MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Bacillus anthracis và Yersinia pestis là hai loài vi khuẩn gây
bệnh tối nguy hiểm tương ứng là bệnh than và dịch hạch, từng gây
nên nỗi kinh hoàng trong lịch sử loài người, có thể bị lợi dụng làm
vũ khí sinh học. Ở Việt Nam, B. anthracis còn xuất hiện rải rác ở
các tỉnh miền núi phía Bắc, trong khi Y. pestis vẫn tồn tại trên một
số loài gặm nhấm ở khu vực Tây Nguyên và có thể bùng phát
thành dịch bất kỳ lúc nào. Mặt khác, chúng ta cần có phương án
ứng phó nhanh, kịp thời trong phòng chống khủng bố sinh học.
Trong một vụ tấn công nghi ngờ có khủng bố sinh học hay mẫu
môi trường nghi nhiễm các mầm bệnh này, việc phát hiện nhanh,
chính xác tác nhân sinh học là một trong những yếu tố quyết định
đến sức khỏe cộng đồng và an ninh quốc gia. Việc sàng lọc nhanh
những mẫu nghi ngờ giúp kiểm soát sự lây lan và đảm bảo điều trị
chính xác. Phương pháp nuôi cấy truyền thống được xem là “tiêu
chẩn vàng” trong xác định B. anthracis và Y. pestis. Tuy nhiên, mặc
dù có độ nhạy cao, phương pháp này đòi hỏi thời gian 2 3 ngày,
một số trường hợp độ đặc hiệu không cao, cần tiến hành các thử
nghiệm bổ sung. Ngoài ra, phương pháp này cần tiến hành ở điều
kiện phòng an toàn sinh học cấp 3 (BSL3) với nhân viên được đào
tạo và có kinh nghiệm. Các phương pháp miễn dịch được nghiên
cứu dưới dạng các que thử nhanh rất thuận tiện nhưng độ nhạy,
độ đặc hiệu thấp. Do đó, các phương pháp này khó ứng dụng trong
chẩn đoán trên thực địa và phòng chống khủng bố sinh học.
Hiện nay, đã có một số kỹ thuật dựa trên PCR dùng để xác định
nhanh và chính xác B. anthracis cũng như Y. pestis được phát triển
với những ưu điểm nổi bật như độ nhạy, độ đặc hiệu cao và có
thể thực hiện với các mẫu đã bất hoạt (nên chỉ cần thực hiện ở
điều kiện phòng an toàn sinh học cấp 2). Tuy nhiên, hầu hết các kỹ
thuật này chỉ phát hiện một loại plasmid độc lực với từng tác nhân
nên không phát hiện được các trường hợp chủng thiếu một trong
các plasmid trên. Đối với B. anthracis trong tự nhiên, để chẩn đoán
chính xác những chủng gây bệnh, ngoài gen đặc trưng trên nhiễm
sắc thể, cần chỉ ra được sự có mặt đầy đủ của hai plasmid độc lực
là pXO1 và pXO2. Trong thực tế có những chủng B. anthracis
thiếu một trong hai plasmid trên nên khả năng gây bệnh thay đổi.
Tương tự, Y. pestis chứa hai plasmid liên quan đến tính độc là
pPCP1 và pMT1 với các gen đặc trưng tương ứng. Do đó, các kỹ
thuật này có thể không đánh giá được đầy đủ tình trạng độc lực
của B. anthracis, Y. pestis và phải phụ thuộc vào thiết bị chuyên
dụng đắt tiền nhưng vẫn có thể bỏ sót chẩn đoán, chưa đề cập
đến là chúng có thể không phù hợp với một số chủng trong nước.
Ở Việt Nam, việc sử dụng các kỹ thuật dựa trên PCR để chẩn
đoán B. anthracis và Y. pestis đã được một số tác giả công bố, tuy
nhiên những nghiên cứu này chỉ mới dừng ở việc thiết kế kỹ thuật
PCR để chẩn đoán từng loại vi khuẩn trên. Điều này có nghĩa là
trong thực tế khi bệnh dịch xảy ra mà chưa biết tác nhân nào được
sử dụng, nếu dùng PCR với tác nhân thứ nhất cho kết quả âm tính
thì phải dùng PCR lần thứ hai với tác nhân khác, như vậy đòi hỏi
thời gian và kinh phí. Do đó, kỹ thuật PCR đa mồi (multiplex PCR
mPCR) có thể xác định chính xác đồng thời hai loại tác nhân B.
anthracis và Y. pestis là một lựa chọn khả thi. Xuất phát từ những
vấn đề trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu phát triển
kỹ thuật multiplex PCR xác định nhanh đồng thời Bacillus
anthracis và Yersinia pestis”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phát triển kỹ thuật multiplex PCR xác định nhanh đồng thời
Bacillus anthracis và Yersinia pestis.
Đánh giá khả năng phát hiện của kỹ thuật multiplex PCR trên
các bộ mẫu chuẩn và các chủng phân lập.
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Thiết kế các cặp mồi cho kỹ thuật mPCR xác định nhanh
đồng thời B. anthracis và Y. pestis.
Thiết kế, tối ưu kỹ thuật mPCR xác định nhanh đồng thời B.
anthracis và Y. pestis.
Đánh giá khả năng phát hiện của kỹ thuật mPCR chẩn đoán
đồng thời B. anthracis và Y. pestis trong phòng thí nghiệm và các
chủng phân lập.
Phân tích trình tự các gen đích đặc trưng và gen độc lực của
các chủng B. anthracis và Y. pestis.
4. Đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam đã thành công trong
nghiên cứu phát triển kỹ thuật multiplex PCR xác định nhanh đồng
thời B. anthracis và Y. pestis. Kỹ thuật multiplex PCR với 6 cặp
mồi được thiết kế, tối ưu cho phép khuếch đại đồng thời 7 sản
phẩm bao gồm: 3 gen đích là vrrA (thuộc nhiễm sắc thể), pagA
(thuộc plasmid pXO1), capA (thuộc plasmid pXO2) của B.
anthracis; và 3 gen đích là ypo2088 (thuộc nhiễm sắc thể), pla
(thuộc plasmid pPCP1), caf1 (thuộc plasmid pMT1) của Y. pestis,
cùng 1 gen chứng nội tại là plasmid tái tổ hợp để xác minh kết quả
chẩn đoán. Do đó, khắc phục được hiện tượng dương tính giả đối
với trường hợp các chủng vi khuẩn B. anthracis và Y. pestis không
đầy đủ độc lực, phân biệt với chủng gây bệnh, giúp giảm giá
thành chẩn đoán so với việc phải thực hiện các lần PCR riêng rẽ,
rút ngắn thời gian chẩn đoán.
5. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 139 trang, được chia thành các phần: Mở đầu
(3 trang); Chương 1: Tổng quan tài liệu (30 trang); Chương 2: Vật
liệu và phương pháp nghiên cứu (14 trang); Chương 3: Kết quả
nghiên cứu (47 trang); Chương 4: Bàn luận kết quả (21 trang); Kết
luận và kiến nghị (2 trang); Các công trình đã công bố của tác giả
(1 trang). Tóm tắt nội dung luận án bằng tiếng Anh (6 trang), Tài
liệu tham khảo (15 trang). Luận án có 16 bảng biểu, 44 hình và
151 tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt và tiếng Anh.
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Luận án đã tham khảo các tài liệu trong và ngoài nước về 3
vấn đề chính: (1) Tổng quan về vi khuẩn B. anthracis và Y. pestis:
đặc điểm sinh học, hệ gen cũng như sự liên quan giữa B. anthracis,
Y. pestis và vũ khí sinh học; (2) Các phương pháp xác định B.
anthracis và Y. pestis: các phương pháp vi sinh truyền thống, xác
định sinh hóa, dựa trên ái lực và các phương pháp dựa trên axit
nucleic; (3) Kiểm định kit mPCR chẩn đoán.
B. anthracis là trực khuẩn thuộc chi Bacillus, họ Bacillaceae.
Chi Bacillus gồm các vi khuẩn Gram dương sinh bào tử, đa số
không gây bệnh, một số gây nhiễm trùng nhiễm độc thức ăn
(Bacillus cereus), một số có lợi cho con người ( Bacillus subtilis,
Bacillus thuringiensis, Bacillus mycoides). Đặc điểm hình thái, tính
chất sinh lý, sinh hoá, tính chất nuôi cấy của các loài thuộc chi
Bacillus rất giống nhau. Tuy nhiên, B. anthracis có đặc điểm khác
biệt với các loài trực khuẩn hiếu khí sinh bào tử khác, đo la co
́ ̀ ́
plasmid pXO1 ma hoa khang nguyên b
̃ ́
́
ảo vệ va pXO2 mã hoá vo.
̀
̉
Y. pestis thuộc chi Yersinia, họ Enterobacteriaceae. Chi Yersinia có
11 loài, là các vi khuẩn Gram âm, không sinh bào tử. Trong chi
Yersinia, chỉ có ba loài gây bệnh ở người là Y. pestis, Yersinia
pseudotuberculosis và Yersinia enterocolitica (Radnedge, 2001).
Loài nguy hiểm nhất, Y. pestis gây bệnh dịch hạch và viêm phổi
cấp tính.
Vũ khí sinh học hiện nay đã trở thành mối quan tâm hàng đầu
của an ninh quốc gia bởi có thể bị các tổ chức khủng bố lợi dụng
trong chiến tranh sinh học. Trong các tác nhân đã được WHO và
CDC nêu ra, B. anthracis, Y. pestis được đánh giá là tác nhân có
nguy cơ cao nhất trong khủng bố vì gây bệnh nguy hiểm, dễ nuôi
cấy, tăng sinh khối với số lượng lớn, không cần trang bị hiện đại
lại dễ sử dụng, vận chuyển và gây nhiễm.
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về phòng chống chiến
tranh sinh học đề phòng các tình huống địch tấn công bằng vũ khí
sinh học. Sự quan tâm được đặt ở mức đặc biệt với hai loại vi
khuẩn là B. anthracis và Y. pestis. Xác định tầm quan trọng của
việc xác định nhanh và chính xác hai loại vi khuẩn này, đề tài KCB
0109 và một số đề tài đã thiết kế các phản ứng PCR chẩn đoán
cho từng loại tác nhân. Năm 2005, Lê Thanh Hòa và cs. đã nghiên
cứu xây dựng phương pháp chẩn đoán nhanh Y. pestis trên các loại
môi trường giả định. Tuy nhiên, công trình chỉ dừng lại ở việc
khẳng định Y. pestis thông qua một đoạn gen duy nhất trên plasmid
gây độc là pPCP1 (Lê Thanh Hòa, 2005). Trên thực tế, một số
chủng Y. pestis plasmid pPCP1 có thể bị mất đi thì sản phẩm của
nghiên cứu này sẽ không áp dụng được (Marston, 2005). Hay
nghiên cứu tách dòng và đọc trình tự gen pagA mã hóa kháng
nguyên bảo vệ từ chủng B. anthracis VCM1167 (Phạm Thúy
Kiều, 2006).
Như vậy, có thể nói các đề tài về B. anthracis và Y. pestis ở
Việt Nam hiện nay còn ít và riêng lẻ cho từng loại tác nhân. Do đó,
việc nghiên cứu phát triển kỹ thuật mPCR xác định nhanh và chính
xác đồng thời hai tác nhân nguy hiểm này là cấp thiết, đáp ứng yêu
cầu an ninh quốc phòng và phòng chống dịch bệnh. Kỹ thuật
mPCR được phát triển nhằm xác định đồng thời B. anthracis và Y.
pestis một cách chính xác hơn bằng việc sử dụng cặp mồi thiết kế
trên nhiễm sắc thể, đồng thời cũng sử dụng các cặp mồi để phát
hiện các gen độc lực trên plasmid.
Chương 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. VẬT LIỆU, HÓA CHẤT, THIẾT BỊ
Các chủng vi khuẩn, plasmid
Chủng chuẩn B. anthracis 17JB (ký hiệu: Ba) và Y. pestis
SVCM7 (ký hiệu: Yp) đầy đủ độc lực. Chủng chuẩn đối chứng
âm: Bacillus cereus ATCC 6464, E. coli ATCC 25922, Y.
enterocolitica ATCC 27729. Các chủng vi khuẩn phân lập nghi ngờ
B. anthracis: gồm 23 chủng B. anthracis Ba1Ba23; 2 chủng Y.
pestis Yp1, Yp2.
Plasmid pJET1.2capA chứa toàn bộ trình tự gen capA (thuộc
plasmid pXO1) của B. anthracis.
Sinh phẩm, hoá chất, thiết bị: Sinh phẩm, hóa chất sử dụng
trong các thí nghiệm được đặt mua từ các hãng: Thermo Scientific,
Integrated DNA Technologies IDT, Qiagen, Norgen, bioMérieux,
Biolabs, Gibco, Invitrogen. Các trang thiết bị Bộ môn Vi sinh y học,
Trung tâm Nghiên cứu Y Dược học Quân sự, Học viện Quân y và
Phòng Công nghệ sinh học môi trường, Viện Công nghệ sinh học,
Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp thực nghiệm mô
tả, phân tích trong phòng thí nghiệm và trên thực địa với các kỹ
thuật vi sinh kinh điển và sinh học phân tử. Các kỹ thuật sử dụng
trong nghiên cứu gồm:
2.2.1. Nuôi cấy tăng sinh vi khuẩn
2.2.2. Tách chiết DNA tổng số
2.2.3. Khuếch đại gen bằng PCR
2.2.4. Điện di DNA trên gel agarose
2.2.5. Tinh sạch DNA
2.2.6. Thiết kế kỹ thuật mPCR xác định đồng thời gen đặc trưng
và gen độc lực của B. anthracis và Y. pestis
2.2.7. Tối ưu kỹ thuật mPCR xác định đồng thời B. anthracis và Y.
pestis
2.2.8. Thiết kế chứng nội tại tái tổ hợp của kỹ thuật mPCR
2.2.9. Tối ưu kỹ thuật mPCR chứa chứng nội tại
2.2.10. Thiết lập và đánh giá bộ mẫu chuẩn đánh giá độ nhạy, đặc
hiệu và ổn định của kit mPCR
2.2.11. Xác định các chủng phân lập bằng nuôi cấy, định danh
2.2.12. Thử nghiệm kỹ thuật mPCR trên các chủng phân lập
2.2.13. Kiểm tra các chủng vi khuẩn bằng giải trình tự
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ KỸ THUẬT mPCR XÁC ĐỊNH
NHANH ĐỒNG THỜI B. anthracis VÀ Y. pestis
3.1.1. Nghiên cứu thiết kế các cặp mồi đặc hiệu cho mPCR
Kỹ thuật mPCR ly t
́ ưởng đê ̉ xác định đồng thời B. anthracis và
Y. pestis phải được thiêt kê phat hiên đông th
́ ́
́
̣
̀
ơì B. anthracis, Y.
pestis và đánh giá đầy đủ các mức độ độc lực khác nhau của chúng
trong tự nhiên. Trong đó, với B. anthracis cần 1 cặp mồi trên
nhiễm sắc thể (lựa chọn gen vrrA) và 2 cặp mồi trên plasmid
pXO1 và pXO2 tương ứng là gen pagA và capA. Tương tự, với Y.
pestis, gen ypo2088 (trên nhiễm sắc thể), pla (pPCP1) và caf1
(pMT1) được lựa chọn. Như vậy, 6 cặp mồi đặc hiệu cho mPCR
được thiết kế đảm bảo khuếch đại 6 gen đích kích thước khác
nhau.
Với gen vrrA, dựa vào trình tự tham chiếu trên NCBI, đã thiết
kế được 5 cặp mồi cho khuếch đại một phần trình tự gen đích
(Hình 3.2). Cặp mồi gen vrrA chưa được lựa chọn ngay bởi còn
phụ thuộc vào kết quả thiết kế các cặp mồi cho 5 gen đích còn lại.
Tương tự cho thiết kế các cặp mồi gen pagA, capA (B. anthracis)
và ypo2088, pla, caf1 (Y. pestis). Sau khi kiểm tra về khả năng
hình thành cấu trúc bậc 2 hay bắt cặp chéo giữa các mồi cũng
như sự phù hợp về kích thước sản phẩm, 6 cặp mồi đã được lựa
chọn.
vrrA
Hình 3. 2. Thông tin các cặp mồi khuếch đại gen vrrA
Bảng 3. 1. Thông tin 6 cặp mồi của mPCR xác định B. anthracis và
Y. pestis
Tên mồi
Trình tự (5’-3’)
Tổng số
base
Tm*
Kích thước
(bp)
vrrAF1/R1
CTGTAAGCCCTGTCGTCGAA-F
CCTCGCGCACTTCTTTTTCT-R
20
59.76
59.13
222
pagAF1/R1
AAATGGAGCACGGCTTCTGA-F
AGCCTGTATCCACCCTCACT-R
20
59.96
59.96
751
capAF1/R1
TGACGATGACGATGGTTGGT-F
GCTTCCTGTCTAGGACTCGG-R
20
59.39
59.26
610
ypoF1/R1
GGATGAGATAACGCGGGTGT-F
AGAGAATCGTGATGCCGTCC-R
20
59.90
59.90
103
plaF1/R1
CGGGATGCTGAGTGGAAAGT-F
ATTACCCGCACTCCTTTCGG-R
20
60.04
60.11
438
cafF1/R1
CGCTTACTCTTGGCGGCTAT-F
GCTGCAAGTTTACCGCCTTT-R
20
60.25
59.69
271
*Tm. Nhiệt độ nóng chảy
3.1.2. Nghiên cứu thiết kế kỹ thuật mPCR
Kỹ thuật mPCR được thiết kế và đánh giá trên 2 chủng chuẩn
có đầy đủ độc lực là B. anthracis Ba và Y. pestis Yp cùng đối
chứng âm là B. cereus và E. coli, Y. enterocolitica.
3.1.2.1. PCR đơn mồi phát hiện gen vrrA, pagA, capA của B.
anthracis
Để có cơ sở cho thiết kế kỹ thuật mPCR phát hiện đồng thời 3
gen đích B. anthracis, PCR đơn mồi được thực hiện ban đầu giúp
kiểm tra sự có mặt của gen quan tâm và độ đặc hiệu từng cặp
mồi.
Hình 3. 8. Sản phẩm khuếch đại 3 gen
đích pagA, vrrA, capA của B. anthracis Ba
bằng PCR đơn mồi
ĐC(). Đối chứng âm là nước khử ion; M.
Marker 100 bp (Thermo Scientific)
Các gen pagA (751 bp), vrrA (222 bp) và capA (610 bp) đều xuất
hiện băng đặc hiệu và không có băng phụ (Hình 3.8). Như vậy,
nồng độ các thành phần, chu trình nhiệt trong PCR đơn mồi này sẽ
được sử dụng cho mPCR tiếp theo.
3.1.2.2. Kỹ thuật mPCR phát hiện đồng thời 3 gen vrrA, pagA,
capA của B. anthracis
Kỹ thuật mPCR đã khuếch đại đồng thời 3 gen đích của B.
anthracis.
3.1.2.3. PCR đơn mồi phát hiện gen ypo2088, pla, caf1 của Y.
pestis
PCR đơn mồi cho Y. pestis được thực hiện tương tự, sản phẩm
là pla (438 bp), caf1 (271 bp), ypo2088 (103 bp) (Hình 3.10).
Hình 3. 10. Sản phẩm khuếch đại 3 gen
đích pla, caf1, ypo của Y. pestis Yp bằng
PCR đơn mồi
ĐC(). Đối chứng âm là nước khử ion; M.
Marker 100 bp (Thermo Scientific)
3.1.2.4. Kỹ thuật mPCR phát hiện đồng thời 3 gen ypo2088, pla,
caf1 của Y. pestis
Kỹ thuật mPCR đã khuếch đại đồng thời 3 gen đích của Y.
pestis.
3.1.2.5. Kỹ thuật mPCR với 6 cặp mồi và từng tác nhân
Để kiểm tra các cặp mồi của tác nhân này có bắt cặp chéo với
DNA tác nhân còn lại, kỹ thuật mPCR với 6 cặp mồi và 1 khuôn
hoặc DNA B. anthracis hoặc Y. pestis được thực hiện. Đường
chạy Yp với khuôn là DNA Y. pestis chỉ xuất hiện 3 băng đích của
Y. pestis. Tương tự, đường chạy Ba chỉ xuất hiện 3 băng đích của
B. anthracis (Hình 3.12). Như vậy, các cặp mồi đã được thiết kế
đặc hiệu cho B. anthracis, Y. pestis và không có hiện tượng bắt
cặp chéo.
bp
ĐC(-) Yp Ba M
bp
Hình 3. 12. Sản phẩm PCR với 6 cặp mồi,
từng loại DNA khuôn
ĐC(). Đối chứng âm là nước khử ion; Yp. Sản
phẩm mPCR với khuôn DNA Y. pestis; Ba. Sản
phẩm mPCR với khuôn DNA B. anthracis; M.
