BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
ĐỖ VĂN MINH
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
TẠO HÌNH DÂY CHẰNG CHÉO SAU
QUA NỘI SOI KỸ THUẬT TẤT CẢ
BÊN TRONG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
ĐỖ VĂN MINH
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
TẠO HÌNH DÂY CHẰNG CHÉO SAU
QUA NỘI SOI KỸ THUẬT TẤT CẢ
BÊN TRONG
Chuyên ngành
: Chấn thương chỉnh hình và tạo hình
Mã số
: 62720129
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGÔ VĂN TOÀN
HÀ NỘI 2018
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn của tôi:
PGS.TS. Ngô Văn Toàn Thầy đã hết lòng dìu dắt, hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Tôi vô cùng cảm ơn các thầy trong hội đồng đánh giá luận án đã đóng
góp cho tôi những ý kiến quý báu để hoàn thành tốt luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn:
Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học, Bộ môn Ngoại
Trường Đại Học Y Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận án này.
Đảng ủy, Ban giám đốc Bệnh viện Việt Đức, Ban lãnh đạo viện
chấn thương chỉnh hình Bệnh viện Việt Đức, Ban lãnh đạo khoa
phẫu thuật chi trên và y học thể thao, khoa giải phẫu bệnh Bệnh
viện Việt Đức, Bộ môn giải phẫu Trường Đại học Y dược TP. Hồ
Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận án này.
Ban giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, ban lãnh đạo khoa Chấn
thương chỉnh hình thần kinh cột sống Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các bác sĩ, cán bộ nhân viên Viện
chấn thương chỉnh hình, khoa gây mê hồi sức, phòng kế hoạch tổng hợp
Bệnh viện Việt Đức đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị, các bạn đồng nghiệp, các em
sinh viên luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập nghiên
cứu.
Tôi vô cùng biết ơn bố mẹ, các anh chị, vợ và hai con đã luôn cổ vũ,
động viên và là chỗ dựa vững chắc cho tôi vượt qua những khó khăn trong
suốt quá trình nghiên cứu để đạt được kết quả ngày hôm nay.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2018
Đỗ Văn Minh
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Đỗ Văn Minh, nghiên cứu sinh khóa 33 Trường Đại Học Y
Hà Nội, chuyên nghành chấn thương chỉnh hình và tạo hình, xin cam đoan:
1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của thầy PGS.TS. Ngô Văn Toàn.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn ch ịu trách nhi ệm tr ướ c pháp luậ t về nh ững cam
kết này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2018
Người viết cam đoan
Đỗ Văn Minh
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTN
BST
CHT
cs
DCBN
DCBT
DCCT
DCCS
ĐK
Đ SC
KC
LCT
MCT
NB
SCN
SCT
XQ
Δ
: Bó trước ngoài
: Bó sau trong
: Cộng hưởng từ
: cộng sự
: Dây chằng bên ngoài
: Dây chằng bên trong
: Dây chằng chéo trước
: Dây chằng chéo sau
: Đường kính
: Đùi sụn chêm
: Khoảng cách
: Lồi cầu trong
: Mâm chày trong
: Người bệnh
: Sụn chêm ngoài
: Sụn chêm trong
: X quang
: Chênh lệch
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC HÌNH
11
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dây chằng chéo sau (DCCS) cùng với dây chằng chéo trước (DCCT)
là thành phần quan trọng trong sự đảm bảo vững chắc về mặt động học
theo chiều trước sau của khớp gối. Tổn thương DCCS ít gặp hơn nhiều so
với tổn thương DCCT. Tỷ lệ tổn thương DCCS rất thay đổi tùy thuộc vào
đối tượng bị chấn thương khớp gối [1]. Tổn thương DCCS chiếm khoảng
2% tổng số chấn thương khớp gối do tai nạn học đường ở Mỹ [2].
