Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí tuổi thơ im lặng của duy khán (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.33 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

TRẦN THỊ OANH

HOÀI NIỆM TUỔI THƠ
TRONG HỒI KÍ TUỔI THƠ IM LẶNG
CỦA DUY KHÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cô giáo
khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Minh - người trực tiếp hướng
dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thiện Khóa luận của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong quý thầy cô và bạn đọc góp ý để Khóa luận của tôi được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên


Trần Thị Oanh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Kết quả trong đề tài này là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào.
Những tài liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác
giả thu thập từ những nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kì sự sai lệch nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Trần Thị Oanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 6
6. Bố cục của Khóa luận................................................................................ 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ................................................................ 7
1.1. Một số vấn đề lý thuyết về thể loại hồi kí .............................................. 7
1.1.1. Khái niệm hồi kí............................................................................... 7
1.1.2. Đặc trưng của thể loại hồi kí........................................................... 8
1.1.3. Phân biệt hồi kí với các tiểu loại khác của kí................................ 10

1.2. Thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đương đại ............. 13
1.3. Tác giả Duy Khán và hồi kí Tuổi thơ im lặng...................................... 15
1.3.1. Nhà văn Duy Khán......................................................................... 15
1.3.2. Hồi kí Tuổi thơ im lặng.................................................................. 17
TIỂU KẾT ....................................................................................................... 19
Chương 2. SỰ THỂ HIỆN HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG TUỔI THƠ
IM LẶNG CỦA DUY KHÁN ......................................................................... 20
2.1. Kí ức về gia đình .................................................................................. 20
2.2. Kí ức về cảnh sắc thiên nhiên làng quê ................................................ 24
2.3. Kí ức về phong tục của một làng quê giàu bản sắc văn hóa ................ 26
2.4. Kí ức về những năm tháng nhọc nhằn của đất nước ............................ 29


TIỂU KẾT ....................................................................................................... 33
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HOÀI
NIỆM TUỔI THƠ TRONG TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN........ 36
3.1. Nghệ thuật kể chuyện ........................................................................... 36
3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 38
3.3. Giọng điệu ............................................................................................ 40
TIỂU KẾT ....................................................................................................... 43
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ai trong cuộc đời này cũng có một tuổi thơ. Đó là cái nôi hình thành và
nuôi dưỡng tâm hồn lẫn nhân cách của mỗi người. Tuổi thơ cho ta biết bao kỉ
niệm đẹp, nâng đỡ tâm hồn ta mỗi khi mệt nhoài bởi cuộc sống hiện tại. Tuy
nhiên, không phải tuổi thơ nào cũng là “thần tiên”. Với những tuổi thơ không

may mắn, con người chỉ muốn trốn tránh và lãng quên. Song khi nói tới tuổi
thơ, nó vẫn là thời gian được hầu hết mọi người tìm về trong nỗi nhớ để khắc
ghi và trân trọng. Trong sáng tác văn học, nhiều nhà văn, nhà thơ cũng hướng
ngòi bút về đề tài này. Họ tìm kiếm trong tâm trí mình những kí ức về một
tuổi thơ đã qua và làm nó sống dậy trên từng trang sách. Từ những kỉ niệm
tuổi thơ, con người biết trân trọng quá khứ và có ý thức sống tốt hơn.
Văn học thế giới và văn học Việt Nam đều có những tác phẩm viết về đề
tài tuổi thơ. Văn học Việt Nam sau 1975 có những thuận lợi của tình hình lịch
sử - xã hội nên đổi mới toàn diện từ nội dung đến nghệ thuật, từ đề tài đến thể
loại. Các đề tài mang cảm hứng thế sự được quay trở lại với đúng quỹ đạo của
nó, trong đó đề tài tuổi thơ cũng được nhiều người viết hướng đến. Họ viết về
tuổi thơ qua các bài thơ, những truyện ngắn hay những thể loại như hồi kí, tự
truyện… Qua những tác phẩm viết về tuổi thơ, người đọc có thể cảm nhận
phần nào hiện thực xã hội trong những năm tháng gắn liền với tuổi thơ người
viết. Và quan trọng hơn, qua tác phẩm của mình, người viết muốn gửi tới bạn
đọc những thông điệp, suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời và con người. Với ý
nghĩa như vậy, việc tìm đọc và nghiên cứu các sáng tác về đề tài tuổi thơ cũng
rất cần thiết và bổ ích với người đọc.
Duy Khán là một trong những nhà văn thành công ở đề tài tuổi thơ với
hồi kí Tuổi thơ im lặng được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn năm 1987.
Tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ từng đốt cháy tấm lòng nhà văn, Tuổi thơ im