Marker 100 bp (Thermo Scientific)
3.1.2.6. Kỹ thuật mPCR với 6 cặp mồi và 2 tác nhân
Kỹ thuật mPCR với 6 cặp mồi và 2 loại khuôn chỉ thu được 3
băng đích của Y. pestis.
3.1.3. Nghiên cứu tối ưu kỹ thuật mPCR xác định đồng thời B.
anthracis và Y. pestis
Cần tối ưu các thông số của mPCR để đảm bảo xác định đồng
thời B. anthracis và Y. pestis như: nồng độ mồi, đệm, MgCl2,
dNTPs cũng như các điều kiện về chu trình nhiệt để thu được
đồng thời 6 băng sản phẩm đích đặc hiệu.
Nồng độ các mồi Y. pestis 0,1 μM và B. anthracis 0,6 μM là tối
ưu trong mPCR (Hình 3.14).
Hình 3. 14. Tối ưu nồng độ mồi của mPCR
M. Marker 100 bp (Thermo Scientific); 1. 0,1
μM; 2. 0,2 μM; 3. 0,4 μM; 4. 0,6 μM
Với nhiệt độ gắn mồi 56oC, nông đô
̀
̣ MgCl2 và dNTPs tối ưu
tương ứng la ̀0,6 mM và 0,25 mM, phan
̉ ưng mPCR cho kêt qua
́
́
̉ 6
băng đặc hiệu rõ nét nhất. Nồng độ dung dịch đệm được khảo sát
ở 4 mức là (1; 1,2; 1,4; 1,5X), và nông đô 1,2X
̀
̣
được lựa chọn.
3.1.4. Nghiên cứu thiết kế chứng nội tại tái tổ hợp trong kỹ
thuật mPCR
Trong chẩn đoán phân tử, chứng nội tại (Internal amplification
control IC) là rất cần thiết để loại trừ các trường hợp âm tính giả
do quá trình tách chiết không hiệu quả hay những chất ức chế ảnh
hưởng đến kỹ thuật PCR. Do đó, song song với việc thiết kế
mPCR, chúng tôi đã thiết kế IC cho mPCR, đảm bảo kết quả chẩn
đoán là chính xác bằng con đường tái tổ hợp. Quá trình tạo dòng IC
đạt được kết quả như sau: một đoạn gen lef (IC1) phân lập từ B.
anthracis bằng cặp mồi IC1FBamHI/RNdeI, tạo dòng phụ trong
vector pJET1.2blunt, kiểm tra vector pJET1.2IC1 tái tổ hợp bằng
PCR khuẩn lạc (Hình 3.18). Cặp enzyme BamHI và NdeI được sử
dụng cắt đồng thời các vector pJET1.2IC1 và pJET1.2capA.
Đoạn IC1 (0,65 kb từ pJET1.2IC1) và phần còn lại của vector
pJET1.2capA (~4 kb) được tinh sạch gel, nối ghép tạo thể tái tổ
hợp pJET1.2capAIC1. Plasmid này được kiểm tra bằng enzyme
giới hạn và giải trình tự. Plasmid này chứa trình tự nhận biết của
cặp mồi capAF1/R1 nên cũng được khuếch đại trong mPCR, cho
sản phẩm kích thước 1000 bp phân biệt với sáu sản phẩm của gen
chẩn đoán.
Hình 3. 18. Phân lập gen lef bằng cặp mồi IC1FBamHI/RNdeI và
tạo dòng phụ trong vector pJET1.2/blunt
a) Sản phẩm khuếch đại gen lef (IC1) trên gel agarose 1,2%; M. Marker
100 bp (Thermo Scientific); 1. Sản phẩm khuếch đại gen lef.
b) Kiểm tra plasmid tái tổ hợp bằng PCR khuẩn lạc trên gel agarose
1,2%, M. Marker 1 kb (Thermo Scientific); 13. Các dòng khuẩn lạc 13
Hình 3. 20. Kiểm tra mPCR bổ sung
chứa vector tái tổ hợp pJET1.2IC1.
IC trong quá trình tách chiết DNA ở
các nồng độ khác nhau với mẫu B.
anthracis
M. Marker 100 bp (Thermo Scientific);
109103. Các mức nồng độ IC tương
ứng.
Để kiểm soát toàn bộ các công đoạn của xét nghiệm, IC được
bổ sung vào trong quá trình tách chiết với một lượng tối thiểu có
thể phát hiện được nhằm loại bỏ tối đa sự ảnh hưởng đến hiệu
quả tách chiết cũng như mPCR. Kết quả trên cho thấy, băng chứng
nội tại (1 kb) xuất hiện rõ ở các mức nồng độ plasmid từ 109105
copy/ mẫu. Ở mức nồng độ IC là 106105 copy/ mẫu xuất hiện đầy
đủ 3 băng đích của B. anthracis và băng IC. Trong đó, băng IC xuất
hiện rõ nét, không bị smear và quan trọng hơn, băng đích capA cũng
xuất hiện. Còn mức nồng độ IC là 104 và 103 copy không còn xuất
hiện băng IC (Hình 3.20). Qua quá trình tối ưu trên các mẫu B.
anthracis, Y. pestis, mPCRIC cho các băng đích rõ nét, tách biệt
gồm 6 băng cho xác định B. anthracis và Y. pestis và 1 băng IC. Có
thể thấy rằng, mức nồng độ IC 5x104copy/ mẫu cho các băng rõ
nét nhất và đây chính là nồng độ được lựa chọn sau khi tối ưu lại
nồng độ của cặp mồi capAF1/R1 (0,64 µM), các thông số khác của
mPCR đã tối ưu ban đầu cơ bản vẫn giữ nguyên (Hình 3.21). Như
vậy, đã thiết kế thành công kỹ thuật mPCRIC tại xác định đồng
thời B. anthracis và Y. pestis. Chu trình nhiệt: Biến tính 94oC/4
phút, 32 chu kỳ (94oC/1 phút; 56oC/45 giây; 72oC/50 giây), 72oC/10
phút.
Hình 3. 21. Kiểm tra mPCR tối
ưu có bổ sung IC ở các nồng độ
105 và 5x104 copy
M. Marker 100 bp (Thermo
Scientific); 1, 2. Mẫu Y. pestis; 3,
4. Mẫu B. anthracis và Y. pestis; 5,
6. Mẫu B. anthracis.
3.1.5. Chế tạo kit mPCR xác định đồng thời B. anthracis và Y.
pestis
Sau khi xây dựng được quy trình kỹ thuật mPCR, chúng tôi đã
tiến hành chế tạo master mix theo thành phần tối ưu. Bước đầu đã
chế tạo 1000 test, 50 test/bộ, bảo quản ở điều kiện 20oC cho đánh
giá độ nhạy, độ đặc hiệu, ngưỡng phát hiện, độ ổn định của kit
mPCR theo thời gian và thử nghiệm trên các chủng phân lập (Ký
hiệu kit BaYpmPCR) (Hình 3.22).
