Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Bút kí ai đã đặt tên cho dòng sông của hoàng phủ ngọc tường từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.37 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THẢO

BÚT KÍ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI – 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THẢO

BÚT KÍ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới T.S La Nguyệt Anh.
Cô đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Tổ Bộ môn Văn học Việt
Nam, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, tháng 5năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Thảo


LỜI CAM ĐOAN
Kết quả nghiên cứu này là của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học
của T.S La Nguyệt Anh. Đề tài không trùng lặp với bất cứ nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
- Mọi tư liệu, trích dẫn trong khóa luận là hoàn toàn trung thực.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
8. Kết cấu của khóa luận ................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1....................................................................................................... 6
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG............................................................................. 6
1.1. Những vấn đề lí luận chung ....................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm văn hóa .................................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm và cách phân loại thể kí ......................................................... 7
1.1.3. Mối quan hệ giữa kí văn học và văn hóa .............................................. 10
1.2. Hoàng Phủ Ngọc Tường và quá trình sáng tác ........................................ 12
1.2.1. Vài nét về tác giả................................................................................... 12
1.2.2. Quá trình sáng tác.................................................................................. 12
1.2.3. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường ...... 15
CHƯƠNG 2..................................................................................................... 18
DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?........ 18
CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG ............................................................ 18
2.1. Địa - văn hóa Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? .......................... 18


2.2. Đời sống tinh thần của người dân xứ Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng
sông? ............................................................................................................... 26
CHƯƠNG 3..................................................................................................... 34
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG ............................................................ 34
3.1. Ngôn ngữ giàu chất thơ ............................................................................ 34
3.2. Giọng điệu trữ tình ................................................................................... 39
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 43
TƯ LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học vốn đã có từ trong bản chất đến
nay lại càng sâu sắc và không thể tách chia. Sự phát triển mạnh mẽ và ngày
càng sâu của văn hóa vào nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó
có văn học, làm cho mọi người càng nhận thức vai trò và sự gắn kết của văn
hóa với văn học. Tìm hiểu văn học từ góc nhìn văn hóa là hướng đi đầy triển
vọng trong nghiên cứu hiện nay. Trên tinh thần chung ấy, chúng tôi lựa chọn
đề tài: “Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ
góc nhìn văn hóa” với các lí do sau:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí.
Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí
tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp
từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý... Tất cả được
thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài năng.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được đưa
vào chương trình sách giáo khoa hiện hành và đây cũng là một tác phẩm được
nhiều nhà nghiên cứu cũng như độc giả quan tâm. Trong nhà trường phổ
thông, Ai đã đặt tên cho dòng sông? được tiếp nhận từ góc độ thể loại, được
đánh giá là một thiên bút kí đặc sắc ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật.
Bên cạnh sự phong phú về nội dung và sự độc đáo trong hình thức biểu
hiện, bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
phản ánh chân thực vẻ đẹp văn hóa của dòng sông Hương sử thi và diễm lệ.

Bạn đọc cần suy ngẫm và lắng đọng mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp ấy
cũng như ẩn ý mà tác giả gửi gắm.
Lựa chọn đề tài: “Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ
Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa”, chúng tôi hi vọng góp phần xác định cơ sở
1


khoa học để đánh giá những nét đặc sắc trong kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường
và phục vụ cho việc học tập, giảng dạy môn Ngữ văn ở Trung học Phổ thông
sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Đến nay có không ít những công trình khoa học, những bài báo nghiên
cứu bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Theo nhà văn Nguyễn Tuân, Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có “rất
nhiều ánh lửa” [17, 501].
Nhà văn Nguyên Ngọc có viết: “Trong một cuốn sách gần đây của anh,
viết và in ngay giữa những ngày anh đang vật lộn với cơn bệnh nặng – chứng
tỏ ở anh một đức tính dũng cảm và nghị lực phi thường của một người lao
động nghệ thuật – anh tự coi mình là “người ham chơi”. Quả thật, anh là một
người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với
nhân dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ...” [17, 502].
Nhà thơ Hoàng Cát nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong
cách viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn
học, triết học, lịch sử, địa lí sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời
điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được”
[17, 503 ].
Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên khi nói về Chân dung văn học
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên sau 1975 cũng nhận xét: “Nói rằng
Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên.
Tôi muốn đi xa hơn nữa, tìm một căn nguyên thầm kín để cắt nghĩa cho sự

thành công của mĩ mãn của những trang viết ấy: phải chăng ở đây đã có một
sự hòa hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế
với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tương
giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa


không dễ một lần thứ hai viết được như thế. Ngỡ như không khác được: viết
về song Hương là phải vậy, viết về “văn hóa vườn” ở Huế là phải vậy” [dẫn
theo 5, 55].
Trong bài viết Ai đã đặt tên cho dòng sông? – bút kí sử thi của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, GS Trần Đình Sử khẳng định: “Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc
Tường là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hóa và lịch
sử của các hiện tượng đời sống… Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là
khám phá bình diện văn hóa với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn
Huế nồng nàn” [14, 295]. Có thể thấy, bài viết không chỉ bó hẹp vấn đề
nghiên cứu ở bình diện thể loại mà quan tâm tới bình diện văn hóa, lịch sử
trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đây
là những gợi mở quí báu cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tác giả Trần Thùy Mai trong bài viết Kí văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã phân tích và khẳng định những giá trị tác phẩm kí văn hóa. Bài viết
đi sâu nghiên cứu những truyện kí về các nhân vật lịch sử ở Huế hoặc ít nhiều
liên quan đến Huế như Nguyễn Trãi, Đặng Huy Trứ, Đào Duy Từ, Nguyễn
Huệ… Và kết luận về thái độ, tấm lòng của Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Không
nhìn vào cõi xưa với thái độ của người hiếu cổ hay người phục cổ càng không
có ý mượn xưa để nói nay; điều anh muốn đạt tới, và đã đạt tới, là tìm cho ra
dòng chảy của sự sống đã nối liền những con người Việt Nam từ xa xưa cho
đến bây giờ” [9].
Trong sách Ngữ văn 12 có nhận xét: “Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa
giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa lịch sử rất
phong phú” [11, 197].

Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến
bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn
thể loại. Yếu tố văn hóa trong bút kí này của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói


chung và Ai đã đặt tên cho dòng sông? nói riêng, mặc dù đã được đề cập
nhưng vẫn còn nhiều bỏ ngỏ, cần thiết có một công trình nghiên cứu chuyên
biệt. Trên cơ sở những gợi mở quí báu trên, khóa luận tiếp tục nghiên cứu bút
kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn
hóa.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tìm hiểu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng
Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa giúp chúng ta thấy được nét riêngtrong
địa – văn hóa Huế; những phong tục sinh hoạt và con người xứ Huế mộng
mơ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về Hoàng Phủ Ngọc Tường – và bút kí của ông.
- Đi tìm hiểu xứ Huế qua địa văn hóa.
- Thấy được nét độc đáo và đặc sắc trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng
sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, khẳng định những đóng góp của ông đối
với văn học Việt Nam hiện đại.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài khóa luận đặt ra vấn đề nghiên cứu:
“Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc
nhìn văn hóa” cho nên chúng tôi chọn xuất phát điểm từ vấn đề có ý nghĩa
khái quát về thể kí, về văn hóa, từ đó đi vào tìm hiểu bút kí Ai đã đặt tên cho
dòng sông? trong chương trình Ngữ văn 12, tập 1.
- Phạm vi tư liệu:Tư liệu chính mà chúng tôi khảo sát là bút kí Ai đã
đặt tên cho dòng sông? trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1. Bên cạnh đó,

khi cần thiết khóa luận có sự liên hệ đến các sáng tác thuộc thể bút kí của
nhữngHoàng Phủ Ngọc Tường và các nhà văn khác.


6. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học, khóa
luận sử dụng phối hợp các phương pháp:
- Phân tích và tổng hợp
- Phương pháp so sánh hệ thống
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
7. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận nghiên cứu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng
Phủ Ngọc Tường.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận một lần nữa khẳng định tài năng
độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường và góp phần vào việc tiếp nhận tác
phẩm văn học cũng như việc học tác phẩm kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường
trong nhà trường THPT
8. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của
khóa luận gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Dấu ấn văn hóa trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng
Phủ Ngọc Tường
Chương 3. Đặc sắc nghệ thuật trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của
Hoàng Phủ Ngọc Tường


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Những vấn đề lí luận chung
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Theo nghĩa rộng, văn
hóa bao hàm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
nên trong quá trình lao động sản xuất. Còn theo nghĩa hẹp, văn hóa là những
giá trị tinh thần của con người. Có nhiều ý kiến cho rằng khi hiểu văn hóa
theo nghĩa hẹp chủ yếu được hiểu về mặt văn hóa tư tưởng.
Có khá nhiều những định nghĩa cũng như khái niệm văn hóa khác nhau,
mỗi học giả lại có cách tiếp nhận và góc nhìn riêng.
Theo F. Boas định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần,
thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên
một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ
với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những
thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau” [ dẫn theo
16, 149]. Theo như định nghĩa này thì giữa cá nhân, tập thể và môi trường có
mối quan hệ quan trọng và đặc biệt mối quan hệ này rất quan trọng trong việc
hình thành văn hóa của con người.
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo,văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày và
mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hóa” [7, 431] . Theo như cách hiểu này thì văn hóa là toàn bộ