1


lặng chính là tâm huyết của Duy Khán, là món quà ông dành tặng quê hương,
tặng các con, các bạn nhỏ, và đặc biệt là tặng những ai đã từng nghèo khó.
Với ý nghĩa đó, hồi kí Tuổi thơ im lặng là tác phẩm người đọc không thể bỏ
qua khi nghiên cứu các sáng tác về đề tài tuổi thơ trong văn học sau 1975.
Hiện nay, xu thế mở cửa và hội nhập giữa các quốc gia ngày càng được

đẩy mạnh. Nó thúc đẩy xã hội phát triển mọi mặt, mức sống của con người
nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đời sống vật chất, xu
thế mở cửa và hội nhập cũng đem lại nhiều mặt trái. Trong đó, vấn đề nổi
cộm là sự xuống dốc của những giá trị tinh thần và truyền thống văn hóa lâu
đời. Con người sống trong xã hội ngày càng tiện nghi nhưng đạo đức lại suy
thoái. Không phải nguyên nhân duy nhất, nhưng toàn cầu hóa là yếu tố quan
trọng dẫn tới hệ quả này. Một trong những đạo lí cần được giữ gìn và phát
huy là tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, ghi nhớ những đóng góp và hi sinh
của thế hệ đi trước đối với sự phát triển của dân tộc. Góp phần phát huy
những truyền thống tốt đẹp đó, việc thông qua các tác phẩm văn chương để
giáo dục đạo đức, giúp con người thấu hiểu quá khứ, từ đó trân trọng hiện tại
và có ý thức sống tốt hơn là điều rất cần thiết. Hồi kí Tuổi thơ im lặng là một
trong nhiều tác phẩm văn học cung cấp những tư liệu xác thực về một thời kì
đã qua trong lịch sử. Tìm hiểu những tác phẩm như vậy là rất cần thiết và bổ
ích với người đọc.
Từ những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Hoài niệm
tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán làm đề tài của Khóa
luận, với mong muốn đóng góp công sức nhỏ bé vào sự phát triển của hoạt
động nghiên cứu khoa học hiện nay, đồng thời qua đó góp phần gìn giữ những
giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Hồi kí Tuổi thơ im lặng xuất bản năm 1986 là tác phẩm quan trọng trong
sự nghiệp sáng tác của Duy Khán, đánh dấu sự chuyển hướng của nhà văn từ


một người làm thơ chuyển sang sáng tác văn xuôi, từ một người dễ dãi chạy
theo các đề tài thời sự trở lại tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ nằm sâu trong
tâm trí. Năm 1987, tác phẩm này được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn.
Với thành công đó, Tuổi thơ im lặng đã nhận được sự quan tâm chú ý của giới
nghiên cứu.