Shelbourne và cộng sự (cs) điểm lại y văn ghi nhận tổn thương DCCS
chiếm khoảng 144% tổng số chấn thương khớp gối cấp tính ở vận động
viên [3]. Tổn thương DCCS có thể đơn thuần hoặc phối hợp với các tổn
thương khác của khớp gối. Spiridonov và cs ghi nhận chỉ có khoảng 18%
trong tổng số các trường hợp tổn thương DCCS là tổn thương đơn thuần
[4]. Beck và cs ghi nhận 79% các trường hợp tổn thương đa dây chằng
khớp gối có kèm theo tổn thương của DCCS [5]. Fanelli và cs thông báo có
tới 46%, 31% và 62% các trường hợp tổn thương DCCS kèm theo với tổn
thương của DCCT, dây chằng bên trong (DCBT) và góc sau ngoài theo thứ
tự trên [6].
Trong hơn 30 năm trở lại đây, với nhiều nghiên cứu cơ bản về giải
phẫu và cơ sinh học của DCCS đã giúp các bác sĩ chấn thương chỉnh hình
có sự hiểu biết toàn diện hơn về DCCS và vai trò của nó [7]. Điều trị phẫu
thuật tạo hình DCCS được đặt ra cho những trường hợp tổn thương nặng
DCCS hoặc tổn thương DCCS có kèm theo tổn thương các cấu trúc khác
của khớp gối phối hợp. Mặc dù vậy, phẫu thuật tạo hình DCCS không
phải là một phẫu thuật đơn giản và kết quả điều trị cũng không được
ngoạn mục như phẫu thuật tạo hình DCCT [8]. Năm 1983, Clancy và cs
được coi là người đầu tiên công bố kết quả bước đầu của phẫu thuật tạo
12
hình DCCS theo giải phẫu [9]. Từ đó đến nay đã có nhiều nghiên cứu về
phẫu thuật tạo hình DCCS được công bố. Về cơ bản phẫu thuật tạo hình
DCCS có 2 trường phái kỹ thuật: Kỹ thuật tạo hình DCCS gắn diện bám
chày và kỹ thuật tạo hình DCCS với đường hầm xuyên chày [7], [10]. Trên
nền tảng của 2 trường phái kỹ thuật này, nhiều biến thể của các phương
pháp tạo hình DCCS đã ra đời và phát triển. Gần đây nhất, với sự phát triển
của dụng cụ phẫu thuật nội soi khớp gối và các phương tiện cố định mảnh
ghép, kế thừa và phát huy những thành tựu của phẫu thuật nội soi tạo hình
DCCT, phẫu thuật nội soi tạo hình DCCS kỹ thuật tất cả bên trong đã ra
đời và bước đầu được áp dụng trên lâm sàng. Bên cạnh nhiều ưu điểm bao
gồm: không cần mảnh ghép có chiều dài lớn như trong phẫu thuật tạo hình
DCCS với đường hầm xuyên chày hay mảnh ghép cần có nút xương như
trong phẫu thuật tạo hình DCCS gắn diện bám chày tại chỗ, chủ động điều
chỉnh tăng đường kính mảnh ghép với nguồn gân tự thân, khoan đường
hầm xương ngắn nên hạn chế được mất xương, ít đau sau mổ so với các
kỹ thuật tạo hình DCCS kinh điển…, phẫu thuật tạo hình DCCS kỹ thuật
tất cả bên trong cũng có một số thách thức nhất định đòi hỏi phẫu thuật
viên cần có sự hiểu biết đầy đủ về giải phẫu của DCCS cũng như kỹ
thuật mổ.
Ở các nước phát triển những công trình nghiên cứu về giải phẫu, cơ
sinh học của DCCS là nền tảng ứng dụng trong phẫu thuật tạo hình DCCS.