những gì con người sáng tạo và phát minh ra. Văn hóa theo cách nói của Hồ
Chí Minh là một nội hàm rất rộng trong đó có văn học, nghệ thuật, .
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Nói tới văn hóa là nói tới
một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không
phải là thiên nhiên mà có liên quan đến co người trong suốt quá trình tồn tại,

phát triển, qua trình con người làm nên lịch sử... (văn hóa) bao gồm cả hệ
thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng,
sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản
lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và
không ngừng lớn mạnh” [dẫn theo 18, 22].
Như vậy, có thể hiểu văn hóa là toàn bộ những gì mà con người sáng
tạo và phát minh ra trong qua trình phát triển. Đó là toàn bộ những giá trị do
con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển và hoàn thiện bản thân, xây
dựng những giá trị chuẩn mực của xã hội. Văn hóa có vai trò đặc biệt quan
trọng, nó là thước đo và định hình các giá trị, trình độ phát triển của một quốc
gia, một dân tộc. Ngay cả việc cải tạo con người, định hướng lối sống, cách
cảm, cách nghĩ, nó chi phối mọi mặt đời sống của con người trong xã hội.
1.1.2. Khái niệm và cách phân loại thể kí
1.1.2.1. Khái niệm
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, kí là một loại hình văn học trung gian
nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như:
bút kí, hồi kí, du kí, kí sự, phóng sự, tùy bút, tạp văn, tản văn… Đặc trưng của
kí là: “tôn trọng sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu”. Các tác
giả trong Từ điển Tiếng Việt cho rằng: kí là “thể văn tự sự có tính chất thời
sự, trung thành với hiện thực cao nhất” [6, 501].
Kí ra đời sớm trong lịch sử nhân loại. Nhưng phải đến thế kỉ 17, đặc
biệt từ thế kỉ 19, khi đời sống lịch sử phát triển theo hướng tăng tốc, khi kĩ


nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học mở cửa, xé rào để xâm nhập vào các
hoạt động tinh thần khác, nhà văn ngày càng có ý thức tham gia trực tiếp vào
những cuộc đấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Kí thường
không có cốt truyện có tính hư cấu, kí thường dựng lại các hình tượng mang
tính khái quát. Tính khái quát được tác giả thể hiện bằng suy tưởng. Tính xác
thực là đặc trưng cơ bản của thể kí. Kí phản ánh hiện thực khách quan. Những

sự kiện, con người trong kí đều xác thực. Kí cũng có khả năng hư cấu, nhưng
liều lượng hư cấu có giới hạn và không xa rời thực tiễn .
Kí là thể loại in đậm dấu ấn cá nhân hình tượng của tác giả. So với tiểu
thuyết và truyện ngắn, người viết kí không “ẩn mình” mà trực tiếp viết ra
những gì mình muốn chứng kiến, quan sát. Cái “tôi” tác giả kể, thông tin,
miêu tả hoặc dẫn dắt người đọc tiếp cận với cuộc sống, con người.
Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của
tác giả. Nhà văn kể, và cùng với lời kể là phân tích, luận giải đánh giá những
sự việc hiện tượng được đề cập trong tác phẩm. Là thể loại nhanh nhạy, kí
phản ánh kịp thời những vấn đề sôi bỏng của cuộc sống đời thường, nên ngôn
ngữ kí khá gần gũi.
Đánh giá chung về thể loại kí, tác giả Hoàng Ngọc Hiến khẳng định:
“Trong nghiên cứu văn học Việt Nam đương đại, kí là một thuật ngữ được
dùng để gọi tên một thể loại văn học bao trùm nhiều thể hoặc tiểu loại: bút kí,
hồi kí, du kí, kí sự, phóng sự, tùy bút, tạp văn, tản văn tiều phẩm…”. Tác giả
cũng nhấn mạnh tính phức thể của kí, đó là “thể loại nằm giữa báo chí và văn
học” [17, 503]. Kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và
văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí,
phóng sự, kí sự,nhật kí, tùy bút,... Do tính chất trung gian có người liệt kí vào
cận văn học.
Như vậy, trong quá trình xác định thể loại, các nhà nghiên cứu đã có


nhiều cách tiếp cận để nhận diện kí, nhưng cho đến nay giới lí luận văn học
vẫn chưa đưa ra được một hệ thống nhất quán cho thể loại văn học này. Tuy
nhiên, vẫn có thể khẳng định kí là tên gọi cho một nhóm thể tài nằm ở phần
giao nhau giữa văn học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu
các loại).
1.1.1.2. Cách phân loại
Kí báo chí

