Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Về vị trí và mối quan hệ của chủ nghĩa hiện thực với các trào lưu văn học khác trong lí luận văn học Việt Nam sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.35 KB, 10 trang )

Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

VỀ VỊ TRÍ VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
VỚI CÁC TRÀO LƯU VĂN HỌC KHÁC TRONG LÍ LUẬN
VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
Nguyễn Thị Hồng Hạnh*
TÓM TẮT
Chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu văn học quan trọng trong tiến trình văn học
Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Tuy nhiên, việc đánh giá về vị trí và mối
quan hệ giữa trào lưu này với một số trào lưu văn học khác còn có nhiều bất cập. Từ sau
1975, đặc biệt là từ cuộc đổi mới văn học năm 1986, vấn đề này đã được các nhà nghiên
cứu nhìn nhận lại và có những ý kiến đánh giá khách quan và thỏa đáng hơn.
ABSTRACT
On the position and relationship of realism with other literary trends in
Vietnamese literature theories after 1975
Realism has been an important trend of literature in literary process in Vietnam
and the world. However, the position and relationship of this trend with the others have
been evaluated inadequately. Since 1975, especially, from the literature innovation in
1986, researchers have reconsidered this issue and had more objective and reasonable
evaluations.

Chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu văn học ra đời vào thập niên 30 của thế
kỷ XIX ở Tây Âu, sau đó lan rộng và có mặt trong hầu khắp các nền văn học trên
thế giới. Với những nguyên tắc như lịch sử - cụ thể, điển hình hóa và khách
quan,… chủ nghĩa hiện thực tỏ ra có ưu điểm vượt trội trong phản ánh chân thực,
sinh động hiện thực đời sống cũng như thế giới bên trong con người. Chính vì lẽ
đó, chủ nghĩa hiện thực đã trở thành một trào lưu quan trọng trong tiến trình văn
học thế giới và vai trò, vị trí của chủ nghĩa hiện thực luôn là một vấn đề được
quan tâm. Tuy vậy, ở nước ta, trước 1975, việc đánh giá về vị trí và mối quan hệ


của chủ nghĩa hiện thực với các trào lưu khác vẫn còn nhiều bất cập. Từ sau
1975, đặc biệt là sau 1986, trong không khí chung của sự nghiệp đổi mới văn
học, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận thức lại vấn đề này và có những thay đổi
trong cách nhìn nhận so với trước đây.
*

ThS - Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ.

119


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Số 20 năm 2010

1. Về vị trí của chủ nghĩa hiện thực
Chủ nghĩa hiện thực là một bước tiến trong tư duy nghệ thuật của nhân loại.
Việc đánh giá cao vấn đề này kể cũng là chuyện đương nhiên. Tuy nhiên, có
không ít người đã nhiệt tình một cách thái quá, từ chỗ đề cao chủ nghĩa hiện thực
đã đi đến tuyệt đối hóa vai trò của trào lưu này. Tình trạng ấy đã được Lê Ngọc
Trà cảm nhận: “Trong một thời gian dài và cả hiện nay nữa, các nhà nghiên cứu
văn học thường nói nhiều về tính hiện thực, chủ nghĩa hiện thực của nghệ thuật
mà chưa đi sâu xem xét một cách đầy đủ những mặt khác thuộc nội dung của tác
phẩm. Điều đó tạo ra cảm giác rằng hình như chủ nghĩa hiện thực, sự phản ánh
chân xác cuộc sống là toàn bộ nội dung cơ bản của tác phẩm, là giá trị bao trùm
của nghệ thuật”, “Đến văn học cổ cũng bắt đầu bị đem ra đánh giá máy móc
theo tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực, xét hay dở căn cứ vào chỗ nó phản ánh
hiện thực bên ngoài nhiều hay ít” [8, tr.37]. Tình trạng đó cũng được nhà nghiên
cứu Nguyễn Văn Dân nhận thấy: “Thế rồi lâu nay trong kho tàng văn học thế
giới, chủ nghĩa hiện thực phê phán được chúng ta ưu ái nhất. Còn những sáng