Tại Việt Nam đã có một vài nghiên cứu giải phẫu DCCS được công bố
nhưng mới dừng lại ở những báo cáo đơn lẻ [11]. Hằng ngày, các bác sĩ chấn
thương chỉnh hình vẫn thực hiện những ca mổ tạo hình DCCS dựa trên sự
hiểu biết về giải phẫu của DCCS được công bố trên y văn và kinh nghiệm
lâm sàng. Với mong muốn tìm hiểu đặc điểm giải phẫu của DCCS ở người
Việt trưởng thành, ứng dụng trong điều trị tạo hình DCCS cho người Việt
13
nhằm đạt hiệu quả điều trị cao nhất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu ứng dụng tạo hình DCCS qua nội soi kỹ thuật tất cả bên
trong” nhằm hai mục tiêu:
1.
Nghiên cứu một số chỉ số giải phẫu của DCCS ứng dụng trong
phẫu thuật nội soi tạo hình DCCS.
2.
Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi tạo hình DCCS sử dụng
mảnh ghép gân hamstring tự thân kỹ thuật tất cả bên trong.
14
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu DCCS
DCCS cùng với DCCT là hai dây chằng nằm trong bao khớp nhưng
nằm ngoài bao hoạt dịch của khớp gối. DCCS có chiều dài trung bình từ
32 38mm, diện tích trung bình của mặt cắt ngang đoạn giữa dây chằng là
31,2 mm2, rộng hơn khoảng 1,5 lần DCCT. Diện bám chày và đùi của
DCCS rộng hơn gấp 3 lần thiết diện cắt ngang đoạn giữa dây chằng.
DCCS chịu được sức căng khoảng 739 1627 N. Về mặt giải phẫu DCCS to
và chắc khỏe hơn DCCT [8]. Hiểu biết về giải phẫu của DCCS, đặc biệt
là giải phẫu diện bám của dây chằng là rất quan trọng để tạo hình DCCS
đúng giải phẫu nên được nhiều nhà giải phẫu và chấn thương chỉnh hình
quan tâm.
Hình 1.: Giải phẫu khớp gối và dây chằng chéo [12]
1.1.1. Giải phẫu diện bám đùi của DCCS
15
Diện bám đùi của DCCS trải dài hơn 20mm theo hướng trước sau,
ngang từ mái của lồi cầu đùi đến mặt trong của diện gian lồi cầu. Diện
bám đùi của DCCS có hình nửa vầng trăng, được giới hạn về phía xa bởi
diện sụn của lồi cầu trong (LCT) xương đùi. Hình thái diện bám đùi của
DCCS rất thay đổi phụ thuộc vào sự có mặt của dây chằng đùi sụn chêm
(Đ SC).
DCCS không chỉ đơn thuần bám vào mặt trong của diện gian lồi cầu
mà còn bám vào phần mái của diện gian lồi cầu xương đùi. Quan sát diện
gian lồi cầu xương đùi từ trước ra sau nhận thấy diện bám đùi của DCCS
trải dài từ vị trí khoảng từ 12 giờ đến 1 giờ ở phía trên đến vị trí khoảng 7
giờ 30 đến 8 giờ ở phía dưới đối với khớp gối trái và từ vị trí khoảng 11
giờ đến 12 giờ ở phía trên đến vị trí 4 giờ 30 đến 4 giờ đối với khớp gối
phải. Dây chằng Đ SC trước (nếu có) chạy ngang qua DCCS, bám gần sát
diện sụn khớp của lồi cầu xương đùi. Nhìn diện bám đùi của DCCS ở
khớp gối đã được cắt bỏ DCCS, chúng ta nhận thấy phần bám chính của
DCCS vào lồi cầu đùi, tương ứng với diện bám của bó trước ngoài (BTN),
nằm ở vị trí từ 9 giờ đến 12 giờ theo chiều kim đồng hồ đối với khớp gối
trái và từ 3 đến 12 giờ theo chiều ngược chiều kim đồng hồ đối với khớp
gối phải. Diện bám đùi của DCCS còn có thể mở rộng hơn về phía dưới và
ra sau, tương ứng với diện bám của bó sau trong (BST). Hình dạng và diện
tích diện bám đùi BTN khá tương đồng ở hầu hết các khớp gối nhưng hình
dạng và diện tích diện bám đùi của toàn bộ DCCS thường khác nhau do
kích thước của BST gây nên.