Hình 3. 22. Master mix mPCR được đóng gói kèm hướng dẫn sử
dụng
3.2. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN CỦA KỸ THUẬT
mPCR TRÊN CÁC BỘ MẪU CHUẨN VÀ CÁC CHỦNG
PHÂN LẬP
3.2.1. Đánh giá khả năng phát hiện của kỹ thuật mPCR trên
các bộ mẫu chuẩn
Nghiên cứu thiết lập bộ mẫu chuẩn xác định độ nhạy của kit
mPCR
Ngưỡng nồng độ DNA tối thiểu có thể phát hiện được bằng
PCR là thông số cần khảo sát trước khi xây dựng bộ mẫu chuẩn
độ nhạy. Mẫu gốc DNA được tách chiết, tinh sạch đạt nồng độ
120 ng/µl, từ mẫu này pha loãng trong nước khử ion.
B50 B51 B52 B53 B54 B55 B56 B57 B58 B59 M ĐC(-)
Hình 3. 23. Xác định ngưỡng phát hiện B. anthracis
M. Marker 50 bp; B50B59. các mức nồng độ DNA; ĐC(). Đối chứng âm
Mẫu có nồng độ DNA thấp nhất còn cho khả năng phát hiện
được là B55 (mã số gốc PBA19) (Hình 3.23), nồng độ 0,000092
ng/µl tương đương 81,5 copy/ phản ứng mPCR sử dụng 5 µl DNA.
Với kết quả xác định ngưỡng của mPCR phát hiện B. anthracis
như trên, tiến hành thiết lập bộ mẫu chuẩn độ nhạy 100 ống (50
µl/ống), bao gồm: 10 hàng (ký hiệu EB1 đến EB10) x 10 cột. Sử
dụng 10 mức nồng độ ở bộ mẫu chuẩn xác định ngưỡng mPCR
phát hiện B. anthracis từ PBA10 (0,046875 ng/µl) PBA19
(0,000092 ng/µl) tương ứng ký hiệu EB1 EB10.
Tương tự, ngưỡng phát hiện của bộ mẫu chuẩn Y. pestis là
130,5 copy/ phản ứng. Bộ mẫu chuẩn độ nhạy mPCR xác định Y.
pestis cũng được thiết lập gồm 100 ống (50 µl/ống), bao gồm: 10
hàng (ký hiệu EY1 đến EY10) x 10 cột.
Nghiên cứu thiết lập bộ mẫu chuẩn độ đặc hiệu chẩn đoán của
kit mPCR
Các bộ mẫu chuẩn độ đặc hiệu mPCR đối với B. anthracis
được thiết lập tương tự với các bộ mẫu chuẩn độ nhạy, sử dụng
chủng B. cereus. Tương tự, sử dụng chủng E. coli và Y.
enterocolitica cho Y. pestis.
Nghiên cứu thiết lập bộ mẫu chuẩn xác định độ nhạy, độ đặc hiệu
của kit mPCR chẩn đoán B. anthracis và Y. pestis
Để thuận tiện cho việc đánh giá nội bộ, sau khi thiết lập bộ
mẫu chuẩn độ nhạy và đặc hiệu xác định từng tác nhân, chúng tôi
tiến hành phối trộn các bộ mẫu chuẩn riêng rẽ tương ứng để tạo
các bộ mẫu chuẩn hỗn hợp đồng thời B. anthracis và Y. pestis.
Đánh giá kit mPCR chẩn đoán B. anthracis và Y. pestis trên bộ mẫu
chuẩn
Khả năng phát hiện B. anthracis của bộ kit mPCR được kiểm
tra trên 100 mẫu (từ mẫu EB1 đến EB10, mỗi mẫu lặp lại 10 lần)
của bộ mẫu chuẩn độ nhạy với B. anthracis cho kết quả là 100%
các mẫu đều phát hiện đầy đủ các gen đặc trưng của B. anthracis.
Tương tự cho đánh giá độ nhạy của bộ kit mPCR đối với Y. pestis,
đồng thời B. anthracis và Y. pestis đều cho kết quả 100%.
Chúng tôi tiến hành kiểm tra độ đặc hiệu của kit BaYp mPCR
trên 100 mẫu (từ C1 đến C10 mỗi mẫu lặp lại 10 lần) của bộ mẫu
chuẩn độ đặc hiệu đã thiết lập từ B. cereus. Kết quả 100% các
mẫu không xuất hiện gen đặc trưng capA, pagA của B. anthracis
nhưng 100% các mẫu dương tính với gen vrrA. Với Y. pestis, độ
đặc hiệu của bộ kit mPCR là 100%.
Cac thanh phân cua kit BaYpmPCR co s
́
̀
̀ ̉
́ ự ôn đinh trên 12 thang
̉
̣
́
bao quan
̉
̉ ở điều kiện 20oC (Hình 3.32).
Hình 3. 32. Kiểm tra
độ ổn định mPCR sau
thời gian 12 tháng
M. Marker 100 bp; 110.
Các mẫu DNA EBY2
3.2.2. Đánh giá khả năng phát hiện của kỹ thuật mPCR trên
các chủng phân lập
Kỹ thuật mPCR với 6 cặp mồi xác định đồng thời gen đặc
trưng, gen độc lực của B. anthracis và Y. pestis đã được thiết kế và
tối ưu thành công trên chủng chuẩn. Việc đánh giá khả năng phát
hiện của kỹ thuật mPCR trên các bộ mẫu chuẩn là trong điều kiện
lý tưởng điều kiện tiên quyết cho bất kỳ bộ kit nào trước khi đưa
ra thử nghiệm lâm sàng. Với các chủng lâm sàng B. anthracis cũng
như Y. pestis, đặc biệt là các mẫu phân lập ngoài môi trường hay
lưu trữ thời gian dài trong phòng thí nghiệm, một số tính chất về
kiểu hình, kiểu gen có thể bị biến đổi. Do đó, để khẳng định việc
thiết kế thành công kỹ thuật mPCR, các chủng phân lập B.
anthracis và Y. pestis sau khi được kiểm tra, xác định bằng nuôi
cấy, được xác định bằng kỹ thuật mPCR. Kết quả xác định của
mPCR được khẳng định bằng phân tích trình tự toàn bộ chiều dài
một số gen tiêu biểu trên nhiễm sắc thể, các plasmid độc lực.