tác ngoài chủ nghĩa hiện thực thì bị đánh giá thấp hơn [2, tr.54].
Sẽ không có vấn đề gì nếu việc đề cao chủ nghĩa hiện thực đáp ứng được
yêu cầu thực tế, giúp cho văn học ngày càng phát triển. Thế nhưng, trên thực tế,
tình trạng này đã dẫn đến những hậu quả khá nặng nề.
Đánh giá việc đề cao chủ nghĩa hiện thực, Lê Ngọc Trà cho rằng: “Quan
niệm như vậy không phù hợp với thực tế lịch sử nghệ thuật và cản trở việc nghiên
cứu sức mạnh tư tưởng của nó”. Nguyễn Văn Hạnh cảnh báo: “tuyệt đối hóa chủ
nghĩa hiện thực sẽ dẫn đến phủ nhận quyền tự do sáng tác, phủ nhận sự đa dạng
phong phú trong nghệ thuật, không thấy hết vai trò của chủ nghĩa nhân đạo vốn
là linh hồn của nghệ thuật chân chính” [2, tr.55].
Phong Lê trong Văn học trên hành trình thế kỷ XX cũng nhận định: “Không
kể các giá trị nghệ thuật chân chính, đích thực bị co hẹp lại khiến cho di sản tự
nhiên nghèo đi trong hướng tiếp nhận của quần chúng, mà hơn thế, nhiều giá trị
còn bị vùi dập, xử lý oan”[6, tr.412]. Đó là chưa kể điều này đã gây nên sự lúng
túng trong việc sử dụng thuật ngữ và đánh giá vị trí của các tác phẩm và nhà văn
lớn. Vì xem chủ nghĩa hiện thực là có giá trị nhất nên người ta lại quy tất cả
những thành tựu và những gì có giá trị cao trong văn học nhân loại về hiện thực.
Do vậy mà rồi sẽ có chủ nghĩa hiện thực cổ đại, hiện thực Phục hưng, và hiện
120


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

thực thế kỷ Ánh sáng, như là các chặng để đi đến Hiện thực phê phán thế kỷ
XIX, được xem là một giai đoạn phát triển cao trong các phương pháp khái quát
nghệ thuật. Và như vậy theo Phong Lê, “Cố nhiên, sự phân tích sẽ khó tránh khỏi
lúng túng khi phải thêm một định ngữ sau chữ hiện thực, để xác định nó là các
chặng, các giai đoạn đi tới, trước khi đến Chủ nghĩa hiện thực phê phán. Và một

sự phân biệt khó tránh, nhưng lại như muốn che giấu, úp mở như vậy sẽ gây nên
nhiều phân vân” [6, tr.411].
Trên tinh thần chỉ trích tính quan phương của văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa, Lại Nguyên Ân đã chỉ ra hậu quả của việc đề cao chủ nghĩa hiện thực một
cách khá mỉa mai rằng: “sự cổ vũ cho nhiệm vụ phản ánh hiện thực đã dẫn đến
một hậu quả không mong muốn (…) hóa ra văn học “phô bày toàn bộ hiện thực
phức tạp” không phải là thứ văn học có lợi! Như vậy, phải chăng đã đến lúc
đành phải gác lại khẩu hiệu “văn học phản ánh hiện thực” và từ nay không đặt
quả cân giá trị văn học vào chủ nghĩa hiện thực? [1, tr.473]. Từ đó, ông cho rằng
tâm lý nổi loạn trong văn học hiện thực phê phán những năm 30-45 có thể sẽ
nguy hiểm và tư tưởng cải lương của sáng tác của Tự lực văn đoàn lại hợp thời.
Nhìn thấy hiện trạng, các nhà nghiên cứu còn đi tìm nguyên nhân để lý giải
vấn đề. Phong Lê cho rằng sở dĩ chủ nghĩa hiện thực được đề cao vì các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chọn chủ nghĩa hiện thực làm “đối tượng phân
tích để xây dựng học thuyết của mình”, giai cấp vô sản trong buổi đầu bước vào
đấu tranh chính trị đón nhận chủ nghĩa hiện thực như “một lợi khí tinh thần đắc
lực để nhận thức các mặt tiêu cực, tệ hại và sự tha hóa của con người” và bản
thân nó, chủ nghĩa hiện thực phê phán, xuất hiện và phát triển ở thế kỷ XIX trên
nhiều nước phương Tây “quả là một bước phát triển mới trong tiến trình văn học
nhân loại” [6, tr.409].
Việc đề cao chủ nghĩa hiện thực cũng gắn với việc nhấn mạnh nhiệm vụ
phản ánh hiện thực của văn học. Lê Ngọc Trà đã lý giải tình trạng đó trên hai
phương diện: “Về phương diện lịch sử, ở ta khuynh hướng này có hai nguồn gốc
trực tiếp: tư tưởng văn nghệ Diên An (Trung Quốc) và cách hiểu nghệ thuật một
cách dung tục trong mỹ học và lý luận văn học Xô - viết. Còn về phương diện
nhận thức, chủ trương này gắn với hàng loạt quan niệm thiếu chính xác về triết
học và lý luận nghệ thuật” [8, tr.38].