16
Hình 1.: Vị trí giải phẫu diện bám đùi của DCCS [13]
Đã có nhiều nghiên cứu khác nhau mô tả diện tích diện bám đùi của
DCCS và các bó cấu thành của DCCS. Diện tích diện bám đùi của DCCS
cũng như các bó cấu thành của DCCS rất thay đổi phụ thuộc vào từng nghiên
cứu, tuy nhiên đa số các tác giả đều thừa nhận diện tích diện bám đùi của
BTN thường giao động trong phạm vi hẹp và chiếm diện tích lớn hơn so với
BST.
Bảng 1.: Diện tích diện bám đùi của DCCS
Nghiên cứu
Takahashi và cs [14]
Lopes và cs [15]
Gali và cs [16]
Diện tích diện bám đùi (mm2)
DCCS
BTN
BST
58,0 ± 25,4
64,6 ± 24,7
209,0 ± 33,82
118,0 ± 23,95
90,0 ± 16,3
87,80 ± 31,42
47,13 ± 19,14
40,67 ± 16,19
1.1.2. Giải phẫu diện bám chày của DCCS
Quan sát mâm chày từ trên xuống dưới nhận thấy diện bám chày của
DCCS nằm tương đối gọn trên bề mặt của mâm chày, giữa sừng sau của
hai sụn chêm. Quan sát diện bám chày từ sau ra trước nhận thấy, diện bám
chày của DCCS còn mở rộng hơn về phía dưới của bờ sau bề mặt mâm
17
chày. Phía trên bờ sau của bề mặt mâm chày, diện bám chày của DCCS chủ
yếu là của BTN. Diện bám của BST chủ yếu nằm ở phía sau dưới bờ sau
bề mặt mâm chày. Diện bám chày của BTN phủ gần toàn bộ phần mặt
phẳng nằm giữa diện gian lồi cầu đùi của mâm chày sau, từ bờ sau diện
bám của sừng sau sụn chêm trong (SCT) đến vị trí cách bờ sau của bề mặt
mâm chày khoảng 2mm, có hình thang và mở rộng về phía sau. Diện bám
chày của BST nằm liên tiếp với diện bám chày của BTN từ vị trí cách bờ
sau của bề mặt mâm chày khoảng 2mm về phía trước đến phía sau dưới,
qua bờ sau của bề mặt mâm chày xuống phía dưới. Những bó sợi sau nhất
của BST hòa cùng với những bó sợi của màng xương chày và bao khớp gối
phần bám vào phía sau của đầu trên xương chày, và được nhận biết bởi
một gờ ngang ở mặt sau xương chày. Hình thái diện bám chày của DCCS
phản ánh đường đi của các bó sợi của BST, chạy chếch ra sau ngoài và
xuống dưới. Vì vậy diện bám chày của BST nằm ở phía ngoài và dưới hơn
diện bám chày của BTN. Những bó sợi sau cùng của DCCS bám xuống
dưới bờ sau của bề mặt mâm chày, mở rộng xuống phía dưới, bám vào
thành sau của xương chày gần với diện bám của gân cơ khoeo vào xương
chày.
Hình 1.: Giải phẫu diện bám chày của DCCS nhìn từ trên xuống dưới
(A) và nhìn từ sau ra trước (B) [13]
18
Tương tự diện bám đùi của DCCS, diện tích diện bám chày của
DCCS và từng bó cấu thành rất thay đổi tùy thuộc vào nghiên cứu của từng
tác giả.