Nhận xét về Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, nhà văn Nguyễn Khải cho
rằng: “Cái tài để trở thành con trẻ, giữ nguyên được cặp mắt trong veo của
ba đứa trẻ không bị biến dạng, bị gãy khúc, bị vẩn đục bởi bao nhiêu tháng
năm chồng chất thì không ai dám ganh với Duy Khán” [8, tr.7].
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong tiểu luận Kỷ niệm về một tầng văn
hóa làng quê nhận xét: “Tuổi thơ im lặng là những mẩu chuyện nhỏ về làng
quê. Những mẩu chuyện, đúng hơn là những mẩu hồi tưởng của tuổi thơ. Ở
đây tưởng chừng vặt vãnh, rời rạc, chẳng có cốt truyện gì, và khó còn có gì
bình thường hơn thế được nhưng đã làm sống dậy thế giới làng quê vô cùng
thân thiết. Không chỉ riêng làng quê của riêng tác giả, mà còn là làng quê
Việt Nam lâu đời. Đặc sắc của tập truyện không chỉ là tình yêu thiên nhiên
nồng nàn, ở chất thơ thấm đượm trong chữ, trong lời, mà chủ yếu tái hiện lại
cái môi trường văn hóa làng quê đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ bé Việt Nam từ
nghìn xưa… T ổi thơ im lặng là đóng góp đáng kể vào tủ sách viết cho tuổi
thơ” [17, tr.674].
Tác giả Bùi Công Minh cho rằng: “Với T ổi thơ im lặng của Duy Khán,
tôi chắc khó ngăn được nhiều độc giả thiên vị với anh, không nỡ chê trách
anh ở chỗ này, chỗ nọ vì anh yêu quê hương say đắm quá, cái tình anh đối với
quê hương mặn nồng nhân hậu quá. Tình yêu ấy có lúc làm cho anh cường
điệu đôi chút, cái gì cũng độc đáo, cũng “khổng lồ”. Nhưng không sao, người
ta thấy yêu quê hương anh hơn và từ đó càng thêm yêu quê mình, cố nghĩ ra
cách để nói về quê hương mình như thế” [14, tr.15].


Nhà văn Triệu Bôn nhận xét: “Không những Duy Khán kêu gọi được
lòng trắc ẩn cho đồng loại, kêu gọi con người hãy trân trọng hơn nữa với quá
khứ của mình, hãy độ lượng, thương yêu những người xung quanh mình, mà
còn khắc họa được khá nhiều về một xã hội đen tối trước Cách mạng Tháng
Tám và những bạn đọc nhỏ tuổi, cả với những người có ý định cầm bút viết
văn mà ít từng trải sự đời, còn có thể xem đây là một mảng tư liệu, một mảng

kiến thức về nông thôn ta cách đây hơn bốn mươi năm, khá bổ ích” [2, tr.11].
Tác giả Trần Bảo Hưng viết về Tuổi thơ im lặng như sau: “Với những
tình cảm chân thành và một lối văn giàu chất tạo hình, những trang viết của
Duy Khán đã tạo nên được sự đồng cảm, đồng điệu trong tâm hồn người đọc.
Nỗi buồn trong văn anh thực thấm thía và niềm vui cũng không phải dễ
dãi…” [6, tr.9].
Hội Nhà văn Việt Nam nhận xét: “Duy Khán đã dùng một lối văn chắt
chiu, ngắn gọn, độc đáo (…). Đọc văn Duy Khán, ta như được xối những gầu
nước của những cái giếng khơi, càng xối càng thấy mát, mát từ ngoài da vào
tận trong người theo dòng cảm xúc, ở nhiều chỗ, Duy Khán cũng tìm ra được
cách diễn đạt gợi cảm, đúng và thích hợp với tâm lý tuổi thơ” [1, tr.24].
Trong Giáo trình Văn học trẻ em, Lã Thị Bắc Lý khi nói về quá trình
hình thành và phát triển của văn học trẻ em Việt Nam từ 1986 đến nay đã
đánh giá khái quát: “Khi chiến tranh đã đi qua, được sống với riêng mình, ý
thức về “cái tôi” thức dậy, con người ta bỗng có cảm hứng tìm lại mình. Đó
cũng là lúc Đảng kêu gọi đổi mới tư duy. Từ chỗ lấy điểm nhìn của xã hội làm
hệ quy chiếu, văn học chuyển sang cái nhìn đời tư, thế sự, lấy số phận con
người để đánh giá hiện thực, và nhìn nhận lại quá khứ” [13, tr.15]. Chính trên
cơ sở đó, tác phẩm Tuổi thơ im lặng ra đời.
Khóa luận tốt nghiệp của Trương Thanh Huyền (2012, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2) đã đi sâu nghiên cứu: Hiệ q ả nghệ th ật phương thức


