Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Luận án tiến sĩ Lịch sử: Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 162 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THU MAI

NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THU MAI

NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả luận án

Lê Thị Thu Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến luận án
1.2. Giá trị của những công trình tổng quan và những nội dung luận án tập
trung nghiên cứu

1
6
6
21

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VỀ ĐIỂM
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


2.1. Quan niệm về dân chủ và các cách tiếp cận dân chủ
2.2. Quan niệm và những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.3. Những yếu tố tác động tới sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chương 3: THỰC CHẤT NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT
GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ
VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa
3.2. Thực trạng vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

25
25
43
53

71
71

103

Chương 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


4.1. Yêu cầu đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
4.2. Giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

119

119

127
144
147
148


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ vốn là một giá trị phổ biến xuất phát từ thực tiễn sản xuất và
sinh hoạt của nhân loại từ thời nguyên thủy xa xưa - dân chủ nguyên thủy.
Sau đó, dân chủ còn là khát vọng và là mục tiêu đấu tranh không ngừng của
đại đa số nhân dân trong lịch sử hình thành và phát triển tiếp theo của xã hội
loài người. Thực tế cho thấy, vấn đề dân chủ đã và đang được các nhà tư
tưởng, các nhà hoạt động chính trị trong mọi thời đại, từ thời cổ đại đến nay,

tiếp tục quan tâm và bàn luận. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua một quá
trình hình thành và phát triển thực tiễn, lý luận và các chế độ dân chủ khác
nhau: dân chủ nguyên thủy (khi chưa có chế độ tư hữu, giai cấp); chế độ dân
chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư sản và ngày nay, theo quan điểm mácxít, là chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa cộng sản là đích đến mà dù sớm hay muộn, tất cả nhân loại sẽ
vươn tới; là xã hội tốt đẹp trong đó mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do
và hạnh phúc. Dân chủ là một trong những giá trị, đặc trưng cơ bản thuộc về
bản chất của xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ điều
kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, trong di sản lý luận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ là
một trong những nội dung quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, to lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, dân chủ có nghĩa "dân là chủ" và
"dân làm chủ"; rằng, "dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân".
Trong thời đại ngày nay, đối với dân tộc Việt Nam, thực hiện tốt dân chủ
là một trong những mục tiêu và động lực cơ bản để hội nhập và phát triển
theo con đường cách mạng mà Đảng và dân tộc ta đã xác định. Có thể nói,
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đạt được trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không nói đến nền


2
dân chủ xã hội chủ nghĩa, cho dù vẫn đang trong quá trình từng bước hoàn
thiện, cụ thể hoá, thực thi và đã có nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, như Đại hội XII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập
giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi; quyền làm chủ

của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm; có lúc, có nơi, việc
thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [38, tr.168]… Đã xuất hiện không ít
những hoài nghi về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng,
rằng: Liệu dân chủ xã hội chủ nghĩa có "dân chủ hơn" dân chủ tư sản hay
không? Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Và có gì giống, khác với
dân chủ tư sản mà các nước phương Tây đang xây dựng? Tại sao có những
nước thực hiện dân chủ thành công, trong khi các nước khác lại thất bại? Tại
sao việc đánh giá thế nào là dân chủ và không dân chủ lại không giống nhau
giữa các nước? Đâu là mô hình dân chủ chung cho các quốc gia khi mà các
nước trên thế giới đang ngày càng xích lại gần nhau và Việt Nam học hỏi
được kinh nghiệm gì về xây dựng dân chủ ở các quốc gia đó?
Nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vừa xuất phát từ nguồn cội
của nó là "dân chủ nguyên thủy" với "nội hàm gốc" là "quyền lực của nhân
dân", vừa phải kế thừa những giá trị của chế độ dân chủ tư sản - một chế độ
dân chủ ra đời trước dân chủ xã hội chủ nghĩa hàng thế kỷ, với cả những thành
quả, giá trị lẫn những hạn chế của nó - trên cơ sở làm rõ những điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản sẽ có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Nghiên cứu những điểm "tương đồng" và những "khác biệt" của dân chủ
xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản có ý nghĩa cấp thiết vì sẽ khắc phục
được cả hai xu hướng lệch lạc hiện nay: Một là, xu hướng bảo thủ với tư duy
cũ, thể hiện bệnh ấu trĩ tả khuynh, đối lập và phủ định sạch trơn dân chủ tư sản;


3
Hai là, xu hướng ngày càng mơ hồ, sai lệch, hữu khuynh, "hòa nhập" theo dân
chủ tư sản phương Tây - khi mà Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và toàn
diện hơn với thế giới, chủ yếu là với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.