Bảng 1.: Diện tích diện bám chày của DCCS
Nghiên cứu
Takahashi và cs [14]
Gali và cs [17]
Tajima và cs [18]
Harner và cs [19]
Diện tích diện bám chày (mm2)
DCCS
BTN
BST
46,7 ± 15,6
115,8 ± 54,6
88,33 ± 21,66
46,79 ± 14,10
41,54 ± 9,75
93,1 ± 16,6
150,8 ± 31,0
70 ± 26
62 ± 17
1.1.3. Cấu trúc của DCCS
Phân chia cấu trúc của DCCS dựa vào đường đi của các bó sợi của
dây chằng là một việc làm khó khăn và không thống nhất. Các nhà giải
phẫu ghi nhận DCCS là một cấu trúc phức tạp. Girgis và Marshall ghi nhận
DCCS gồm 2 bó nhưng không thể tách rời [20]. Quan điểm phổ biến nhất
được nhiều tác giả công nhận là DCCS gồm 2 bó chức năng là BTN và
BST [13]. Một số nhà giải phẫu tin rằng, phân chia DCCS thành 2 bó là quá
đơn giản. Trent và cs sự phân chia DCCS thành bó trước, bó giữa và bó sau
[21]. Một số ít quan điểm cho rằng, dây chằng Đ SC sau được coi như bó
thứ ba của DCCS. Cũng có quan điểm cho rằng DCCS là một cấu trúc liên
tục gồm nhiều bó sợi liên tiếp nhau. Trong trường hợp này, DCCS gồm 4
phần hợp thành: phần trước, phần giữa, phần dọc sau và phần xiên sau.
Makris và cs phân chia DCCS thành 4 bó: bó trước, bó giữa, bó dọc sau và
bó xiên sau. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, một số trường hợp đã không
biệt lập được bó trước và bó giữa về mặt giải phẫu [22].
Trở lại với quan điểm được công nhận rộng rãi nhất là DCCS có cấu
trúc hai bó. Các bó sợi của DCCS có thể chia thành 2 bó chức năng là BTN
19
và BST. Sự phân chia DCCS thành 2 bó là sự phân chia nhân tạo chứ không
phải sự phân chia giải phẫu vốn có của dây chằng. Có thể phẫu tích để
tách DCCS thành BTN và BST dựa vào sự căng, chùng khác nhau của các bó
sợi cấu thành nên DCCS trong hoạt động gấp duỗi khớp gối. Có thể dễ
dàng nhận ra rằng, BTN bám chủ yếu vào phần mái của diện gian lồi cầu
đùi trong khi BST bám chủ yếu vào mặt trong diện gian lồi cầu đùi. Có sự
chồng lấn của các bó sợi cấu thành nên DCCS từ trước ra sau. BTN có thiết
diện cắt ngang to hơn BST và nó cũng khỏe hơn BST rất nhiều [13].
Các bó sợi của DCCS không xoắn quanh nhau trong khi duỗi gối.
BTN nằm ở phía trước và BST nằm ở phía sau nên các bó sợi trước là các
bó sợi ngắn nhất còn các bó sợi sau là các bó sợi dài nhất. Một mốc giải
phẫu quan trọng cần được xác định của DCCS là các bó sợi xiên sau của
DCCS. Các bó sợi này đôi khi có thể bị nhầm lẫn với dây chằng Đ SC sau
nếu không xác định rõ điểm bám của nó. Giống với dây chằng Đ SC sau,
các bó sợi xiên sau nằm ở phía sau của DCCS, chạy theo một đường hơi
nghiêng, từ mặt trong diện gian lồi cầu xương đùi ra ngoài và xuống dưới
nhưng các bó sợi này không bám tận vào sừng sau của sụn chêm ngoài
(SCN) mà đến bám tận vào xương chày ở phía sau dưới sừng sau SCN.
Điều này có thể gây nên nhầm lẫn trong chẩn đoán nội soi giữa đứt hoàn
toàn DCCS trong khi dây chằng Đ SC sau còn nguyên vẹn với đứt bán
phần của DCCS.
