người và xác định sẵn sàng thực thi các yêu
cầu của pháp luật quốc tế về quyền con người. Điều đó thể hiện qua việc Việt
Nam sớm gia nhập các tổ chức, các điều ước quốc tế về nhân quyền. Bao
gồm: trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc (gia nhập ngày 20 tháng 9 năm
1977); Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966
(ICESCR, gia nhập ngày 24 tháng 9 năm 1982); Công ước Quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR, gia nhập ngày 24 tháng 9 năm
1982); Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (CRC, phê chuẩn ngày 20 tháng
8 năm 1982); Công ước Quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc
năm 1966 (gia nhập ngày 09 tháng 6 năm 1981); Công ước Quốc tế về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW, phê chuẩn

ngày 17 tháng 02 năm 1982); Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng
phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác năm 1984 (CAT, phê
chuẩn ngày 28 tháng 11 năm 2014); Các công ước, điều ước Quốc tế của Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) liên quan đến quyền của người lao động; trở
thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UBHCR, ngày
12 tháng 11 năm 2013)...
Điều 14 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có nêu:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế

15


theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng.
Cùng với việc ký kết và gia nhập các tổ chức Quốc tế, các văn kiện
Quốc tế về quyền con người, Việt Nam cũng cam kết thực hiện các chính
sách, biện pháp và tăng cường nguồn lực bao gồm hoàn thiện hệ thống pháp
luật và tổ chức bộ máy nhà nước để đảm bảo tốt hơn các quyền con người
theo những chuẩn mực quốc tế.
1.1.2. Giới hạn quyền con người
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (gọi tắt là UDHR)
bên cạnh việc đưa ra một chuẩn mực cho tất cả các quốc gia, dân tộc phấn đấu
thực hiện để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của con người còn khẳng định
việc thực hiện các quyền tự do cơ bản của con người có thể phải chịu những
giới hạn nhất định. Các giới hạn này phải được quy định rõ trong pháp luật
với mục đích bảo đảm sự thừa nhận rộng rãi các quyền và tự do của người

khác hoặc để đảm bảo các yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng của một xã
hội dân chủ và việc giới hạn quyền chỉ trong một chừng mực nhất định (Điều
29 UDHR và Điều 4 ICESCR). Nguyên tắc này một lần nữa khẳng định các
nhà nước phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người nhưng cũng
được đặt ra và áp dụng các giới hạn cho một số quyền nhằm thực hiện chức
năng quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của cộng đồng và của các cá nhân
khác. Đồng thời ngăn chặn khả năng lạm quyền để vi phạm nhân quyền thông
qua việc ấn định những điều kiện chặt chẽ với việc giới hạn quyền, phòng
ngừa việc cá nhân có những suy nghĩ và hành động cực đoan trong việc thụ
hưởng quyền của mình. Giới hạn quyền cũng là cơ sở để bảo vệ quyền.
Như vậy, ngoại trừ một số quyền có tính chất tuyệt đối và không thể bị
giới hạn thì phần lớn quyền con người có thể bị giới hạn bằng luật trong

16


những điều kiện nhất định nhằm theo đuổi những mục đích hợp pháp, chính
đáng. Chỉ được đặt ra một giới hạn quyền nếu điều đó là cần thiết trong một
xã hội dân chủ và nhằm mục đích thúc đẩy phúc lợi chung của cộng đồng
hoặc để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng,
đạo đức xã hội hay để bảo vệ quyền và tự do của người khác. Một số quyền
có thể bị giới hạn được nêu trong luật nhân quyền quốc tế như: tự do đi lại, cư
trú (Điều 12 ICCPR); tự do ngôn luận (Điều 19 ICCPR)...
Có thể đưa ra các điều kiện căn bản mà các quốc gia viện dẫn để giới
hạn quyền con người gồm:
Thứ nhất, Trật tự công cộng: là tập hợp các quy tắc, nguyên tắc giúp
cho xã hội được thiết lập và hoạt động theo đúng chức năng của mình. Trong
xã hội có trật tự, các quyền con người được tôn trọng. Các nhân viên công
quyền và tổ chức công được thành lập để duy trì trật tự công cộng hoạt động
theo pháp luật và chịu sự kiểm soát, đối trọng.

Thứ hai, Sức khỏe cộng đồng: để đối phó với một số mối đe dọa
nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân, nhà nước có thể đưa ra biện pháp
đối phó thích hợp bằng việc giới hạn một số quyền để ngăn ngừa dịch bệnh,
cứu chữa bệnh nhân.
Thứ ba, Đạo đức công cộng: là một điều kiện mà Nhà nước có thể viện
dẫn để duy trì các giá trị cơ bản của cộng đồng. Tuy nhiên đạo đức luôn biến
đổi theo thời gian và phụ thuộc vào văn hóa bản địa.
Thứ tư, An ninh quốc gia: là sự toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị và
được hiểu trên phạm vi rộng chứ không chỉ dừng lại trong một cộng đồng, địa
phương. Lý do này có thể được đưa ra để giới hạn quyền con người song đôi
khi phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà nước và có thể bị lợi dụng một cách
tùy tiện, áp đặt.

17


×