Việc nghiên cứu này không những góp phần nhận thức đầy đủ, đúng
đắn và toàn diện, sâu sắc hơn lý luận về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là để vận dụng sáng tạo, đối chiếu với thực
tiễn, giải đáp những vấn đề thực tiễn đất nước đang đặt ra. Mặt khác, nghiên
cứu, so sánh bản chất cũng như thực tiễn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng với nền dân chủ tư sản ở nhiều quốc gia tư bản trên
thế giới hiện nay có thể tìm thấy nhiều lời giải cho việc xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, góp phần đấu tranh
chống chiến lược "diễn biến hòa bình", lợi dụng chiêu bài "dân chủ nhân
quyền" để chống phá nước ta. Đó thực sự là việc làm cấp thiết cả về lý luận
và thực tiễn, trước hết của giới lý luận ở nước ta.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Những điểm tương đồng
và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối
với Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về những điểm tương đồng
và khác biệt giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận án
đề xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu những giải pháp
vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa
và dân chủ tư sản vào xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản sau:


4
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ

đó xác định hướng nghiên cứu của luận án;
Hai là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về những điểm
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay;
Ba là, phân tích thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng trong xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay;
Bốn là, đề xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu
nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã
hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Sự điểm tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
và chế độ dân chủ tư sản và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Phạm vi về nội dung:Sự tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa và chế độ dân chủ tư sản.
Phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu: So sánh hai nền dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên ba lĩnh vực chủ yếu là chính trị, kinh
tế và văn hóa - xã hội cả về lý luận và thực tiễn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về
dân chủ xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các văn kiện của Đảng, Nhà nước về dân chủ.
Luận án cũng được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của những
công trình khoa học trong và ngoài nước thời gian qua có liên quan đến đề tài.


5

4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: Phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, so
sánh, đối chiếu, lịch sử - logic, lý luận - thực tiễn.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích tài liệu thứ cấp (các công trình nghiên
cứu khoa học về dân chủ, các văn kiện của Đảng các văn bản, số liệu trong các
tài liệu có liên quan đến dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Một là, luận án góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt
giữa hai chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó nêu lên
những giá trị cơ bản của dân chủ tư sản có thể tham khảo, chọn lọc, kế thừa
trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Hai là, luận án phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất các yêu cầu
cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương
đồng và khác biệt về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học: Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, những điểm tương đồng và khác biệt
giữa hai chế độ dân chủ này. Từ đó, cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ sung, phát
triển và hoàn thiện nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các nội dung liên quan đến dân chủ, nhà
nước và hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên
ngành khoa học khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên
quan đến đề tài và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.



6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quan niệm, cách tiếp cận,
bản chất của dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa
Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu [9,
tr.7-11]; Nguyễn Đăng Quang, Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ [77,
tr.12-15]. Hai bài viết này bàn về dân chủ với những phương pháp tiếp cận
khác nhau: tiếp cận từ những cơ sở hình thành dân chủ, bao gồm: cơ sở kinh
tế của dân chủ và dân chủ trong kinh tế; cơ sở chính trị của dân chủ và dân
chủ trong chính trị; cơ sở văn hóa, xã hội và dân chủ trong lĩnh vực văn hóa,
xã hội; tiếp cận từ các nội dung cơ bản của dân chủ: theo nội dung chính trị,
dân chủ là một hình thái nhà nước; theo nội dung văn minh, dân chủ là sản
phẩm của nền văn minh; theo nội dung nhân đạo, dân chủ là phương thức tổ
chức xã hội hiện đại. Những tài liệu này là những gợi mở để tác giả luận án có
thêm những tiếp cận đa dạng khái niệm, quan niệm về dân chủ trong chương
2 của luận án.
Nguyễn Tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn
[73]; Cao Văn Thống, Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay [110]. Các tài liệu trên được sưu tầm và biên soạn về những vấn
đề lý luận và thực tiễn về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, tập trung dân chủ là cơ chế, nguyên tắc cốt tử trong tổ chức, vận hành
của Đảng, Nhà nước và của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.



7
Vũ Văn Viên, Nhà nước pháp quyền - công cụ để thực hiện dân chủ
[133, tr.35-39]; Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề
dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay [43, tr.5-9] phân tích sự gắn bó mật
thiết giữa pháp luật và dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Nhà nước
pháp quyền tư sản là hình thức tổ chức quyền lực để thực hiện dân chủ tư sản.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ quan trọng để thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trần Quang Nhiếp, Dân chủ với phát triển cộng đồng [70]. Đây là
cuốn sách đã trình bày, phân tích nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ
và dân chủ ở cơ sở như: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; vai trò của dân
chủ đối với phát triển cộng đồng; những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn
chế trong thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta; vấn đề đặt ra và các giải pháp
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta trong tiến trình đổi mới.
Nguyễn Thanh Tuấn, Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa [114, tr.114]. Cuốn sách này giúp
tác giả luận án có thêm cơ sở lý luận khi phân tích những quan điểm cơ bản
của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tác giả
cuốn sách, theo tinh thần đổi mới, đã phân tích việc vận dụng những quan
điểm đó trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hà Đăng, Mô hình tổ chức nền dân chủ [39]; Phan Xuân Sơn, Những
nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa [93]; Trương Minh Tuấn, Dân
chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần
Đại hội XI của Đảng [115, tr.3-8]; Vũ Hoàng Công, Vấn đề dân chủ trong các
văn kiện Đại hội XI của Đảng [29]. Đây là các công trình mà các tác giả đã
phân tích các quan điểm mới của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa như: mô

hình dân chủ; dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển; hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm


8
chủ; nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hành cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước…
Hội đồng Lý luận Trung ương, Dân chủ, nhân quyền - giá trị toàn cầu
và đặc thù quốc gia [48]. Các tác giả của công trình không chỉ nêu lên những
vấn đề chung về dân chủ, về nhân quyền đang được các nhà lý luận ở nhiều
nước trên thế giới sử dụng mà còn đi sâu phân tích, phê phán những luận điệu
sai trái, phản động của các thế lực thù địch.
Lê Minh Quân, Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ bản
[84, tr.13-21]; Cao Đức Thái, Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ
của chúng ta [97, tr.18-20]; Nguyễn Trọng Chuẩn, Một số vấn đề về dân chủ
[26, tr.9-21]. Các tác giả trong các công trình kể trên đã phân tích các vấn đề
về dân chủ, dân chủ hóa và khẳng định: dân chủ có nhiều cách tiếp cận: từ
góc độ giá trị, góc độ thể chế, góc độ phương pháp, phong cách. Dân chủ hóa
là xu thế khách quan của thời đại; nền dân chủ của Việt Nam đã và đang phát
triển đúng hướng, phù hợp với xu thế chung của thời đại ngày nay.
Đức Vượng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ đổi
mới [137]. Công trình này đã trình bày, phân tích quá trình đổi mới, phát triển
nhận thức lý luận của Đảng ta về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qua
đó, nêu lên những nhận thức mới của Đảng về mục tiêu, đặc trưng và các nội
dung của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hồ Sĩ Quý, Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển [85]. Đây là
một công trình trình bày, phân tích nhiều nội dung lý luận, thực tiễn về dân
chủ, độc tài và phát triển ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Liên
Xô thời Stalin. Thông qua việc xử lý một khối lượng tư liệu khổng lồ, Hồ Sĩ
Quý đã phân tích, đối chiếu, xem xét nội hàm và mối quan hệ giữa các vấn đề

dân chủ, độc tài và phát triển. Đặc biệt, trong Phần II của Chương I cuốn
sách, tác giả đã luận bàn rất ngắn gọn, súc tích về khái niệm và một số quan
niệm cơ bản về dân chủ từ nhiều phương diện khác nhau. Ngoài quan niệm cơ
bản "Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước mà trong đó, quyền lực


9
thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân" [85,
tr.37], ở những khía cạnh khác, trong các quan hệ khác nhau của đời sống xã
hội, tác giả còn nêu ra 11 quan niệm khác nhau về dân chủ. Một số quan niệm
đó là: “Dân chủ là một lối sống dựa trên sự tôn trọng quyền cá nhân”; “Dân
chủ là quyền bình đẳng của mỗi người trong việc nhận thức và hành động xây
dựng xã hội, theo cách mà đa số đều đạt được lợi ích”, “Dân chủ là một tư
tưởng chính trị, mà các giá trị cơ bản của nó là tự do, bình đẳng và thừa nhận
lẫn nhau” hay “Dân chủ là một sự trao đổi và đối thoại được thực hiện một
cách tự do nhất giữa các thành viên xã hội”; hoặc “Dân chủ là một hình thức
tổ chức chính quyền, để tất cả mọi người đều có thể, trực tiếp hoặc gián tiếp,
tham gia vào các quyết định quan trọng trong phân bổ các giá trị”... [85, tr.3738]. Đây là những tư tưởng rất quan trọng mà luận án kế thừa và làm rõ trong
chương 2. Cuốn sách còn có nhiều nhận định, đánh giá sâu sắc chứa đựng
nhiều gợi mở. Ví dụ: "Dân chủ nếu có khiếm khuyết, nó sẽ được sửa chữa
bằng một trình độ dân chủ cao hơn. Tuy nhiên, không phải chính thể nào cũng
thừa nhận chân lý này..." [85, tr.39].
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Vũ Văn Hiền, Dân chủ cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung
Quốc [45]. Công trình đã phân tích việc thực hiện dân chủ cơ sở qua kinh
nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc về các vấn đề: Nhà nước phúc lợi xã
hội, về hệ thống chính trị; sự tham gia hoạt động quản lý nhà nước một cách
dân chủ; dân chủ điện tử - một công cụ chính trị mới; xây dựng chính phủ của
nhân dân trong thế kỷ mới. Hay xây dựng dân chủ cơ sở với xã hội khá giả,

quan hệ xây dựng dân chủ ở cơ sở với cải cách hệ thống chính trị... Khu dân
cư tự quản là thực tiễn mới của việc xây dựng nền dân chủ cơ sở ở đô thị.
Những phân tích này là tài liệu quý để tác giả luận án có thêm góc nhìn để so
sánh thực tiễn hai chế độ dân chủ ở hai quốc gia đi theo hai con đường phát
triển khác nhau là Trung Quốc và Thuỵ Điển.