hoán dụ trong hồi kí T ổi thơ im lặng của nhà văn D y Khán. Khóa luận
tốt nghiệp của Chu Thị Thắm (2016, Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2) lại
đi sâu tìm hiểu: Hình tượng con người và làng q ê trong tác phẩm T ổi thơ
im lặng của D y Khán.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về hồi kí Tuổi thơ im lặng chủ
yếu là những đánh giá, nhận định chung mang tính khái quát, gợi mở cho việc
đi sâu tìm hiểu tác phẩm. Một vài khóa luận đại học đi sâu tìm hiểu một số

khía cạnh trong nội dung hoặc nghệ thuật của hồi kí. Vì vậy, tiếp thu gợi ý của
những công trình đi trước, trong khóa luận này, chúng tôi triển khai đề tài
Hoài niệm t ổi thơ trong hồi kí T ổi thơ im lặng của D y Khán. Khóa luận
mong muốn tiếp tục lí giải về thể loại hồi kí và những đóng góp của nhà văn
Duy Khán đối với thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là hồi kí Tuổi thơ im lặng do nhà
xuất bản Kim Đồng ấn hành.
-Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung làm rõ hoài niệm tuổi thơ
trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của nhà văn Duy Khán ở các phương diện:
+ Kí ức về gia đình
+ Kí ức về cảnh sắc thiên nhiên làng quê
+ Kí ức về phong tục của một làng quê giàu bản sắc văn hóa
+ Kí ức về những năm tháng nhọc nhằn của đất nước
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Khóa luận là tập trung nghiên cứu về hoài niệm tuổi thơ
của nhà văn Duy Khán trong hồi ki Tuổi thơ im lặng. Từ đó, nhận diện về đặc
trưng của thể loại hồi kí. Đồng thời, Khóa luận tiếp tục khẳng định đóng góp
của Duy Khán đối với thể loại hồi kí trên văn đàn Việt Nam đương đại.


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của Khóa luận bao gồm:
- Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết của thể loại hồi kí: khái niệm, đặc
trưng cơ bản, phân biệt hồi kí với các tiểu loại khác của thể kí.
- Lí giải kí ức của nhà văn Duy Khán về gia đình, quê hương, đất nước
trong những năm tháng tuổi thơ. Từ đó, thấy được tình cảm sâu nặng mà nhà
văn dành cho con người và quê hương của mình.
5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp liên ngành
6. Bố cục của Khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của Khóa
luận gồm 3 chương:
Chương 1. Giới thuyết chung
Chương 2. Sự thể hiện hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng
của Duy Khán
Chương 3. Một số phương diện nghệ thuật thể hiện hoài niệm tuổi thơ
trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán


NỘI DUNG
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Một số vấn đề lý thuyết về thể loại hồi kí
1.1.1. Khái niệm hồi kí
Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí - loại hình văn học trung gian
nằm giữa báo chí và văn học. Hồi kí ra đời rất sớm, từ thời cổ Hi Lạp. Hồi ức
của Kxê-nô-phôn và Xô-cơ-rát và những ghi chép của ông về các cuộc hành
quân của người Hi Lạp (thế kỉ V TCN) thường được coi là những tác phẩm
hồi kí cổ xưa nhất.
Giải thích khái niệm hồi kí, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã căn cứ
vào nhiều góc độ khác nhau. Có tác giả dựa vào nội hàm nghĩa của từ “hồi kí”
để nêu khái niệm, có người dựa vào đặc trưng thể loại, hoặc dựa vào cách kể
chuyện của thể loại này để nêu ra khái niệm. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu
khá thống nhất ở điểm cơ bản: hồi kí là tái hiện quá khứ gắn với người thật,
việc thật, tác giả chính là người trong cuộc hoặc chứng kiến...
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê): “Hồi kí là thể văn ghi lại những
điều còn nhớ sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc” [16, tr.591].