121



Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Số 20 năm 2010

Lại Nguyên Ân thì tìm thấy nguyên nhân ở việc coi trọng ích dụng thực tế
của văn học: “Nền văn học cán bộ của ta vốn trọng sự ích dụng thực tế, đặc biệt
là ích dụng tuyên truyền cho công việc của bộ máy. Dần dà từ định hướng trọng
lợi ích thiết thực, thực tế, văn học này tự trang bị lý thuyết: lý thuyết “văn học
phản ánh hiện thực”, lý thuyết “chủ nghĩa hiện thực” [1, tr. 473].
Từ chỗ “bắt mạch” được “căn bệnh” của lý luận văn học Việt Nam ta thời
gian qua, các nhà lý luận còn muốn cải tạo tình trạng trên. Xóa bỏ định kiến trên
là điều họ chủ trương. Nguyễn Văn Dân đã kêu gọi các nhà nghiên cứu Việt Nam
hãy xóa bỏ cái định kiến đồng nhất chủ nghĩa hiện thực với giá trị thẩm mỹ vì
theo ông “Thực ra, bất cứ ai cũng thấy rõ một sự thực hiển nhiên là trong các di
tích lịch sử đã được xếp hạng của loài người, không phải di tích nào cũng là hiện
thực chủ nghĩa” [2, tr. 55]. Việc khôi phục lại vị trí đáng có của các dòng văn
học khác cũng được đẩy mạnh: “chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn - ít ra
là dòng văn học lãng mạn tiến bộ - đều là sản phẩm của những nỗ lực muốn
phản ánh hiện thực sâu sắc hơn. Các trào lưu ấy không những chứa đựng sự thật
của cuộc sống mà cũng là những hình thái khám phá, chiếm lĩnh hiện thực bằng
nghệ thuật” [9, tr. 50].
Tất nhiên, bên cạnh những ý kiến cổ xúy cho tư tưởng đổi mới cách đánh
giá đề cao chủ nghĩa hiện thực, vẫn có những ý kiến cho rằng việc đề cao chủ
nghĩa hiện thực là hợp với sự phát triển của tiến trình văn học. Tiêu biểu cho
quan điểm này là nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ. Trong Đổi mới và quy luật, ông
cho rằng trong khi những nhà lãng mạn tiến bộ như Huygo, Bairơn cũng không
vượt qua được chủ nghĩa xã hội không tưởng, họ vẫn là những nhà duy tâm lịch
sử thì phương pháp hiện thực phê phán tiến bộ hơn vì tinh thần khoa học và triết
học duy vật đã giúp cho các nhà văn xác định phương pháp miêu tả theo chủ

nghĩa khách quan lịch sử, xây dựng được những tính cách điển hình trong những
hoàn cảnh điển hình, tránh được khuynh hướng lý tưởng hóa hoặc phóng đại của
chủ nghĩa lãng mạn”[3, tr. 59].
Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là trong khi bênh vực chủ nghĩa hiện
thực, Phan Cự Đệ cũng chỉ nói một cách chừng mực, phải phép. Ông cho đó là
một bước tiến so với chủ nghĩa lãng mạn và là bệ phóng cho chủ nghĩa hiện thực
xã hội chủ nghĩa. Như vậy, tiếp tục đánh giá cao chủ nghĩa hiện thực không có
nghĩa là hoàn toàn ủng hộ sự tuyệt đối hóa vai trò, vị trí của chủ nghĩa hiện thực.
122