10
Lê Văn Toan, Nguyễn Viết Thảo, Thể chế chính trị - Một số kinh
nghiệm của thế giới [111]. Tác giả đã khái quát những nét chính về thể chế
chính trị của các nước trong từng châu lục để có cách nhìn tổng quan hơn, so
sánh đậm nét hơn về những nét giống và khác nhau của thể chế chính trị từng
châu lục trên toàn thế giới, từ đó chỉ ra kinh nghiệm và những gợi mở đối với
việc xây dựng thể chế chính trị Việt Nam.
Phạm Văn Đức, Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất
cầm quyền [40]. Cuốn sách này dành hẳn Chương II để phân tích kinh nghiệm
thực hành dân chủ của một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó,
các tác giả đã phân tích nội dung thực hành dân chủ ở Cộng hòa Liên bang
Đức, ở Thái Lan, ở Xingapo, ở Đài Loan; từ đó nêu lên một số hạn chế trong
quá trình thực hành dân chủ ở những nước này cũng như những bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam. Viết về thực hành dân chủ ở Cộng hoà Liên bang
Đức và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Phạm Văn Đức cho rằng:
Kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Đức có thể cung cấp cho chúng ta
những bài học bổ ích trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Về chính trị,
trước hết cần xây dựng một thể chế dân chủ, với các quyền và tự do
cơ bản của công dân được bảo đảm bằng những nguyên tắc hiến định.
Nhà nước pháp quyền đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo
đảm quyền tự do tư tưởng, tôn giáo, hội họp, lập hội (bao gồm thành
lập các nghiệp đoàn, đảng phái,...), tự do bầu cử, ứng cử, quyền sở
hữu và tự do kinh doanh của công dân. Về kinh tế, tăng cường và mở

rộng việc thực hành dân chủ các quyền kinh tế thông qua việc không
ngừng phát huy lợi thế của nền kinh tế thị trường nhưng trên nền tảng
có sự điều tiết bằng những chiến lược cụ thể [40, tr123-124].
Những nhận định như vậy có ý nghĩa quan trọng để luận án tham khảo
trong việc so sánh về thực tiễn hai nền dân chủ mà chúng tôi triển khai ở
chương 3.


11
Các công trình trên cũng đã chỉ ra những hạn chế, những "bế tắc" của
nền dân chủ phương Tây trước yêu cầu phát triển mới. Đặc biệt, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tiếp tục đấu tranh đòi thực hiện nền dân chủ công
bằng hơn, bảo vệ lợi ích cho họ.
Từ một số công trình nghiên cứu trên có thể thấy, nền dân chủ tư sản
hay "dân chủ phương Tây" không phải là "một mô hình lý tưởng", một
"khuôn mẫu" để các nước học tập hay mô phỏng. Bản thân các học giả
phương Tây cũng thừa nhận điều này. Đây cũng là một bài học cho quá trình
xây dựng và thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta học hỏi,
tiếp thu các giá trị tiến bộ, tích cực của dân chủ phương Tây nhưng cũng phải
biết loại bỏ những tính chất tiêu cực của nó, đặc biệt đấu tranh phê phán các
quan điểm có tính chất áp đặt mô hình dân chủ phương Tây vào nước ta dưới
chiêu bài dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch.
Nguyễn Tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực tiễn
[73], là công trình trong đó tập hợp những chuyên luận nghiên cứu của tác giả
về dân chủ và tập trung dân chủ, tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ
và nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước.
Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường, Xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền [74]. Trong công trình này, tác giả luận
giải nhiều nội dung về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
như: cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng văn hóa pháp luật...
Lê Minh Quân, Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay [83]. Đây là một tác phẩm bàn về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam; các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa, xây dựng,
phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta như: hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng theo


12
hướng dân chủ hóa; xây dựng, phát triển xã hội công dân; xây dựng, phát
triển nền văn hóa và con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa... [83, tr.341].
Nguyễn Ngọc Hà, Luyện Thị Hồng Hạnh, Dân chủ và tính đặc thù của
việc thực hành dân chủ ở Việt Nam [42, tr.70] cho rằng, tùy theo điều kiện cụ
thể về kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa riêng, mỗi nước đều xác định
tiêu chuẩn dân chủ phù hợp với nước mình. Tính đặc thù của dân chủ và thực
hành dân chủ ở Việt Nam thể hiện: dân chủ đang xây dựng là dân chủ xã hội
chủ nghĩa; dân chủ ở Việt Nam không có đối trọng giữa các đảng; không có
tam quyền phân lập; có sự thống nhất giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội; không có quy định nhân dân trực tiếp bầu ra người đứng
đầu Nhà nước.
Đinh Thế Huynh và các cộng sự, 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt
Nam [53]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã dành hẳn một chương để phân
tích, tổng kết về xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, về đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền qua 30 năm đổi mới ở Việt
Nam. Đây là những vấn đề mà luận án sẽ tiếp tục làm rõ.
Đỗ Thị Thạch, Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước [96].
Trong báo cáo đề tài cấp bộ này, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn;
thực trạng nhận thức, xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi

mới; những vấn đề đặt ra; xu hướng phát triển dân chủ và các giải pháp góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Đây là một công trình quan trọng trong việc nêu lên
những giải pháp có tính khả thi trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta - vấn đề mà luận án đặc biệt quan tâm và kế thừa nhiều tư liệu.
1.1.1.3. Những công trình nghiên cứu mang tính so sánh những điểm
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nguyễn Đức Bách, Mấy vấn đề về dân chủ và hệ thống chính trị ở nước
ta hiện nay dưới góc độ quan hệ giữa các lợi ích [3]. Trong bài viết này, tác