Xuất hiện là do nhu cầu truyền đạt thông tin, nhu cầu phản ánh thực
tiễn với tư cách là người truyền đạt thông tin tới công chúng, nhà báo luôn tìm
tòi những hình thức mới để vượt qua khỏi cái khung của lối văn thông tấn mà
vẫn đảm bảo được tính xác thực, tính thời sự của nội dung được phản ánh.
Hiện thực được trình bày luôn đảm bảo độ chính xác tối đa và lập luận
phải xuất phát từ tư duy loogic của sự thực. Cái tôi luôn là cái tôi nhân chứng
tỉnh táo và lí trí.
Kí văn học
Trong kí văn học thì hiện thực được tái hiện trong tác phẩm ở cự ly gần
nhất, đem đến cho công chúng những cách nhìn, cách cảm đa dạng, nhiều
chiều.
Kí có nhiều tiểu loại: kí sự, bút kí, phóng sự, nhật kí, hồi kí, tùy bút...
Ngoài những đặc trưng chung của thể kí là phản ánh sự thật khách quan và
tính xác thực, mỗi tiểu loại lại có đặc điểm riêng.
Bút kí là thể loại ghi chép các sự kiện, qua đó ghi lại những cảm xúc,
suy nghĩ của tác giả. Bút kí là một thể văn ghi lại những điều mắt thấy tai
nghe trong cuộc sống của người viết và có kèm theo cả những cảm nhận, nhận
xét của riêng người viết. Bút kí hay nói về người thật việc thật cùng những
suy nghĩ, bình luận chân thực của người viết.
Kí sự là thể kí ghi lại những người và việc có thật của đời sống, không
thêm một chút gì thuộc chủ quan người viết.


Hồi kí là sáng tác thuộc nhóm thể tài ký, là một thiên trần thuật từ ngôi
tác giả, kể về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả chứng
kiến. Hồi kí mang đậm tính chủ quan. Các sự kiện được kể lại không khỏi
chịu tác động bởi các quy luật quên lãng, làm méo lệch của cơ chế hồi ức.
Tính chủ quan khiến cho hồi kí không thể so bì với các tư kiệu gốc, các chứng
tích, về tính xác thực. Tuy nhiên sự thiếu hụt sự kiện, thông tin hay phiens
diện về đối tượng miêu tả trong hồi kí lại được bù đắp bởi văn phong sinh

động, cảm tưởng trực tiếp của cá nhân tác giả.
Tùy bút là một loại của thể kí, nhưng tùy bút là thể giàu chất trữ tình
nhất trong các loại kí. Tùy bút là thể loại khá tự do trong quá trình sáng tạo.
Nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đi, tự sự việc này đến sự việc kia, từ liên
tưởng này đến liên tưởng kia, để bộc lộ những cảm xúc, những suy nghĩ của
mình. Ngôn từ trong tùy bút thường giàu hình ảnh, giàu chất thơ. Tùy bút
cũng phản ánh những sự kiện, nhưng đan xen với những sự kiện là cảm xúc,
suy ngẫm của tác giả về con người, cuộc sống. Trong thành tựu của kí người
đọc đã từng biết đến những nhà văn sở trường về thể loại tùy bút như Nguyễn
Tuân, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, …
1.1.3. Mối quan hệ giữa kí văn học và văn hóa
Giữa văn hóa, văn học có mối quan hệ khăng khít và mật thiết với
nhau. Văn học nằm trong văn hóa và chịu sự chi phối của toàn bộ nền văn hóa
đó, mang tính lịch sử, thời đại nhất định. Đồng thời văn hóa chi phối đặc điểm
của văn học. Bởi ở thời đại nào thì văn học ấy, tư tưởng văn hóa của thời đại
sẽ chi phối tới khuynh hướng sáng tác văn học. Nếu như ở một thời đại mà
nền văn hóa mờ nhạt không có gì nổi bật thì văn học khó có thể có những
thành tựu rực rỡ được, cũng giống như văn học vậy nếu như văn học mà
không sôi nổi và nhiều thành tựu thì văn hóa cũng khó có thể mang nhiều màu
sắc được. Vì vậy đặc trưng văn hóa thời đại sẽ chi phối đến đặc điểm văn học.