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

Sự lên tiếng này có lẽ chỉ để tránh cho lý luận đi từ thái cực này đến thái cực
khác, giúp cho chủ nghĩa hiện thực tránh khỏi tình trạng bị hạ bệ một cách oan
uổng mà thôi. Vị trí của chủ nghĩa hiện thực như thế nào, thực tế sẽ trả lời.
Không cần chúng ta hô hào, cổ động hay trì níu. Trong quá khứ, chủ nghĩa hiện
thực đã thực sự tỏa sáng, tất nhiên là cùng tỏa sáng với không ít trào lưu trước,
cùng thời và sau nó. Mối quan hệ giữa chủ nghĩa hiện thực với các trào lưu và
phương pháp sáng tác khác cũng đã được tiến hành nghiên cứu và cũng có những
ý kiến trái ngược nhau.
2. Mối quan hệ của chủ nghĩa hiện thực với các trào lưu, phương pháp sáng
tác khác
Trước khi chủ nghĩa hiện thực xuất hiện, trong văn học đã tồn tại hai trào
lưu lớn, đó là chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn. Tuy nhiên, do xuất hiện
giữa lúc nhu cầu nhận thức xã hội của con người tăng cao, do chỉ ra được những
mâu thuẫn cơ bản của xã hội, và do phù hợp với vai trò là vũ khí đấu tranh của
các nhà cách mạng, chủ nghĩa hiện thực sớm được đánh giá cao, thậm chí đề cao

quá mức như vừa trình bày. Tuy nhiên, một thành tựu nghệ thuật không bao giờ
là thành quả đột xuất, mà bao giờ cũng kế thừa ít nhiều từ các thành quả trước
đó. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực, nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước đã chú ý đến sự ảnh hưởng của các trào lưu trước đó, đặc
biệt là chủ nghĩa lãng mạn đối với chủ nghĩa hiện thực. Song, ở ta, tình trạng xem
nhẹ, thậm chí đối lập chủ nghĩa lãng mạn với chủ nghĩa hiện thực vẫn là một việc
làm có nguy cơ biến thành thói quen. Lên tiếng về thực trạng này, Phong Lê cho
rằng “Kẻ chịu đựng nỗi oan này nhiều nhất là chủ nghĩa lãng mạn, cùng song
hành với chủ nghĩa hiện thực” vì nó bị xem là “lạc hậu, là sự cổ cũ cho con
người thoát ly hiện thực, đi xa hơn, nó còn được xem là sự đồng lõa, sự tiếp tay
cho các thể chế chính trị phản động” trong khi chủ nghĩa lãng mạn, đặc biệt chủ
nghĩa lãng mạn ở các nước Đông Âu “lại là sản phẩm, là sự khẳng định các khát
vọng của nhân dân trên con đường hình thành các quốc gia, dân tộc; và đặc biệt
trong khuynh hướng hồi vọng về quá khứ, đó là thái độ phản ứng với trật tự tư
sản mới ra đời đã đem lại bao nhiêu thảm trạng cho các tầng lớp nhân dân lao
động” [6, tr. 413].

123


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Số 20 năm 2010

Như vậy, sự khôi phục lại vị trí cho chủ nghĩa lãng mạn đã cho thấy mối
quan hệ khá bình đẳng giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. Đó cũng
là cách đánh giá khách quan và hợp lý cần có.
Trong khi chủ nghĩa hiện thực còn đang tồn tại, vào nửa sau thế kỷ XIX,
nhân loại đã chứng kiến một sự bùng nổ của các trào lưu văn học. Theo Phùng
Văn Tửu, đó không phải là thời kì “các trào lưu văn học có thể đánh dấu bằng