13
giả đã phân tích những điểm chung - tương đồng của ba chế độ dân chủ đã có
trong lịch sử: Dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản (hay dân chủ xã
hội chủ nghĩa). Những điểm chung - tương đồng đó là: 1) Đều là một chế độ
chính trị - một hình thức nhà nước khi xã hội còn giai cấp. 2) Đều có bộ máy
nhà nước và quan chức do bầu cử. 3) Đều có hệ thống pháp luật nhà nước để
buộc mọi người phải tuân thủ... 4) Đều chỉ có một giai cấp lãnh đạo nhà nước
và toàn xã hội... Đặc biệt, tác giả chỉ ra những khác biệt căn bản giữa các chế
độ dân chủ khác nhau (dù có kế thừa nhau), suy cho cùng là ở bản chất - mục
tiêu và lợi ích của các giai cấp lãnh đạo xã hội... đã chi phối sự khác nhau về
ý thức hệ, về nội dung cụ thể của các luật pháp và các mối quan hệ về địa vị,
về lợi ích... giữa các giai cấp lãnh đạo xã hội với các giai tầng còn lại trong
mỗi chế độ dân chủ đó.
Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo, Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa [72]. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những quan điểm,
tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, lịch sử ra đời, phát
triển, thực trạng, bản chất, khuyết tật của dân chủ tư sản; bản chất, sự hình
thành và những thách thức của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ở đây, dân chủ xã
hội chủ nghĩa được tiếp cận toàn diện, hệ thống với 5 khía cạnh: hình thức tổ

chức xã hội, tổ chức nhà nước; giá trị xã hội; điều kiện để hình thành nhân
cách trung thực, sáng tạo; cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo, quản lý xã hội (tập
trung dân chủ); động lực, bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Công trình
này tuy không đặt dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong sự so
sánh nhưng cách triển khai vấn đề của các tác giả là cơ sở quan trọng để nhìn
nhận rõ những khác biệt giữa hai nền dân chủ này, từ tiền đề ra đời, bản chất,
vai trò của nó. Luận án sẽ kế thừa và làm rõ hơn vấn đề này.
Trần Thành, Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch sử
và hiện đại [101]. Đây là công trình mà tác giả trình bày lịch sử hình thành
phát triển dân chủ từ phương diện lý luận, thực tiễn; phân tích bản chất, thực


14
trạng của dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng chế độ
dân chủ ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp.
Nguyễn Văn Quyết, Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin làm
sáng tỏ sự tương đồng và khác biệt về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa [87]. Trong báo cáo đề tài khoa học này, tác giả đã trình bày rõ những
luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự tương đồng, khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tác giả của đề tài đã nêu những
gợi mở cho nhận thức và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Đây là phần cơ sở lý luận rất quan trọng mà luận án sẽ tham khảo để so
sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở phạm vi và góc độ rộng hơn, bao quát hơn.
Lô Quốc Toản, Giáo trình lý luận về dân chủ [112]. Trong công trình
này, tác giả đã dành một tiết của Chương IV để so sánh những điểm giống và
khác nhau cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản. Trong
đó, về những điểm giống nhau, tác giả nêu rõ: Một là, cả dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa đều phải thực hành dân chủ thông qua hình thức nhà
nước pháp quyền; Hai là, cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều

đề cao nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân; Ba là, chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa cũng như chế độ dân chủ tư sản đều bị quy định bởi trình độ phát
triển của kinh tế, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, dân trí và thông tin. Về những
điểm khác nhau, theo tác giả Lô Quốc Toản, một là, chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa lấy sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại của mình. Còn chế độ dân chủ tư sản lại
lấy sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại của mình; hai là, dân chủ xã hội chủ
nghĩa là chế độ dân chủ cho nhân dân, trong khi đó, trong nhà nước pháp
quyền tư sản, giai cấp tư sản nắm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, vì
vậy trên thực tế toàn bộ pháp luật cũng như cơ chế vận hành của xã hội đều
thể hiện và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản; ba là, nền dân chủ xã hội


15
chủ nghĩa là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ
kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội... Đây là những điểm gợi mở rất quan
trọng, làm cơ sở, hệ quy chiếu cho những phân tích sâu sắc, toàn diện về
những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Tất nhiên, những luận điểm tác giả đưa ra chỉ mang tính chất khái
quát, chưa có sự bình luận, phân tích cụ thể.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về
dân chủ, về thực hành dân chủ tư sản và thực hành dân chủ xã hội
chủ nghĩa
Một là, công trình nghiên cứu về dân chủ và các cách tiếp cận bản chất
dân chủ, tiêu biểu như:
N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina, Chế độ dân chủ, nhà nước và
xã hội [68] trình bày nhiều vấn đề về dân chủ, trong đó có nêu, phân tích các
quan niệm khác nhau về dân chủ; giá trị dân chủ; cơ chế dân chủ; thể chế dân
chủ, cấu trúc của chế độ dân chủ. Các tác giả cho rằng, dân chủ xã hội chủ