Một nền văn hóa lớn sẽ là cơ sở, là nền móng để văn học phát triển rực rỡ và
đạt được nhiều thành tựu.
Qua văn học sẽ giúp bạn đọc có thêm những hiểu biết về văn hóa, có
thể là một nét đẹp văn hóa hay một nền văn hóa đã bị lãng quên. Ở mỗi một
nền văn hóa khi đi vào văn học lại có những nét đặc sắc khác nhau. Nếu như
vùng đất phủ đầy băng tuyết với nghệ thuật gejsha của Kawabata được hiện
lên qua Xứ Tuyết, đó là một vùng đất với vẻ đẹp đến nao lòng và nghệ thuật
gejsha là một đặc trưng văn hóa của xứ sở Phù Tang. Thì trong văn học hiện

đại Việt Nam, người đọc sẽ được biết đến với những nét đặc sắc văn hóa của
các vùng miền thông qua những món ăn hay thậm chí nếp cảm nếp nghĩ của
những con người nơi đây. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho ta thấy dược nếp nghĩ,
nếp cảm của con người vùng Trung Bộ; Nguyễn Tuân lại đưa ta về với vùng
núi phía Bắc với những con người mạnh mẽ và phi thường.
Bên cạnh việc giúp bạn đọc có thêm hiểu biết về những nền văn hóa
khác nhau thì văn học còn giúp bạn đọc vượt thời gian và không gian, để thấy
và hiểu được cả một thời kì văn hóa, xã hội của nhân loại. Như hai bản trường
ca Illiade và Odyssee của Homere đã đưa bạn đọc tới những chiến công oanh
liệt và hiển hách trong cuộc chiến thành Troie, bên cạnh đó là bề dày lịch sử
và văn hóa của cả một thời kì hoàng kim. Con người luôn luôn có khao khát
chiến đấu và chiến thắng để bảo vệ đất nước của mình, họ là những con người
trí tuệ và cống hiến hết mình cho quốc gia và cho dân tộc.
Xét đến cùng, sáng tác văn học chính là một hành vi văn hóa cao đẹp
của người nghệ sĩ. Văn hóa tác động sâu sắc tới văn học thông qua sự cảm
nhận, thẩm thấu giá trị văn hóa của người nghệ sĩ.
Ngược lại văn học cũng tác động ngược trở lại đối với nền văn hóa. Văn
học có vai trò tích lũy những giá trị tinh hoa nhất của một nền văn hóa để từ đó
làm giàu đẹp thêm. Những bài vè, ca dao hay những câu thành ngữ tục ngữ
đều


là những kinh nghiệm của ông cha ta đúc kết và để lại cho thế hệ mai sau
và đây chính là những giá trị văn hóa truyền thống vô giá cho muôn đời sau.
Văn học đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong món ăn tinh thần
trong đời sống của con người, những câu nói quen thuộc những hình tượng
văn học đặc biệt đã đi vào đời sống xã hội và nó trở nên gần gũi hơn.
1.2. Hoàng Phủ Ngọc Tường và quá trình sáng tác
1.2.1. Vài nét về tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế. Ông là

người xã Triệu Long, huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị, hiện ông đang sinh
sống và làm việc tại Huế. Ông đã học và tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm
Sài Gòn khóa 1, ban Việt Hán năm1960, cử nhân triết học Đại học Văn Khoa
Huế, là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
Ông đã từng dạy học, rồi tham gia phong trào học sinh, sinh viên và
giáo chức chống Mỹ. Ông viết văn, viết báo từ khi tuổi đời còn rất trẻ.
Ông từng là Chủ tịch Hội văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí
Sông Hương, Cửa Việt. Ông được vinh dự nhận giải thưởng của Hội nhà văn
Việt Nam năm 1980 với tác phẩm Rất nhiều ánh lửa.
Trong số không nhiều nhà văn đã cống hiến gần như toàn bộ lao động
nghệ thuật của mình cho thế kỉ hiện nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây
bút đặc sắc, ông có những đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam
đương đại.
1.2.2. Quá trình sáng tác
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác giả có nhiều đóng góp trong văn
học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn có phong cách độc đáo, tài hoa. Đến
với tác phẩm Hoàng Phủ Ngọc Tường người đọc sẽ tiếp xúc với một thế giới
tâm hồn sâu sắc tinh tế, đồng thời được cung cấp một lượng thông tin phong
phú, thú vị về nhiều lĩnh vực.


Sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường gồm các thể loại như: bút kí, thơ,
nhàn đàm. Ở thể loại bút kí có thể kể đến những tác phẩm sau: Ngôi sao trên
đỉnh Phù Vân Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng
sông (1984), Bản di chúc của cỏ lau (truyện kí 1991), Hoa trái quanh tôi,
Huế di chúc và con người (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999), Trong mắt tôi
(2001), Rượu hồng đào chưa nhắm đã say (2001), Trịnh Công Sơn và cây đàn
Lya của hoàng tử bé (2005), Miền cỏ thơm (2007)…
Ở thể loại nhàn đàm với: Nhàn đàm (1997), Người ham chơi (1998) và
Miền gái đẹp (2001).