20
Hình 1.: Cấu trúc hai bó của DCCS [13]
1.1.4. Vận động của các bó cấu thành DCCS trong động tác gấp duỗi
gối
Quan sát DCCS trong quá trình gấp duỗi khớp gối chỉ ra vận động
khác nhau của các bó cấu thành nên DCCS. Có 3 cấu trúc chính được nhắc
tới trong vận động của DCCS là BTN, BST và dây chằng ĐSC. Sự thay
đổi chiều dài của từng bó sợi cho chúng ta biết vai trò của chúng trong việc
kiểm soát sự trượt ra sau của mâm chày so với xương đùi trong khi gấp
duỗi gối. DCCS được biết đến là yếu tố quan trọng nhất chống lại sự
trượt ra sau của mâm chày so với xương đùi trong quá trình gấp gối.
Đầu tiên, phải kể đến vai trò của BST. BST ở trạng thái căng, nằm
thẳng theo hướng từ diện bám đùi đến diện bám chày ở tư thế duỗi gối.
Bởi vậy nó không căng để chống lại sự trượt ra sau của mâm chày nhưng
nó có vai trò chống lại sự duỗi gối quá mức. BST sẽ chùng lại khi bắt đầu
gấp gối. Trong quá trình gấp gối, BST di chuyển ngang giữa mặt trong của
diện gian lồi cầu xương đùi và BTN. Khi gấp gối vào sâu hơn (gấp gối ≥
90 độ), diện bám của BST di chuyển ra trước và lên trên so với mâm chày
và BST lúc này trở nên căng hơn so với trước. Vì vậy trong tư thế gấp sâu
21
của khớp gối (≥ 90 độ), BST sẽ căng và nằm theo hướng chống lại sự
trượt ra sau của mâm chày so với xương đùi.
Hình 1.: Vận động của BST khi vận động khớp gối: khi duỗi gối (a),
khi gấp gối 90 độ (b) và khi gấp gối ≥ 90 độ (c) [13]
Quan sát BTN trong mặt phẳng đứng dọc nhận thấy bó này có hình
dạng hơi cong, bởi vậy nó chùng khi gối duỗi. Khi gấp gối, BTN trở nên
căng hơn và tạo nên một góc thẳng đứng hơn so với mâm chày, lúc này nó
có vai trò chống lại sự di lệch ra sau của mâm chày so với xương đùi. Khi
gấp gối sâu (≥ 90 độ), BTN chùng lại, tựa theo phần mái của diện gian lồi
cầu đùi. Hướng của BTN lúc này cho biết nó ít có vai trò trong việc chống
lại sự di lệch ra sau của mâm chày so với xương đùi.
Hình 1.: Vận động của BTN khi vận động khớp gối: khi duỗi gối (a),
khi gấp gối 90 độ (b) và khi gấp gối ≥ 90 độ (c) [13]
Quan sát hoạt động của các bó cấu thành nên DCCS nhận thấy không
bó nào có vai trò chống lại sự trượt ra sau của mâm chày so với xương đùi
ở tư thế duỗi gối. Ở tư thế này, BTN chùng còn BST thì căng không theo
22
hướng chống lại sự di chuyển ra sau của mâm chày so với xương đùi. Điều
này lý giải vì sao trong trường hợp tổn thương DCCS đơn thuần có thể
không gây mất vững khớp gối ở tư thế duỗi gối. Các cấu trúc khác của
khớp gối mà cụ thể là góc sau ngoài và góc sau trong có vai trò giữ vững
khớp gối trong tư thế duỗi gối.
1.1.5. Dây chằng đùi sụn chêm (Đ SC)
Dây chằng Đ SC trước (dây chằng Humphrey) chạy xiên từ bờ
trước dưới diện bám đùi của DCCS xuống dưới, đến bám ở sừng sau của
SCN nên nó có vị trí nông nhất khi nhìn vào khớp gối từ phía trước ra sau ở
tư thế gối gấp 90 độ. Dây chằng này nằm ngay sát bờ sụn khớp của lồi
cầu xương đùi, ở vị trí 10 giờ bên khớp gối trái và 2 giờ bên khớp gối phải
trên mặt đồng hồ giả tưởng là hố gian lồi cầu đùi ở tư thế gối gấp 90 độ.