Xác định chủng phân lập bằng nuôi cấy, định danh
Các chủng nghi ngờ B. anthracis và chủng chuẩn B. anthracis
Ba (đối chứng dương) được nuôi cấy trên môi trường thạch máu
cừu ở 37oC/CO2 5%/ 24 giờ. Kết quả, tất cả các chủng cho khuẩn
lạc dạng R, màu xám, trực khuẩn Gram dương, hình vuông hai
đầu, xếp đôi, chuỗi, bào tử ở giữa và không làm biến đổi hình
dạng vi khuẩn, trong đó 11 chủng không tan máu β trên môi trường
thạch máu cừu có 4 chủng hình thành vỏ ( B. anthracis Ba, Ba1,
Ba3, Ba4). 13 chủng còn lại tan máu β. Định danh cho 11 chủng là
B. anthracis, còn lại là B. cereus (ID > 90%). Chủng Y. pestis Yp1,
Yp2 cho kết quả mọc các khuẩn lạc kích thước 1 2 mm dạng S,
màu xám đục, bờ đều, bề mặt nhẵn, trung tâm lồi giống hình
trứng oplet và không tan máu, là trực khuẩn Gram âm nhỏ, oxydase
(). Định danh là Y. pestis với ID Yp1, Yp2 lần lượt là 98,6 và
96,4%.
Thử nghiệm kỹ thuật mPCR
Kỹ thuật mPCR được thử nghiệm trên các mẫu nghiên cứu B.
anthracis, Y. pestis và các mẫu đối chứng âm là B. cereus, E. coli.
Mẫu hỗn hợp được tạo ra bằng cách trộn lẫn chủng B. anthracis
và Y. pestis sau đó tiến hành tách DNA tổng số. Ở tất cả các mẫu
đối chứng và mẫu thử nghiệm đều xuất hiện băng chứng nội tại
IC, điều này chứng tỏ quá trình tách chiết DNA và mPCR đảm
bảo, theo đó các kết quả xác định là đáng tin cậy (minh họa ở Hình
3.36). Mẫu đối chứng âm chỉ xuất hiện băng có kích thước khoảng
220 bp tương ứng với gen vrrA, ngoài ra không xuất hiện thêm
băng nào khác. Điều này là phù hợp, vì đối chứng âm sử dụng
chủng B. cereus, gen vrrA có mặt trong các loài nhóm “B. cereus”.
Còn mẫu đối chứng dương xuất hiện cả 6 gen đích đối với cả 2
tác nhân (Hình 3.36a), hoặc xuất hiện 3 gen đích đối với từng tác
nhân (Hình 3.36b).
(+) (-)
M BY2 Yp1 Yp2 Ba4 M Ba5 Ba6
(+) (-)
M
Ba3 Ec
Hình 3. 36. Xác định đồng thời B. anthracis và Y. pestis bằng kỹ thuật
mPCR tối ưu chứa chứng nội tại IC
M. Marker 100 bp (Thermo Scientific); a) (+). Đối chứng dương là hỗn hợp B.
anthracis và Y. pestis; (). Đối chứng âm là hỗn hợp B. cereus và E. coli; BY2.
Mẫu thử nghiệm hỗn hợp B. anthracis Ba4 và Y. pestis Yp2; Yp1. Y. pestis Yp1;
Yp2. Y. pestis Yp2; Ba4. B. anthracis Ba4; Ba5. B. anthracis Ba5; Ba6. B.
anthracis Ba6; b) (+). Đối chứng dương là mẫu B. anthracis Ba; (). Đối chứng
âm B. cereus; Ba3. B. anthracis Ba3; Ec. E. coli
Kết quả thử nghiệm kỹ thuật mPCR cho thấy, khi chỉ xuất
hiện 1 băng có kích thước tương ứng với gen đích vrrA (mẫu Ba5
Hình 3.36a) hay không xuất hiện băng đích nào (mẫu Ec Hình
3.36b), được xác định là mẫu âm tính với B. anthracis và Y. pestis
gây bệnh (tương ứng là mẫu B. anthracis Ba5 và E. coli). Cụ thể,
kết quả Hình 3.36a, đường chạy ký hiệu BY2 xuất hiện đầy đủ 6
băng đích có kích thước đúng với mẫu đối chứng dương, được xác
định là mẫu dương tính đồng thời với B. anthracis và Y. pestis có
đầy đủ độc lực. Mẫu ký hiệu Yp1, Yp2, Ba4 (Hình 3.36a) và mẫu
Ba3 (Hình 3.36b) xuất hiện đầy đủ 3 băng của các gen đích cho
từng đối tượng, được xác định lần lượt là chủng Y. pestis và B.
anthracis gây bệnh. Trong khi đó, đáng chú ý trên Hình 3.36a, mẫu
Ba6 chỉ xuất hiện 2 băng có kích thước tương ứng với 2 gen đích
là pagA và vrrA, không xuất hiện băng chỉ thị gen capA. Đây là
mẫu B. anthracis bị thiếu plasmid pXO2, không đầy đủ độc lực
(chủng B. anthracis Ba6). Như vậy, trong 10 chủng phân lập B.
anthracis, bằng kỹ thuật mPCR đã xác định được 3 chủng B.
anthracis đầy đủ độc lực (Ba1, Ba3 và Ba4), 1 chủng giảm độc do
thiếu gen capA thuộc plasmid pXO2 (chủng B. anthracis Ba6), 6
chủng còn lại là B. anthracis không độc. Đồng thời với Y. pestis,
kỹ thuật mPCR đã xác định được 2/2 chủng Y. pestis có đầy đủ gen
độc lực.
Để khẳng định kết quả, băng điện di đặc hiệu cho các gen đích
chẩn đoán được tinh sạch gel và giải trình tự. Kết quả, tất cả các
trình tự đều thuộc các gen đích tương ứng của B. anthracis và Y.
pestis. Như vậy, kỹ thuật mPCR đã được thử nghiệm thành công
trên chủng chuẩn và chủng phân lập.
Phân tích trình tự gen đặc trưng và gen độc lực của B. anthracis
và Y. pestis
Kỹ thuật mPCR được phát triển ở trên chứa 6 cặp mồi xác định
các đoạn ngắn trình tự bảo thủ của gen đích tương ứng. Tuy nhiên,
mỗi gen đích có chiều dài khác nhau và phân bố ở các vị trí khác
nhau. Cụ thể, với B. anthracis, gen đặc trưng vrrA thuộc nhiễm
sắc thể, gen độc lực pagA, capA thuộc plasmid pXO1, pXO2. Với
Y. pestis, gen đặc trưng ypo2088 thuộc nhiễm sắc thể, gen độc lực
pla, caf1 thuộc plasmid pPCP1, pMT1. Để đánh giá kỹ thuật mPCR
được phát triển, đồng thời nghiên cứu trình tự các gen đặc trưng và
gen độc ở các chủng phân lập được ở Việt Nam có sự giống và
khác nhau như thế nào với các chủng quốc tế, chúng tôi tiến hành
phân tích trình tự toàn bộ chiều dài gen độc lực và gen đặc trưng
của B. anthracis và Y. pestis.