Từ điển văn học (bộ mới) quan niệm: “Hồi kí là sáng tác thuộc nhóm
thể tài kí, là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực
xảy ra trong quá khứ mà tác giả chứng kiến” [3, tr.646 - 647].
Các tác giả cuốn Lí luận văn học (nhà xuất bản Đại học Sư phạm) cho
rằng: “Hồi kí là thể loại ghi chép các sự kiện quá khứ đã trải qua do đương sự
thực hiện, cũng là một hình thức văn học riêng tư, mình nói về mình, một
dạng tự truyện của tác giả” [18, tr.379 - 380].
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: hồi kí là “một thể loại thuộc loại
hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người
tham dự hoặc chứng kiến [4, tr.152].


Như vậy, những quan niệm trên về cơ bản đều dựa theo hình thức chiết
tự từ Hán Việt: hồi là quay trở lại, kí là ghi chép những điều chứng kiến. Đây
là cách lý giải ngắn gọn, dễ hiểu cho số đông người đọc.
Để thuận lợi cho nghiên cứu, trong Khóa luận này, chúng tôi thống nhất
theo quan niệm về hồi kí của Từ điển thuật ngữ văn học: hồi kí là “một thể
loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác
giả là người tham dự hoặc chứng kiến” [4, tr.152].
1.1.2. Đặc trưng của thể loại hồi kí
Hồi kí ghi chép sự việc diễn ra trong quá khứ nên một trong những đặc
trưng cơ bản nhất là tính xác thực của đối tượng miêu tả và tính trung thực
của người hồi tưởng. Chính yêu cầu cao về tính xác thực trong hồi kí nên
người viết hồi kí hay người trần thuật phải là người trong cuộc, kể lại những
việc đã xảy ra trong quá khứ mà bản thân đã tham dự hoặc chứng kiến, thậm
chí lấy chất liệu từ chính cuộc đời mình. Tác giả là người tham dự hoặc chứng
kiến nên xét về bản chất, thông tin trong hồi kí đều mang tính xác thực cao,
rất ít yếu tố hư cấu. Ở phương diện này, hồi kí hấp dẫn người đọc bởi những
tư liệu có giá trị về bản thân người viết, về không khí thời đại, các sự kiện lịch
sử trong quá khứ mà cuốn hồi kí đó dựng lên. Bởi vậy, viết hồi kí không phải

là sự lựa chọn của số đông nhà văn, viết hồi kí là sự “đấu tranh để viết ra”, là
“một cuộc mổ xẻ toàn diện” mà người viết phải thật sự dũng cảm.
Hồi kí mang tính chủ quan của người kể chuyện quá khứ. Vì sự thật xảy
ra đã có độ lùi vào quá khứ, cho nên người chứng kiến hoặc tham dự không
thể nhớ lại tường tận, không thể bao quát hết mọi diễn biến sự việc, nhất là sự
việc đã xảy ra quá lâu. Đồng thời, bản thân người viết hồi kí luôn được trình
bày mô tả ở bình diện thứ nhất. Vì thế, hồi kí thường khó tránh khỏi tính chủ
quan của người viết. Có nghĩa là, trong hồi kí cũng có yếu tố hư cấu. Tuy
nhiên, hư cấu ở đây được hiểu với nghĩa là nhà văn có thể sử dụng những