Các bó sợi của dây chằng Đ SC trước hòa lẫn với các bó sợi của DCCS ở
diện bám đùi của dây chằng. Dây chằng Đ SC trước đến bám tận ở bờ
trước của sừng sau SCN. Quan sát khớp gối qua nội soi có thể nhận thấy
các bó sợi của dây chằng Đ SC trước chạy theo hướng hơi nghiêng, đối
lập với phương thẳng đứng của các bó sợi của DCCS.
Hình 1.: Giải phẫu dây chằng Đ SC [13]
Dây chằng Đ SC sau (dây chằng Wirsberg) trải dài từ mặt trong của
diện gian lồi cầu đùi đến sừng sau của SCN. Diện bám đùi của dây chằng
23
này bám gần phần trên diện bám đùi BST nên nó nằm nông hơn so với
DCCS nếu nhìn vào khớp gối từ phía sau. Không giống như dây chằng Đ
SC trước, diện bám đùi của dây chằng Đ SC sau nằm cách biệt với DCCS
nên không có sự hòa lẫn giữa các bó sợi của dây chằng này với các bó sợi
của DCCS. Diện bám đùi của dây chằng Đ SC sau nằm ở phía sau, trên bờ
sau của diện bám đùi BST của DCCS. Điều này có nghĩa là, diện bám đùi
của dây chằng Đ SC sau nằm rất sâu trong diện gian lồi cầu xương đùi
nếu nhìn từ ngõ vào phía trước và nó rất khó xác định bởi nó bị che khuất
bởi DCCS. Để xác định được sự có mặt của dây chằng Đ SC sau, cần xác
định diện bám của nó trực tiếp vào bờ sau của sừng sau SCN.
Không phải tất cả các khớp gối đều có đầy đủ hai dây chằng Đ SC.
Tuy nhiên, khi có mặt của cả hai dây chằng này, chúng sẽ ôm DCCS ở phía
trước và phía sau. Bởi vì đầu dưới của dây chằng Đ SC đến bám ở sừng
sau của sụn chêm ngoài nên trong nhiều trường hợp có tổn thương DCCS
mà dây chằng Đ SC vẫn còn nguyên vẹn. Cấu trúc này hoạt động như một
nẹp trợ đỡ giúp DCCS ở nguyên vị trí để phục hồi sau chấn thương và có ý
nghĩa quan trọng trong việc chỉ định điều trị bảo tồn trong trường hợp tổn
thương DCCS đơn thuần độ thấp.
1.2. Cơ sinh học của DCCS.
DCCS có thể chịu lực căng từ 739 đến 1627 N. Sở dĩ DCCS có biên
độ chịu tải lớn như vậy bởi từng bó sợi của DCCS hoạt động căng chùng
khác nhau trong quá trình gấp duỗi gối nên sức chịu tải của toàn bộ dây
chằng không đồng nghĩa với sức chịu tải của dây chằng khi căng dây chằng
trên một bình diện. Bởi vậy sức chịu tải thật sự của dây chằng chỉ là con
số ước đoán. Hơn nữa, tuổi cũng là một yếu tố có vai trò quan trọng ảnh
hưởng đến sức căng của dây chằng.
24
Bảng 1.: Cơ sinh học và thiết diện DCCS [8]
BTN
BST
Dây chằng Đ SC
Sức căng trung bình
1620 N
258 N
300 N mỗi dây chằng
Thiết diện cắt ngang
43 mm2
10 mm2
Rất thay đổi
Tổn thương DCCS đơn thuần gây nên sự dịch chuyển rất nhỏ ra sau
của mâm chày so với đầu dưới xương đùi khi duỗi gối, nhưng sự dịch
chuyển này trở lên lớn hơn khi gấp gối. Đã có nhiều nghiên cứu phác họa
quá trình dịch chuyển ra sau của mâm chày so với xương đùi, biểu hiện rõ
nét ảnh hưởng của sự thiếu vắng vai trò của DCCS trong quá trình gấp gối,
ảnh hưởng rõ rệt nhất ở tư thế gấp gối 90 độ.