Phân lập toàn bộ chiều dài gen đặc trưng và gen độc lực
Đối với B. anthracis, 7 gen vrrA, pagA, cya, lef, capA, capB,
capC đã được nhân dòng cho xác định toàn bộ trình tự. Các gen này
đã khuếch đại thành công, sản phẩm PCR có kích thước lần lượt
là 551, 2323, 2544, 2580, 1325, 1439 và 561 bp đúng với lý thuyết.
Đối với Y. pestis, gen đặc trưng trên nhiễm sắc thể là ypo2088 và 2
gen trên plasmid pPCP1 và pMT1 tương ứng là pla và caf1 cho sản
phẩm kích thước là 645, 1019 và 654 bp.
Nghiên cứu tạo dòng toàn bộ chiều dài gen đặc trưng và gen độc
lực
Sản phẩm khuếch đại các gen đích được tinh sạch và tạo dòng
trong vector pJET1.2/blunt. Chúng tôi lựa chọn một số enzyme giới
hạn để cắt kiểm tra các dòng plasmid tái tổ hợp, BglII được sử
dụng trong tất cả các trường hợp bởi nằm trên vùng đa điểm cắt.
Ngoài ra, trong một số trường hợp, chúng tôi sử dụng thêm một số
enzyme khác có trình tự nhận biết ở trên vector và trong trình tự
gen đích. Quá trình cắt kiểm tra bằng các enzyme giới hạn được
minh họa với vector tái tổ hợp pJET1.2pagA (Hình 3.39).
a) b)
Hình 3. 39. Tạo dòng gen pagA trong vector pJET1.2/blunt
a) Sơ đồ biểu hiện quá trình cắt kiểm tra vector pJET1.2pagA bằng
BglII; b) Cắt kiểm tra vector pJET1.2pagA trên gel agarose 1,2%.
Sử dụng enzyme giới hạn BglII, cặp enzyme XbaI và EcoRI,
chúng tôi đã chọn được các dòng tế bào mang plasmid chứa gen
pagA cho sản phẩm kích thước khoảng 4,0 và 1,2 kb (cắt bằng
XbaI và EcoRI) và khoảng 2,8; 2,4 kb đối với BglII. Như vậy, các
gen đích đã được tách dòng thành công.
Phân tích trình tự các gen đích đặc trưng và gen độc lực
Phân tích trình tự gen vrrA trên 10 chủng B. anthracis phân lập
cho thấy, gen vrrA giống nhau hoàn toàn, độ tương đồng từ 99
100% so với chủng tham chiếu. Phân tích trình tự gen pagA của 3
chủng B. anthracis độc lực (Ba1, Ba3 và Ba4) xác định được 3 đột
biến điểm (T C), trong đó 1 đột biến đồng nghĩa (T C)195, 2 đột
biến sai nghĩa là (T C)1693 và (T C)1799 khi so sánh với chủng B.
anthracis VollumUSA. Nghiên cứu trình tự gen cya và lef (pXO1),
chỉ xác định được 1 đột biến đồng nghĩa (T C)600 trên gen cya
chủng B. anthracis Ba3 và Ba4, còn gen lef có mức độ tương đồng
100% so với chủng tham chiếu. Một đột biến sai nghĩa hoàn toàn
mới (A G)1048 ở gen capA chủng B. anthracis Ba1 làm thay đổi axit
amin lysine thành glutamic (Hình 3.43). Hai gen còn lại là capB,
capC có tính bảo tồn cao, không xảy ra đột biến ở bất cứ điểm
nào. Các gen này đã được đăng ký trên Genbank với mã số:
KP2131027; KP75988593.
Hình 3. 43. So sánh trình tự axit amin của protein được mã hóa bởi
gen capA 3 chủng B. anthracis Ba1, Ba3 và Ba4 với 12 chủng tham
chiếu
Với Y. pestis, gen ypo2088 và caf1 của 2 chủng Y. pestis Yp1,
Yp2 có mức độ tương đồng 100% so với chủng tham chiếu. Chỉ có
1 đột biến điểm được xác định ở gen pla (T C)836 khi so sánh với
chủng Y. pestis Angola. Trình tự phân tích các gen được đăng ký
trên Genbank với mã số KM8800257.
Như vậy, kỹ thuật mPCR được thiết kế xác định đồng thời B.
anthracis, Y. pestis và thử nghiệm dựa trên các chủng phân lập
trong nước hoàn toàn có thể chẩn đoán cho các chủng từ các khu
vực khác trên thế giới.
3.2.3. Kiểm định bộ kit BaYpmPCR chẩn đoán B. anthracis và
Y. pestis
Kỹ thuật mPCR xác định nhanh, đồng thời B. anthracis và Y.
pestis được phát triển thành kit BaYpmPCR, kiểm định tại Viện
kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm, Bộ Y tế cho kết quả
đạt tiêu chuẩn cơ sở, độ nhạy, độ đặc hiệu 100% trên panel mẫu
chuẩn.
Chương 4. BÀN LUẬN KẾT QUẢ
4.1. THIẾT KẾ KỸ THUẬT mPCR XÁC ĐỊNH NHANH
ĐỒNG THỜI B. anthracis VÀ Y. pestis
Kỹ thuật mPCR cho phép tiết kiệm thời gian, kinh phí và đóng
vai trò quan trọng trong chẩn đoán phân tử. Thực tế, việc nghiên
cứu thiết kế mPCR tối ưu đòi hỏi nhiều công đoạn hơn so với
PCR thông thường. Các thành phần tham gia trong phản ứng cũng
như chu trình nhiệt cần được đánh giá, tối ưu. Đồng thời, việc
nghiên cứu, thiết kế mồi trong mPCR có vai trò rất quan trọng.
Đối với 2 tác nhân B. anthracis và Y. pestis, cần chỉ ra được chủng
gây bệnh (có đầy đủ độc lực) hay không. Với B. anthracis, gen
pagA (pXO1) được WHO khuyến cáo sử dụng bởi khi chủng B.
anthracis thiếu gen này sẽ không thể gây độc. Ngoài ra, gen capA
(pXO2) được lựa chọn nhiều trong chẩn đoán (Skottman, 2007;
Kurosaki, 2009). Một gen đích nữa được sử dụng để phát hiện tất
cả các chủng vi khuẩn than là vrrA nằm trên nhiễm sắc thể có
tính ổn định cao và bền vững. Trong xác định Y. pestis, pla, caf1,
ypo2088 là các gen đích thường được sử dụng, cho phép chẩn đoán
chính xác Y. pestis. Như vậy, cần thiết kế 6 cặp mồi trong mPCR
cho xác định đồng thời B. anthracis và Y. pestis. Khi thực hiện
mPCR với nhiều cặp mồi, xác suất tạo sản phẩm không đặc hiệu,
bắt cặp chéo giữa các mồi tăng lên. Do đó, sau khi nghiên cứu thiết
kế mồi, tối ưu mPCR là điều kiện tiên quyết để hạn chế tối đa
những tương tác lẫn nhau giữa các cặp mồi cũng như việc tạo
thành các sản phẩm phụ.