Với thơ gồm có: Những dấu chân qua thành phố (1976) và Người hái
phù dung (1995).
Toàn bộ tinh hoa và năng lực của Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như
đều dành cho thể kí. Nhà văn đã thành danh và đóng góp nhiều cho văn học
sau 1975 là ở thể loại này. Theo đánh giá của Nguyên Ngọc: “Anh là một
trong những nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay...”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đi nhiều. Ông đã rong ruổi khắp mọi miền đất
nước trong những năm chiến tranh, những năm tháng hòa bình. Bằng khả
năng quan sát tinh tường, ông đã kịp thời ghi lại những hình ảnh, sự kiện, con
người của từng vùng đất. Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường đa dạng về đề tài: viết
về chiến tranh, những danh thắng ở nước ngoài, về những vùng miền đất
nước... Từ Lạng Sơn đến Cà Mau, từ những miền đất xa xôi hẻo lánh đến
những thành phố đông đúc hay vùng châu thổ sông Hồng, mảnh đất nào cũng
từng in dấu chân Hoàng Phủ Ngọc Tường và hiện hình sống động trong từng
trang kí của nhà văn.
Phần lớn kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc dạng kí – văn hóa. Ở
dạng này, yếu tố văn hóa – lịch sử đậm đặc. Bằng thể kí nhà văn đã chuyển tải
được nhiều vấn đề thuộc về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của nhiều vùng quê


hương đất nước.
Kí viết về Huế chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Huế trở thành một phần trong đời sống tinh thần của nhà
văn. Những mẩu kí viết về Huế thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của Hoàng
Phủ Ngọc Tường với mảnh đất giàu trầm tích văn hóa.
Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn tự nhận mình là “người ham chơi” vì
theo ông “ham chơi là gốc văn hóa của người Việt”. Cũng chính bởi quan
niệm này mà ông đã đem đến cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm hay
và đặc biệt hấp dẫn. Ông khá thành công ở thể loại kí mặc dù kí không phải là
thể loại đầu tiên tác giả viết khi mới vào nghề mà thể loại truyện ngắn và tiểu

thuyết mới là thể loại đầu tay của tác giả. Năm 1959, truyện ngắn Chuyện một
người đi qua sa mạc và tiểu thuyết Cửa rừng ra đời sau đó ít năm đã báo hiệu
sự có mặt của Hoàng Phủ Ngọc Tường trên văn đàn nhưng không mấy thành
công.
Phải đến năm 1971 với sự ra đời của bút kí Những ngôi sao trên đỉnh
Phu Văn Lâu thì tên tuổi của ông mới có nhiều người biết tới và tác phẩm đã
được nhà văn coi là tác phẩm “khai sinh” cho sự nghiệp viết văn của mình.
Nhà văn từng tâm sự “Bước ra khỏi cuộc chiến tranh tôi nghiệm ra một điều
là tôi cần phải nói về những gì tôi đã trải nghiệm. Tiểu thuyết và truyện ngắn
có vẻ như không giúp được tôi làm điều này. Thế là tôi chọn kí, thể loại loại
gần nhất với hiện thực đời sống. Với thể kí tôi có thể nói tùy thích những gì
đang diễn ra trong tâm hồn tôi, những trải nghiệm đẹp và cả những đau khổ
nữa”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kí làm phương tiện để bộc lộ tài năng
cũng như những trải lòng của mình. Là một người con của Huế và giường như
ông dành trọn tình yêu của mình với Huế vậy. Bên cạnh tình yêu Huế là tình
yêu lớn hơn ông dành cho đất nước Việt Nam xinh đẹp này, ta có thể bắt gặp
mọi miền của Tổ quốc trong những trang viết chan chứa tình yêu quê hương,