thế kỷ” mà “trong một thế kỷ có nhiều trào lưu lớn kế tiếp nhau”. Lúc này, chủ
nghĩa hiện thực không độc diễn văn đàn mà cùng chung sống với chủ nghĩa tự
nhiên và các chủ nghĩa hiện đại. Để cổ vũ cho sự tồn tại và phát triển của mình,
một số nhà văn thuộc các trào lưu ấy đã ra sức công kích chủ nghĩa hiện thực.
Chẳng hạn, khi chủ nghĩa vị lai thịnh hành ở Nga, một số người đã la ó: hãy từ
“con thuyền của cuộc sống hiện tại vứt bỏ Puskin, Đôxtôiépxki, L.Tônxtôi”. Tuy
nhiên, vì không ít tác phẩm của các trào lưu ấy đi vào bế tắc, khủng hoảng trong
tư tưởng cũng như tắc tị, rối rắm về hình thức đã khiến cho người ta đánh giá
thấp giá trị của các trào lưu này và quay về đề cao chủ nghĩa hiện thực. Song,
trong khi phê phán các trào lưu khác, họ đã vứt bỏ luôn các yếu tố tích cực của
chúng. Tiêu biểu cho quan điểm này là G.Luckacs, người được cho là tác giả của
chủ trương “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại”. Trong khi giới thiệu những đóng góp
của Luckacs, Phương Lựu đã chỉ ra hạn chế của ông như sau: “chủ nghĩa hiện
thực vĩ đại của G.Lukacs vẫn có những điểm yếu của nó mà trước hết là việc ông
phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa hiện đại, không thấy có thể hấp thu những yếu tố
khả thủ của nó để làm phong phú thêm thi pháp của chủ nghĩa hiện thực” [7, tr.
17].
Tương tự như vậy, khi thể hiện sự khôi phục lại vị trí của chủ nghĩa lãng
mạn, Phong Lê cũng cho rằng: “Một mảng lớn sự phát triển của các khuynh
hướng Hiện đại chủ nghĩa cũng dần được khôi phục lại các giá trị đích thực của
nó, như là những tìm tòi nghệ thuật trên con đường chiếm lĩnh hiện thực” [7,
tr.413].
Nói chung, khi nhận thức lại vị trí của chủ nghĩa hiện thực, mối quan hệ
giữa nó với các trào lưu trước và cùng thời với nó cũng được đánh giá lại theo
tình thần bình đẳng, thấu lý đạt tình hơn, một mặt giúp cho chủ nghĩa hiện thực
được đánh giá đúng với vai trò, vị trí của nó, mặt khác giúp cho các trào lưu văn
học trước và cùng thời với nó được thể hiện vẻ đẹp và giá trị riêng của mình. Vậy
124



Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

mối quan hệ giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa,
một trào lưu ra đời sau đó, thì được đánh giá như thế nào?
Từ trước đến nay, trong các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực,
mệnh đề chủ nghĩa hiện thực phê phán là “tiền thân trực tiếp” của chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa vẫn thường được nhắc đi nhắc lại. Chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa được coi là bước phát triển tiếp theo của chủ nghĩa hiện thực và là
đỉnh cao trong văn học nghệ thuật. Nhận định về tình hình này, Nguyễn Văn Dân
viết: “Đối với chủ nghĩa hiện thực XHCN, từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên
cứu của ta đã coi nó là kết quả của quá trình phát triển cao của chủ nghĩa hiện
thực” cho nên “chủ nghĩa hiện thực XHCN đã được coi là một giá trị cao hơn so
với chủ nghĩa hiện thực và là một giá trị thẩm mỹ hoàn hảo” [2, tr. 56].
Trong bài Về nội dung khái niệm chủ nghĩa hiện thực trong văn học,
Nguyễn Văn Hạnh cũng cho rằng đối với các nhà nghiên cứu và lý luận văn học
của chúng ta hiện nay, chủ nghĩa hiện thực được xem như “là nguồn gốc, là
truyền thống, nếu không phải là duy nhất, thì cũng là quan trọng bậc nhất của
phương pháp sáng tác mới” [5, tr. 57].
Rõ ràng, đối với các trào lưu xuất hiện trước và cùng thời, chủ nghĩa hiện
thực được đề cao, song đối với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa
hiện thực luôn được quan niệm như một bệ phóng, một bước chuẩn bị cho sự
thành công của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Sau khi giới thiệu nguyên lý tính hệ thống, Trọng Đức đã vận dụng nguyên
lý này để nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa. Một mặt, ông thừa nhận hai phương pháp sáng tác này có những điểm
cộng đồng, mặt khác ông cho rằng có những điểm khác biệt. Những điểm khác
biệt này có thể là do “sự nâng cao những điểm cũ đã có của chủ nghĩa hiện thực
phê phán trong những điều kiện mới của hiện thực, của khoa học và của bản

thân văn học nghệ thuật, ví như tính lịch sử, tính điển hình, hay chức năng cải
tạo” hoặc “là những điểm hoàn toàn mới không có trong chủ nghĩa hiện thực
phê phán như tính đảng, hay như chủ nghĩa nhân đạo vô sản” [4, tr. 54]. Trong
hệ thống Trọng Đức đã nêu, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa rõ ràng là sự
phát triển nâng cao từ chủ nghĩa hiện thực.