Cho đến trước nghiên cứu này, có rất ít công trình phát triển kỹ
thuật mPCR xác định đồng thời B. anthracis và Y. pestis cũng như
các tác nhân truyền nhiễm khác có kết hợp các cặp mồi chẩn đoán
xác định cả gen đặc trưng trên nhiễm sắc thể và gen độc lực trên
plasmid cùng chứng nội tại để xác minh kết quả. Hầu hết các công
trình chỉ lựa chọn một trong các gen đích độc lực trên plasmid
(Batra, 2013; Safari Foroshani, 2013; WhiteduckLeveillee, 2016),
như vậy sẽ không đánh giá được đầy đủ tình trạng độc lực của
các chủng vi khuẩn gây bệnh và có thể bỏ sót chẩn đoán. Để khắc
phục hạn chế này, một số nghiên cứu đã kết hợp cả gen trên
nhiễm sắc thể và gen độc lực, tuy nhiên lại trên từng tác nhân
riêng rẽ (Chen, 2012; Ogawa, 2015; Riojas, 2015; Lindsey, 2017).
Mặt khác, nhiều công trình lại không thiết kế chứng nội tại để
kiểm soát kết quả chẩn đoán lâm sàng. Kỹ thuật mPCR được phát
triển trong luận án sử dụng 6 cặp mồi trong đó có cả chứng nội tại
để phát hiện nhanh, đồng thời và chính xác B. anthracis và Y. pestis
gây bệnh bằng cách kết hợp 1 gen đích trên nhiễm sắc thể và 2
gen đích độc lực trên plasmid cho mỗi loại tác nhân. Đặc biệt,
chúng tôi đã thiết kế IC cạnh tranh (Abdulmawjood, 2002; Hoorfar,
2004), sử dụng chung cặp mồi chẩn đoán là capAF1/R1. Như vậy,
sẽ không phải thiết kế thêm cặp mồi cho IC và công đoạn tối ưu
sẽ được rút ngắn. Như vậy, kỹ thuật mPCR có chứa 6 cặp mồi
cho phép khuếch đại đồng thời 7 sản phẩm gồm 3 gen đích của B.
anthracis, 3 gen đích của Y. pestis và 1 gen IC. Kỹ thuật này đã
cung cấp một công cụ hữu ích góp phần xác định nhanh, đồng thời
2 tác nhân vi khuẩn có nguy cơ cao sử dụng làm vũ khí sinh học
này chỉ trong một ống phản ứng, giúp giảm giá thành, công sức và
thời gian chẩn đoán.
4.2. KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN CỦA KỸ THUẬT mPCR TRÊN
CÁC BỘ MẪU CHUẨN VÀ CÁC CHỦNG PHÂN LẬP
Kỹ thuật mPCR xác định đồng thời B. anthracis và Y. pestis sau
khi thiết kế, tối ưu thành công đã được chế tạo thử nghiệm thành
kit (kit BaYpmPCR). Để đảm bảo chất lượng, kit mới chế tạo
phải được đánh giá với các tiêu chí quan trọng là: độ nhạy, độ đặc
hiệu và độ ổn định trên các bộ mẫu chuẩn điều kiện tiên quyết
cho bất kỳ bộ kit chẩn đoán nào trước khi đưa vào thử nghiệm
thực địa (WHO, 2004; Bunk, 2007; Madej, 2010; NIBSC, 2014).
Các loại mẫu chuẩn dùng trong kiểm định có thể tìm trong danh
mục của WHO hoặc NIBSC là lý tưởng nhất. Tuy nhiên, khi không
có các loại trên thì thiết lập các bộ mẫu chuẩn nội bộ là cần thiết
(Belak, 2001), đặc bệt với B. anthracis và Y. pestis là 2 loài vi
khuẩn tối nguy hiểm, không có sẵn mẫu chuẩn. Các chủng chuẩn
sử dụng trong tách chiết DNA cho thiết lập mẫu chuẩn nội bộ đều
được kiểm tra, đánh giá tính chất sinh vật, hóa học điển hình. Các
mẫu DNA có độ tinh sạch và nồng độ cao được sử dụng làm mẫu
chuẩn. Theo cách này, bộ mẫu chuẩn có độ đồng nhất cao và có
thể pha loãng thành các nồng độ chính xác, cũng là hướng thiết lập
được WHO khuyến cáo. Giá trị ngưỡng phát hiện cho B. anthracis
và Y. pestis tương ứng là 81,5 và 130,5 copy/phản ứng, tương
đương với kết quả của các công trình đã công bố (Heinz Ellerbrok,
2002; Batra, 2013; Nghiem, 2015), độ nhạy 100% thử nghiệm trên
số mẫu đủ lớn là 100, đạt tiêu chuẩn cơ sở.
Kết quả đánh giá độ đặc hiệu cho thấy, nếu chỉ sử dụng 1 gen
trên nhiễm sắc thể (vrrA) có thể chẩn đoán nhầm giữa
B. anthracis và B. cereus (Bode, 2004; Rasko, 2004). Mặt khác, nếu
chỉ dựa vào 1 gen trên plasmid thì nguy cơ âm tính giả với chủng
mất một trong các plasmid độc lực. Với B. anthracis, để khẳng
định là vi khuẩn than gây bệnh cần có mặt đồng thời 3 gen là vrrA,
pagA, capA. Kết quả này cũng minh chứng cho yêu cầu phải kiểm
định trên panel mẫu với tất cả các kit thương mại trước khi đưa ra
thị trường. Như vậy, các bộ panel độ nhạy và độ đặc hiệu được
thiết lập là đảm bảo và có ý nghĩa đánh giá giá trị khoa học của bộ
kit, có khả năng kiểm định các tiêu chuẩn của một bộ kit PCR
chẩn đoán B. anthracis và Y. pestis với nhiều cách thiết kế mồi
khác nhau.
Đánh giá kit PCR chẩn đoán trên các bộ mẫu chuẩn là kiểm
định trong điều kiện lý tưởng. Trên thực tế, B. anthracis và Y.
pestis có thể tồn tại tự nhiên hay bị gây nhiễm ngoài môi trường, là
những mẫu phức tạp, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kỹ thuật
PCR, đòi hỏi cần được xác định nhanh, chính xác trong những
trường hợp nghi ngờ. Kỹ thuật mPCR này đã được thử nghiệm
trên chủng chuẩn và chủng phân lập (sau khi đã được kiểm tra tính
chất sinh vật, hóa học, định danh). Đồng thời, để có cơ sở đánh giá
kỹ thuật mPCR được phát triển cho ứng dụng xác định chủng địa
phương và chủng quốc tế, chúng tôi tiến hành phân tích trình tự
toàn bộ chiều dài các gen đặc trưng và gen độc lực tiêu biểu của
B. anthracis (thuộc plasmid pXO1, pXO2), Y. pestis (thuộc pPCP1,
pMT1). Kết quả này đã cung cấp dữ liệu nucleotide tương đối
hoàn chỉnh về một số gen tiêu biểu của các chủng B. anthracis, Y.