nghĩa theo mô hình Xôviết chỉ là một chế độ toàn trị, xa lạ với nguyên tắc, giá
trị dân chủ nên nó đã thành quá khứ của nước Nga .
Viện Triết học - Viện Hàn lâm khoa học Nga (Hội thảo bàn tròn): Dân
chủ: Giá trị phổ quát và những kinh nghiệm lịch sử [136]. Các học giả nêu,
bàn luận về những giá trị phổ biến của dân chủ, những kinh nghiệm thành
công và thất bại của lịch sử dân chủ, nhất là lịch sử, hiện trạng, thách thức và
triển vọng của quá trình phát triển dân chủ ở Nga.
David Held, Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại [32], bản dịch của
Phạm Nguyên Trường do Nhà xuất bản Tri thức ấn hành, đã trình bày, phân
tích các mô hình dân chủ và những biến thể của nó. Qua đó cho thấy, dân chủ
có một lịch sử phức tạp với nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau, và mô hình dân chủ là rất đa dạng. Tác giả viết: "Chúng ta không thể
hài lòng với những mô hình dân chủ hiện hữu. Xuyên suốt tác phẩm này


16
chúng ta đã nhận thấy lý do vững chắc để không chấp nhận bất cứ mô hình
nào, dù đó là mô hình cổ điển hay hiện đại" [42, tr.438].
O.T.Bogomolov, Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội [94, tr.3-14] là một nghiên cứu trong đó chỉ ra các nguyên tắc nền tảng
của dân chủ; cuộc khủng hoảng của dân chủ phương Tây; mối quan hệ giữa
dân chủ và phát triển ở các nước trên thế giới và ở Nga. Tác giả cho rằng,
chính ảnh hưởng của Liên Xô và những thành tựu mà Liên Xô đạt được trong
lĩnh vực xã hội đã thúc đẩy sự ra đời của mô hình nhà nước phúc lợi. Theo đó,
ở Nga hiện nay, việc xây dựng nhà nước phúc lợi theo mô hình Bắc Âu là phù
hợp với tâm lý của nhiều người và phù hợp với kinh nghiệm lịch sử của thời
kỳ xã hội chủ nghĩa.
Hồ Cẩm Đào, Bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm cải cách mở cửa [71]
khẳng định:
Nước Trung Quốc là nhà nước xã hội chủ nghĩa chuyên chính dân chủ

nhân dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng, do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Dân chủ nhân dân là sinh mệnh của xã hội chủ nghĩa,
nhân dân làm chủ là hạt nhân và bản chất của chính trị dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Không có dân chủ là không có xã hội chủ nghĩa, cũng là
không có hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa [72, tr.299-300].
Viện Quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử, Dân chủ trực tiếp: sổ tay
IDEA quốc tế [135]. Đây là công trình tổng quan về việc vận dụng dân chủ
trực tiếp, nhất là trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương
trình nghị sự và bãi miễn được thực hiện ở các vùng trên thế giới. Ở đây,
dân chủ được tiếp cận theo nghĩa là chế độ chính trị, hệ thống tổ chức quyền
lực và cơ chế, quy trình vận hành hệ thống dân chủ. Theo đó, dân chủ trực
tiếp được xem là một cơ chế độc đáo khuyến khích sự tham gia của công
dân và tự do ngôn luận để thúc đẩy xây dựng nền dân chủ trong các xã hội
đang phát triển.


17
Thoma Meyer, Tương lai của nền dân chủ xã hội [108]. Trong cuốn
sách này, các tác giả đã nêu lên một cách khá đầy đủ dự án "dân chủ xã hội"
và những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai trong thế giới toàn cầu
hóa. Theo đó, các quyền cơ bản về dân sự và chính trị phải được bổ sung bằng
các quyền xã hội và kinh tế nhằm tạo dựng được những điều kiện sống có
nhân phẩm cho tất cả mọi người. Trọng tâm mà cuốn sách muốn đề cập là nền
dân chủ hiện đại được hợp thức hóa như thế nào, công bằng xã hội có vai trò
ra sao đối với nền dân chủ hiện đại, nền dân chủ ấy dựa trên những quyền cơ
bản nào và nó có ý nghĩa thế nào đối với sự ổn định và hiệu quả của một xã
hội? Trên cơ sở các tiêu chuẩn cơ bản của dân chủ xã hội, cuốn sách giới
thiệu một cách khái quát mô hình thể chế dân chủ ở 6 quốc gia khác nhau.
Trong đó, Thụy Điển, Hà Lan và Cộng hòa Liên bang Đức là những quốc gia,
thông qua con đường riêng của mình, đã xây dựng tương đối thành công

những thể chế dân chủ đáp ứng được ở mức độ cao những đòi hỏi đối với một
thể chế dân chủ xã hội; Mỹ và Anh là những quốc gia, cũng bằng cách riêng
của mình và ở những mức độ khác nhau, đã xây dựng những thể chế dân chủ
theo kiểu tân tự do. Nhật Bản là một quốc gia với một nền văn hóa khác hẳn
nền văn hóa châu Âu, đã xây dựng được một thể chế dân chủ đáp ứng được
phần lớn các tiêu chuẩn của mô hình dân chủ xã hội. Những luận điểm trong
cuốn sách cung cấp thêm những cách nhìn đa chiều về mô hình dân chủ tư sản
với những ưu điểm và cả những hạn chế của nó. Đây là một vấn đề mà luận
án quan tâm làm rõ.
Davit Held, Các mô hình quản lý nhà nước [32] trình bày các mô hình
tổ chức hoạt động của nhà nước theo các quan niệm dân chủ trong các giai
đoạn lịch sử, trong đó, chủ yếu tác giả phân tích, đánh giá về các mô hình cơ
bản của dân chủ hiện đại cùng những biến thể của nó trước tác động của toàn
cầu hóa. Tác giả viết đại ý rằng, chúng ta không thể hài lòng với những mô
hình dân chủ hiện hữu, dù là mô hình cổ điển hay hiện đại; sẽ không có một
hình mẫu dân chủ cho mọi quốc gia.