đất nước và con người của tác giả.
1.2.3. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Sông Hương đã trở thành đối tượng thẩm mĩ của thơ ca nhạc họa,
nhưng dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông thi ca này lại
được soi chiếu từ nhiều phía. Đến với Ai đã đặt tên cho dòng sông? người đọc
có dịp hiểu rõ thêm về cội nguồn sông Hương, thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và
con người Huế.
Nội dung kí viết về sông Hương, nhưng ý nghĩa của nó không dừng lại
ở một dòng sông, mà sâu rộng hơn là lịch sử - văn hóa một vùng cố đô. Đã có
những dòng sông quê hương thành thơ, thành nhạc, nhưng ít có dòng sông
nào mang chứa trong mạch ngầm của nó những lớp trầm tích văn hóa như

sông Hương.
Ngay từ đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định: “Trong những
dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông
Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nét độc đáo của sông Hương và
sự am tường của nhà văn đã bộc lộ rõ ở lời khẳng định này. Đúng vậy, hiếm
có dòng sông lớn nước láng giềng và nối dài đến biển khơi. Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng của thế giới,
nơi gót chân phiêu lãng của ông đã đi qua. Từ đó nhà văn đã phóng chiếu cái
nhìn đầy cảm xúc để cảm nhận và miêu tả dòng sông từ nhiều góc nhìn.
Hành trình của dòng sông qua cách miêu tả tài hoa, độc đáo của nhà
văn: Với câu hỏi gợi tìm Ai đã đặt tên cho dòng sông?, bằng những bước
chân rong ruổi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn và dòng chảy
của sông Hương. Cứ ngỡ sông Hương hiền hòa chảy giữa lòng kinh thành
Huế, nhưng không, sông Hương đã vượt qua một cuộc hành trình với sự
chuyển dòng liên tục.
Sông Hương với thiên nhiên Huế: Nhìn từ góc nhìn địa lí, nếu tách


riêng sông Hương ra khỏi thành phố Huế, dòng sông chỉ còn là dòng nước vô
chi chảy giữa đôi bờ. Bằng sự hiểu biết tường tận vùng đất kinh kì cũ, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã làm cuộc hành trình ngược về cội nguồn của dòng sông
và gắn kết nó với thiên nhiên, cảnh sắc Huế. Lần theo dòng chảy của sông
Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà.
Sông Hương và con người Huế: Thiên nhiên và dòng sông Hương gắn
bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy đươc
tính cách con người xứ Huế: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê
hương xứ sở”. Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương
nhà văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái xứ Huế ngày
xưa – “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương
giáng”.

Vẻ đẹp của sông Hương từ nhiều góc nhìn: Ở góc nhìn lịch sử, sông
Hương không còn là cô gái “Di – gan man dại”, không còn là “người đẹp nằm
ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa”, mà trở thành nhân chứng của
những biến thiên lịch sử. Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh
niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng đã
từng giữ những nhiệm vụ lịch sử quang vinh. Sông Hương từ góc nhìn văn
hóa trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong bản
thân nó nền văn hóa phi vật chất.
Trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể
hiện cái tôi say mê kiếm tìm cái đẹp và luôn gắn bó với thiên nhiên, cái tôi
yêu quê hương đất nước và luôn hướng về cội nguồn và một cái tôi uyên bác,
tài hoa. Phải đi nhiều, phải quan sát kĩ, và phải gắn bó với thiên nhiên Hoàng
Phủ Ngọc Tường mới thể hiện hết mình sự tài hoa và tấm lòng yêu quê hương
nồng cháy qua hình ảnh dòng sông Hương chảy giữa vùng đất cố đô.
Bút kí Ai đã dặt tên cho dòng sông? bộc lộ một khả năng quan sát tinh
tường, một trí tưởng tượng phong phú. Sông Hương tự nó đẹp với sắc thái đa


dạng, nhưng bằng sự mẫn cảm của một trái tim thi sĩ, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã quan sát và miêu tả những biến thái của thiên nhiên tinh tế. Kết hợp
giữa biện pháp nhân hóa với những liên tưởng bất ngờ giúp nhà văn thổi hồn
vào dòng sông, biến sông Hương thành một sinh thể có tính cách, có nỗi
niềm. Dòng sông Hương chảy tràn trên những trang kí của Hoàng Phủ Ngọc
Tường với nhiều dáng vẻ, biến hóa linh hoạt.
Qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, ta nhận thấy một ngòi bút kí giàu
chất thơ nó được toát ra từ thiên nhiên cảnh vật, từ tâm hồn con người và từ
những huyền thoại mà nhà văn sử dụng đúng chỗ. Chất trí tuệ và chất thơ kết
hợp hài hòa trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên phong cách
đặc sắc của nhà văn. Tác phẩm thu hút người đọc ở hai yếu tố này.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? có nhiều sự phát hiện về lịch sử và văn

hóa xứ Huế. Huế từ rất lâu đã chiếm chỗ sâu bền trong tâm hồn người Việt, là
nỗi ước mong của trí thức bao đời... Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? là
một bài thơ bằng văn xuôi về “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, một
người mẹ không thể hiểu được chỉ bằng một cái nhìn bề ngoài hời hợt. Hành
trình của sông Hương từ thượng nguồn ra biển là hành trình của tâm hồn xứ
Huế, bộc lộ mọi cung bậc của nó, vừa mãnh liệt vừa lắng sâu, vừa trữ tình vừa
thiết tha, vừa bình thản trí tuệ.
Với bút kí để đời dành cho sông Hương: Ai đã đặt tên cho dòng
sông?... nhiều bạn văn của anh vẫn bảo: Sẽ khó có ai viết được nữa bởi anh đã
khai thác đến tận cùng nguồn ngọn, chi li từng cọng rêu, giọt nước mà thâm
hậu và trải nghiệm đến tận cùng.