125


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Số 20 năm 2010

Tuy không trực tiếp phát biểu nhưng mô hình phát triển sau mà Phùng Văn
Tửu đề cập rất dễ khiến người ta liên tưởng đến sự phát triển tất yếu dẫn đến chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa: “Cũng như đường xoắn ốc sau mỗi chu kỳ lại
trở về gần với vị trí ban đầu nhưng ở bình diện cao hơn, trên con đường phát
triển của văn học nghệ thuật, ta cũng thường quan sát thấy những dấu hiệu
tương đồng, gần gũi ở các thời kỳ khác nhau theo một chu kỳ tương đối đều đặn.
Không phải ngẫu nhiên người ta dễ nghĩ đến một dòng văn học hiện thực bắt
nguồn từ cổ đại, bỏ qua Trung cổ đến thời kỳ Phục hưng, bỏ qua chủ nghĩa cổ
điển đến thế kỷ XVIII, bỏ qua chủ nghĩa lãng mạn đến chủ nghĩa hiện thực” [9,
tr. 58].
Tuy nhiên, Nguyễn Văn Dân đã không đồng ý với quan niệm này. Ông cho
rằng quan niệm này xuất phát từ “sự giống nhau về mặt hình thức ngôn từ giữa
hai thuật ngữ: “hiện thực” và “hiện thực XHCN”, đặc biệt là quan điểm đó đã bị
“ám ảnh bởi hai chữ “hiện thực”. Từ đó, ông bày tỏ quan niệm: “Muốn xác định
được bản chất của một chủ nghĩa trong văn học - nghệ thuật, ta phải căn cứ vào
cương lĩnh và mục tiêu của nó, vào các nguyên tắc hành động và quy chuẩn nghệ
thuật của nó”. Cho nên theo ông, xét các điều kiện xã hội sản sinh ra chủ nghĩa

hiện thực XHCN, chủ nghĩa hiện thực XHCN ra đời là do “yêu cầu của xã hội
chứ không phải là kết quả của quá trình phát triển cao của chủ nghĩa hiện thực
phê phán” [2, tr. 57-58]. Nếu xem chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là một
trào lưu, một phương pháp sáng tác như các trào lưu và phương pháp sáng tác
khác, nghĩa là nó là một hiện tượng lịch sử cụ thể, ra đời dựa trên những tiền đề
xã hội và tư tưởng riêng thì ý kiến trên của Nguyễn Văn Dân là rất đáng quan
tâm. Chưa hết, ông còn chỉ ra sự khác nhau cơ bản giữa hai trào lưu này: “Cái
khác nhau đầu tiên là trong khi chủ nghĩa hiện thực phê phán coi trọng nguyên
tắc phê phán, thì chủ nghĩa hiện thực XHCN coi trọng nguyên tắc khẳng định.
Còn nguyên tắc điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực XHCN cũng không giống
với điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực phê phán” [2, tr. 58]. Và cuối cùng
ông đi đến kết luận: “Chủ nghĩa hiện thực XHCN và chủ nghĩa hiện thực phê
phán, thoạt nhìn thì tưởng là hai anh em vì chúng có tên gọi gần giống nhau,
nhưng thực chất chúng chỉ là hai người hàng xóm gần nhà xa ngõ” [2, tr. 61].
Như vậy, mối quan hệ giữa chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa đã được đánh giá lại. Cụm từ “tiền thân trực tiếp” cho thấy được
126


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

công lao của chủ nghĩa hiện thực. Công lao ấy là những thành tựu về tư duy nghệ
thuật được chủ nghĩa hiện thực phát hiện, đã trở thành tiền đề quý báu cho chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy những gì được
xem là hạn chế của chủ nghĩa hiện thực sẽ được chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa khắc phục. Trên thực tế, sự gần gũi giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa là một điều không thể chối cãi. Nếu như chủ nghĩa
lãng mạn ra đời là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực

là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa lãng mạn, thì chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa không phải là phản ứng chống lại chủ nghĩa hiện thực, ngược lại, tiếp nối
truyền thống của chủ nghĩa hiện thực. Nhiều nguyên tắc nghệ thuật của chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng có thể tìm thấy ở chủ nghĩa hiện thực, như tính
chân thực, khách quan, điển hình hóa,...
Mặc dù vậy, hai phương pháp sáng tác này vẫn có những điểm khác nhau
rất cơ bản về nhân vật trung tâm, về cảm hứng chủ đạo và khuynh hướng tư
tưởng,… Nhìn chung, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa vạch ra được quy
luật phát triển cách mạng của cuộc sống, nó cổ vũ cho sự năng động, tích cực của
con người, nó ca tụng những con người chiến đấu cho lý tưởng và hy sinh vì
quyền lợi chung. Thế nhưng, đó là về lý thuyết sáng tác. Phương pháp sáng tác
hiện thực xã hội chủ nghĩa giống như một bửu bối, nhưng quan trọng là người ta
có sử dụng nó tốt hay không. Trên thực tế, không ít tác phẩm sáng tác theo
phương pháp sáng tác này không gây được tiếng vang so với những tác phẩm
hiện thực phê phán trước đó. Mặt khác, cuộc sống không phải bao giờ cũng phát
triển đi lên, đó chỉ là quy luật phổ quát. Con đường của cuộc sống có khi quanh
co, khúc khuỷu, thậm chí thụt lùi. Cảm hứng phê phán mà chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa dành cho một dung lượng không nhiều cũng không đủ để nói hết
những mặt trái của cuộc sống cũng như lương tâm của con người. Chính vì vậy,
xem xét mối quan hệ giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa là một việc làm không thể sơ lược và công thức.
Gần đây, trong giáo trình Lí luận văn học (tập 3) Tiến trình văn học,
Phương Lựu đã xếp chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa vào Chủ nghĩa hiện
thực thế kỷ XX bên cạnh chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực kì ảo, chủ
nghĩa hiện thực cấu trúc, chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Phải chăng, đây cũng là một
cách tiếp cận mới, ở đó phân biệt chủ nghĩa hiện thực phê phán thế kỷ XIX với
127


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM


Số 20 năm 2010

chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa dưới góc độ thời gian và sắc thái, chứ
không phải ở mức độ hoàn chỉnh nhiều hay ít theo hướng cái sau cao hơn cái
trước.
Tóm lại, trong khi một số nhà nghiên cứu lên tiếng về tình trạng đề cao quá
mức chủ nghĩa hiện thực dẫn đến xem nhẹ chủ nghĩa lãng mạn và các chủ nghĩa
hiện đại thì cũng có những nhà nghiên cứu lên tiếng về tình trạng đề cao quá mức
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa mà xem nhẹ chủ nghĩa hiện thực. Qua đó,
vị trí và mối quan hệ của chủ nghĩa hiện thực đã được đánh giá một cách khách
quan và công bằng hơn. Đây là một việc làm có ý nghĩa khoa học bởi nó đã đặt
một hiện tượng văn học vào các mối quan hệ đồng đại và lịch đại để xem xét và
đánh giá. Các trào lưu văn học có tính lịch sử và giá trị riêng của nó, đồng thời có
mối quan hệ, tác động lẫn nhau. Nhận thức đúng vị trí và mối quan hệ của chủ
nghĩa hiện thực với các trào lưu văn học khác đồng thời cũng là một việc làm có
ý nghĩa thực tiễn bởi nó góp phần không nhỏ đối với việc đánh giá tác phẩm văn
học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, NXB Thanh niên, Hà
Nội.
[2] Nguyễn Văn Dân (2005), Vì một nền lý luận phê bình văn học chất lượng
cao, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[3] Hà Minh Đức (chủ biên) (1991), Trao đổi ý kiến - Mấy vấn đề lý luận văn
nghệ trong sự nghiệp đổi mới, NXB Sự thật.
[4] Trọng Đức (1982), “Chủ nghĩa hiện thực dưới ánh sáng của nguyên lý hệ
thống”, Tạp chí Văn học (6), tr.42-54.
[5] Nguyễn Văn Hạnh (1987), “Về nội dung khái niệm chủ nghĩa hiện thực
trong văn học”, Tạp chí Văn học (1), tr.57-72.
[6] Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình thế kỷ XX, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.
[7] Phương Lựu (2006), “Để hiểu thêm chủ nghĩa hiện thực vĩ đại của
Lukacs”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (6), tr.3-20.
[8] Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, NXB Trẻ.
[9] Phùng Văn Tửu (1982), “Mấy vấn đề lý luận về Chủ nghĩa hiện thực”,
Tạp chí Văn học (6), tr.51-61.
128



×