Biểu đồ 1.1: Cơ sinh học của DCCS [1]
So sánh sự di lệch ra sau của mâm chày so với xương đùi ở người bình
thường và ở người tổn thương DCCS trong quá trình vận động của khớp
gối
Mặc dù DCCS là yếu tố quan trọng nhất chống lại sự di lệch ra sau
của mâm chày so với xương đùi trong quá trình gấp gối, không cấu trúc nào
trong số các thành phần chức năng cấu tạo nên DCCS có vai trò chống lại sự
di lệch ra sau của mâm chày so với xương đùi ở tư thế duỗi gối hết tầm và
chống lại sự xoay ngoài của mâm chày trong quá trình hoạt động của khớp
gối. Vai trò quan trọng của cơ chế giữ vững thứ hai được nhắc tới đó là cấu
trúc của góc sau ngoài, có vai trò trong việc kiểm soát sự di lệch ra sau của
25
mâm chày so với xương đùi đồng thời là yếu tố quan trọng nhất chống lại
sự xoay ngoài của mâm chày đã được mô tả trong nhiều nghiên cứu cơ sinh
học [23]. Cấu trúc được chú ý nhiều nhất trong số các thành phần của góc
sau ngoài là phức hợp gân cơ khoeo. Phức hợp này bao gồm phần gân cơ
khoeo và phần dây chằng liên kết giữa gân cơ khoeo với xương mác, xương
chày, sụn chêm. Vì các cấu trúc này nằm ở góc sau ngoài của khớp gối,
chúng co lại khi duỗi gối nên có vai trò chống lại sự di lệch ra sau của mâm
chày so với xương đùi khi duỗi gối và chống lại sự xoay ngoài của mâm
chày so với xương đùi ở bất cứ tư thế nào của khớp gối. Gân cơ khoeo bản
thân nó là một yếu tố giữ vững tĩnh đồng thời cũng là một yếu tố giữ vững
động của khớp gối. Mặc dù dây chằng bên ngoài (DCBN) là một phần của
cấu trúc góc sau ngoài nhưng chức năng của DCBN lại hoàn toàn độc lập
với cấu trúc góc sau ngoài. DCBN có tác dụng chống lại sự vẹo trong của
khớp gối mà không hỗ trợ các cấu trúc góc sau ngoài chống lại sự di lệch ra
sau của mâm chày so với xương đùi. Cuối cùng, hoạt động của gân cơ
hamstring và gân cơ tứ đầu cũng góp phần trong cơ chế giữ vững động làm
giảm gánh nặng chức năng cho các cấu trúc góc sau ngoài.
Vai trò phối hợp của DCCS và các cấu trúc góc sau ngoài trong việc
chống lại sự di lệch ra sau và xoay ngoài của mâm chày đã được mô tả cụ
thể. Tổn thương phối hợp cả hai cấu trúc này làm tăng độ mất vững của
khớp gối rất nhiều so với trường hợp chỉ bị tổn thương một trong hai cấu
trúc. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tổn thương đơn thuần của DCCS
hoặc cấu trúc góc sau ngoài làm tăng độ di lệch ra sau của xương chày so
với xương đùi khoảng 12 mm ở tư thế duỗi gối và tư thế gấp gối 90 độ.
Trong trường hợp tổn thương phối hợp của DCCS và cấu trúc góc sau
ngoài, di lệch ra sau của xương chày so với xương đùi lên đến 25 mm ở
mỗi tư thế. Thiếu vắng vai trò của một trong hai cấu trúc sẽ tăng áp lực
chức năng lên cấu trúc còn lại [24].