CHƯƠNG 2
DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
2.1. Địa - văn hóa Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Nói về văn hóa, không thể không quan tâm đến khía cạnh địa – văn
hóa, trong đó, con người và thiên nhiên, văn hóa và địa lý tương tác qua lại
với nhau, tạo nên những tính cách, ứng xử văn hóa khác nhau ...
Nói về địa – văn hóa, là nhằm bàn đến những điểm đại đồng và tiểu dị
được/ bị chi phối bởi những yếu tố địa lý, làm nên tính nhất quán và phong
phú của văn hóa. Phủ định tính vùng miền trong văn hóa là phủ định tính
phong phú, miệt thị tính vùng miền là gây chia rẽ... Có ý kiến cho rằngTrong
so sánh về tính vùng miền, có ý kiến cho rằng nên dùng phép “so sánh hơn”
đầy vi tế, chứ không nên dùng phép “so sánh nhất” mang tính cực đoan.
Những tính cách chung của cả nhân loại, hay của một dân tộc, sẽ trội lên hay
chìm xuống tùy theo hoàn cảnh địa lý. Một tính cách có ở vùng miền này, hay
ở dân tộc này, chắc chắn sẽ có ở vùng miền khác, hay ở dân tộc khác, chỉ là
trội hay chìm mà thôi... Phân tích về tính vùng miền, là để so sánh, gạn lọc

những cái tốt thì giữ lại, phát huy, những cái xấu thì bỏ đi, hạn chế ..., nhằm
khiến cho cả nhân loại, hay một dân tộc, ngày càng tốt hơn, văn minh hơn... !
Nói chung, nơi nào có thiên nhiên khắc nghiệt, khí hậu thất thường, địa
thế hùng hiểm, sông sâu nước xiết, lắm thác nhiều ghềnh, núi non đột khởi,
chớn chở chập chùng... thì con người thường có tính cách sâu sắc, quyết liệt,
cương mãnh..., thậm chí bạo liệt, cực đoan...; nơi nào có thiên nhiên ưu đãi,
khí hậu thuận hòa, địa thế mềm mại, sông lặng núi bình, đồng bằng trải rộng...
thì con người thường có tính cách khoáng đạt, nhu nhuyễn, hiền hòa..., thậm
chí dễ dãi, hời hợt…
Trung Bộ chỉ có người xứ Huế có lối sống khá kiểu cách, do là đất


"Thần Kinh", "Đế Đô", còn đa phần vẫn do khí hậu nắng hạn mưa lụt, canh
tác khó khăn nên cũng có tính cách cần kiệm, lại do thời kỳ gian lao mở cõi
nên tình tương thân tương ái cũng khá đậm đà, nhưng cũng rất bảo thủ ...
Trong tình cảm của nhiều người, nói đến Huế là nghĩ ngay đến sông
Hương. Sông Hương đã trở thành biểu tượng của Huế, là linh hồn của Huế
trầm mặc, cao sang, trữ tình.
Sông Hương có hai nguồn chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn.
Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn
Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc với 55
thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu
Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về phía bắc khu vực lăng Minh
Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua
14 thác và vượt qua Phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp
nhau và tạo nên sông Hương.
Từ Bằng Lãng đến cửa sông Hương, sông Hương dài 33 km và chảy rất
chậm. Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trâm, sắc nước sông Hương xanh
hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén, tại đây có một vực rất sâu.
Sông Hương được cho là rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi

nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật
nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt
Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh. Sông Hương
ngoài vẻ đẹp tự nhiên được tô điểm bằng các công trình kiến trúc hai bên bờ
sông gồm thành quách, thị tứ, vườn tược, chùa chiền, tháp và đền đài... khiến
con sông mang theo nhiều chất thơ và tính nhạc. Chẳng biết từ bao giờ, sông
Hương đã đi vào thơ ca, nhạc, họa, là nguồn cảm hứng sáng tác cho bao thế
hệ văn nghệ sĩ.
Với câu hỏi gợi tìm Ai đã đặt tên cho dòng sông?, bằng những bước


×