18
Hai là, các công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản, tiêu biểu
có thể kể đến như:
Lilia Sevtsova, Người Nga bàn về các giá trị phương Tây [61]. Câu
hỏi mà tác giả đặt ra là: tại sao những người tự do ở Nga không còn tin tưởng
vào giá trị tự do của phương Tây và Mỹ nữa? Qua việc nghiên cứu nền dân
chủ phương Tây, tiêu biểu là Mỹ, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản là: "Sự
thật là bản thân chủ nghĩa tự do phương Tây hiện nay còn rất nhiều vấn đề,
nhất là vấn đề xuất khẩu dân chủ". Sự can thiệp của phương Tây vào các nước
kém phát triển trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền bằng bạo lực đã lộ rõ bộ mặt
bá quyền thế giới của họ. Trích dẫn các ý kiến của các học giả phương Tây
như F.Fukuyama hay W.Galstom, bản thân họ cũng cho rằng: "Chúng ta cần

một sự đổi mới cơ bản của tự do truyền thống nước Mỹ". Còn Z.Brenzinski,
cố vấn cao cấp của Tổng thống Mỹ cũng nhận định: "Châu Âu là nơi nghỉ hưu
lý tưởng nhất thế giới". Sự kém năng động của nền kinh tế các nước phương
Tây trong những năm vừa qua chính là cơ sở để ông đi đến nhưng kết luận
này. Như vậy, tự do, dân chủ phương Tây cũng đang đặt ra những vấn đề đòi
hỏi phải được đổi mới, cải cách.
Đài Tiếng nói quốc tế nước Nga, Những vấn đề của nền dân chủ Mỹ
[35]. Tác giả của bài viết đã chỉ ra tính vô căn cứ trong tham vọng toàn cầu
của Mỹ là "mở rộng và bảo vệ tự do nhân quyền trên toàn thế giới" bởi những
vấn đề đó của nước Mỹ cũng không tốt đẹp gì. Trích dẫn báo cáo: "Tình hình
nhân quyền tại Hoa Kỳ" do Bộ Ngoại giao Nga ban hành năm 2012; theo đó,
mức độ tự do ngôn luận tại Mỹ bị các tổ chức nhân quyền quốc tế đánh giá rất
thấp, đặc biệt là đối với hành động của chính phủ Mỹ ngăn cấm nhà báo đưa
tin phản ánh các cuộc biểu tình "Chiếm Phố Wall". Đây không phải là lần đầu
tiên nước Mỹ vi phạm nhân quyền, trước đó, các hành vi thô bạo của cảnh sát
chống người nhập cư, về các vụ xâm phạm quyền tự do ngôn luận, bất bình
đẳng về giai cấp ở Mỹ, đối xử bất công với trẻ em nhập cư từ Nga, mở các


19
nhà tù ở Trung Đông, bắn giết dân thường và vi phạm quyền con người tại
Afghanistan… cũng đã bị các tổ chức phi chính phủ phanh phui. Giám đốc
Viện Dân chủ và Hợp tác ở New York - ông Andranik Migranyan cũng phải
thừa nhận rằng: "nếu nhìn kỹ cách tổ chức đời sống xã hội, thì rất tiếc sẽ thấy
rõ nhiều vấn đề không cho phép Hoa Kỳ coi mình như thầy giáo giới thiệu mô
hình lý tưởng về việc bảo vệ quyền con người". Cuối cùng, bài báo đi đến kết
luận: "Mỹ không nên dạy người khác thế nào là tôn trọng nhân quyền, mà
trước hết cũng phải làm như vậy". Như vậy, bản thân nền dân chủ Mỹ cũng
chứa đựng rất nhiều tiêu cực, phi dân chủ.
Ba là, các nghiên cứu về thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu

là các công trình của các tác giả người Trung Quốc. Ở Trung Quốc, vấn đề
dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là chủ đề được Đảng Cộng sản Trung Quốc
quan tâm và là nội dung trọng tâm của nhiều nghiên cứu về chính trị học, luật
học và xây dựng Đảng. Những nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa chủ
yếu đi sâu phân tích những nội dung liên quan đến dân chủ cơ sở và dân chủ
trong Đảng. Khi bàn về thực hành dân chủ ở cơ sở, nhiều công trình đã tập
trung phân tích nội dung thực hiện dân chủ cơ sở, hình thức dân chủ cơ sở chủ
đạo (thực hành dân chủ trong bầu cử, nhất là việc bầu cử trực tiếp các vị trí
chủ chốt ở cơ sở; tham gia một cách dân chủ), chỉ ra nguyên nhân gây khó
khăn trong việc thực hiện dân chủ cơ sở (trình độ tham chính của các chủ thể
tương đối thấp, thiếu kinh nghiệm trong phát triển dân chủ, môi trường tham
gia dân chủ chưa hoàn thiện,...) và đưa ra những phương thức để phát triển
dân chủ cơ sở. Các công trình bàn nhiều về vấn đề này có thể kể ra là:
Cốc Văn Khang, Cuộc đọ sức giữa hai chế độ [55]. Trong cuốn sách
này, ở Chương II, mục 2, 3, 4, tác giả đã trình bày những thành tựu về nhận
thức cũng như thực thi dân chủ, nhân quyền và xây dựng pháp chế của Trung
Quốc. Trong đó, năm điểm nổi bật trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Trung Quốc được tác giả nhấn mạnh là: Xây dựng nền dân chủ xã hội


20
chủ nghĩa ở Trung Quốc gắn với chống tự do hóa tư sản, chống ảnh hưởng
của tàn dư phong kiến; từng bước loại trừ chủ nghĩa quan liêu; phân định rõ
ràng giữa chức năng của đảng với chính quyền; từng bước bãi bỏ chế độ "làm
cán bộ suốt đời" và ủng hộ quần chúng nhân dân thực hiện chế độ tự quản.
Trang Phúc Linh, Lịch sử chủ nghĩa Mác [62] - một bộ sách đồ sộ của
các học giả Trung Quốc xoay quanh các vấn đề lý luận về lịch sử chủ nghĩa
Mác và quá trình phát triển những lý luận này ở Trung Quốc. Trong tập IV
của bộ sách này có phần khái quát quá trình phát triển lý luận của Đảng Cộng
sản Trung Quốc về phát huy dân chủ gắn với xây dựng nền chính trị pháp trị

tại Trung Quốc qua các Đại hội XIII, XIV, XV. Hiện nay, xây dựng nền dân
chủ nhân dân là một trong những nội dung quan trọng trong lý luận về chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Đặng Đình Lựu, Phát triển chế độ chính trị dân chủ và dân chủ của
Đảng Cộng sản Trung Quốc [63, tr.57- 60]. Tác giả của bài viết này đã trình
bày khái quát những vấn đề chung về nguyên tắc, cơ chế, quan điểm, phương
hướng phát triển dân chủ trong Đảng và xây dựng, phát triển chế độ chính trị
dân chủ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Cục Lý luận - Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Trung Quốc đối mặt với những điểm nóng lý luận [30]. Các tác giả đã
luận giải 21 vấn đề nóng bỏng cả về lý luận và thực tiễn cần làm sáng tỏ về
mặt nhận thức và lý luận để thống nhất trong cách đánh giá, nhận định và xây
dựng thể chế, chính sách, hành động một cách nhất quán từ trên xuống dưới
trong quá trình phát triển của Trung Quốc. Trong đó, vấn đề nhận thức về chủ
nghĩa xã hội dân chủ; về dân chủ, tự do, nhân quyền phương Tây; về "dân chủ
kiểu Trung Quốc", con đường phát triển chính trị độc đáo trong lý luận về chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc cũng được bàn giải...
Thái Thượng Kim, Đảng cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như
thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng


21
[59, tr.23-31] bàn về các biện pháp bảo đảm dân chủ. Từ kinh nghiệm của các
đảng, nhất là kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản
Cuba, Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả khẳng định giải pháp thực hiện dân
chủ trong đảng và thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng, đó là: lấy dân
chủ trong đảng để thúc đẩy dân chủ trong xã hội, thực hiện nguyên tắc nhân
dân làm chủ, tận dụng kênh dân chủ để biểu đạt, lắng nghe nguyện vọng quần
chúng và thống nhất lợi ích xã hội.
Qua các công trình kể trên, có thể thấy rõ sự phát triển lý luận của Đảng

Cộng sản Trung Quốc về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là tư tưởng
thực hiện dân chủ gắn với nền chính trị pháp quyền, đây cũng là một bài học
cho quá trình xây dựng lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đối với việc thực hành dân chủ ở Lào, có thể kể đến công trình Khăm
Phon Bun Na Di, Vấn đề xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Lào hiện nay
[56]. Luận án tiến sĩ triết học này đã đi sâu luận giải quá trình xây dựng,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân ở Lào: lịch sử ra đời, phát triển; quan
điểm đổi mới của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về nội dung kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của chế độ dân chủ nhân dân; thực trạng và giải pháp xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Lào xét trên các nội dung kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và hoạt động đối ngoại. Đây là tài liệu giúp tác giả luận án
tham khảo thêm lý luận cũng như thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở quốc gia láng giềng và có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, từ
đó có thêm luận cứ để so sánh những tương đồng và khác biệt giữa hai nền
dân chủ.
1.2. GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG CÔNG TRÌNH TỔNG QUAN VÀ NHỮNG NỘI
DUNG LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU

1.2.1. Giá trị của các công trình tổng quan
Từ những công trình nghiên cứu ở trên, nghiên cứu sinh nhận thấy: Các
công trình nghiên cứu được giới thiệu trên đây đã có nhiều đóng góp quan


×