hình thức không xác định. Nghĩa là không phải bịa đặt hay thêm thắt vô căn
cứ mà là cả một quá trình lựa chọn, sắp xếp và tổ chức các tư liệu, chi tiết dữ
kiện, với mục đích trình bày hiện thực một cách chân thực, đúng với bản chất
của nó. Hơn nữa, tính chủ quan của hồi kí còn do sự nhìn nhận, đánh giá của
người viết. Hiện thực phản ánh trong hồi kí là hiện thực được lựa chọn, và
gây ấn tượng sâu sắc với người kể nên nó luôn ám ảnh, buộc phải viết ra, phải
giải tỏa. Hiện thực ấy được tái hiện với một trạng thái cảm xúc riêng, được
nhìn nhận, đánh giá lại bằng nhận thức chủ quan và bằng kinh nghiệm sống
của người viết. Do vậy, người viết hồi kí khi tái hiện hiện thực không giữ thái
độ khách quan như các sử gia. Hiện thực trong hồi kí cũng không thể so với
các tư liệu gốc, các chứng tích mang tính lịch sử mà nó chỉ là một phần cơ sở
để xác minh hiện thực trên phương diện lịch sử. Điều quan trọng nhất, thông
qua các sự kiện, các chi tiết liên quan đến tiểu sử, cũng như qua cách đánh
giá, nhìn nhận, thái độ tình cảm trước những gì được kể đến, tác giả hồi kí
gián tiếp bộc lộ mình trong tính khuôn khổ của sự thật lịch sử, qua đó làm
tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Xét ở phương diện nghệ thuật, một trong những đặc trưng nổi bật nhất
của thể hồi kí là cách kể chuyện theo dòng hồi tưởng, nhớ đến đâu kể đến đó
và thường không sử dụng thủ pháp cốt truyện. Tác giả có thể hồi tưởng lại

quá khứ theo trật tự thời gian tuyến tính, từ quá khứ xa đến quá khứ gần. Tuy
nhiên, trong tác phẩm hồi kí, dòng hồi ức cũng có thể bị đảo lộn không theo
một quy luật khách quan mà chịu sự tác động của ý thức - tác giả. Có nghĩa
là, sự phản ánh hiện thực trong hồi kí được tuân theo quy luật riêng của dòng
hồi tưởng. Quy luật dòng hồi tưởng này còn gọi là “dòng ý thức”. Nhìn từ đặc
trưng thể loại, “dòng ý thức” là một thuật ngữ chỉ một xu hướng tiểu thuyết
khởi điểm từ đầu thế kỉ XX ở phương Tây, có khả năng tái hiện trực tiếp đời
sống nội tâm, xúc cảm và liên tưởng ở con người. Ở Việt Nam, sau 1986, kỹ


thuật dòng ý thức trở nên phổ biến ở nhiều thể loại. Riêng với hồi kí, thủ pháp
này không được sử dụng như một kỹ thuật mà là cơ chế tự nhiên của dòng hồi
tưởng, xuất phát từ cách kể tự thân, vốn có của hồi kí. Trong quá trình vận
động, phát triển của hồi kí, các tác giả đã ý thức phát huy cơ chế này, góp
phần tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc trong nghệ thuật trần thuật của
tác phẩm hồi kí.
1.1.3. Phân biệt hồi kí với các tiể loại khác của kí
Về hồi kí và nhật kí, theo nhóm tác giả Từ điển thuật ngữ văn học: “xét
về phương diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện được ghi lại về tính chính
xác của sự kiện, về góc độ và phương thức diễn đạt, hồi kí có nhiều chỗ gần
với nhật kí” [4, tr152]. Từ điển Văn học (bộ mới) quan niệm: “Hồi kí gần nhật
kí ở hình thức giãi bày, ở chỗ không dùng thủ pháp cốt truyện, ở cách kể
thường theo thứ tự thời gian, ở việc chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử”
[3, tr.646-647].
Có thể khẳng định rằng, giữa hai thể tài này có đường biên gần nhau ở
hình thức giãi bày, ở việc không dùng các thủ pháp cốt truyện và đều chú ý
đến các sự kiện mang tính tiểu sử. Song, nhật kí là dạng trần thuật từ ngôi thứ
nhất số ít dưới hình thức những ghi chép sự kiện đang diễn ra hàng ngày, có
đánh số ngày tháng, không hư cấu; ghi lại các sự kiện đời tư đồng thời bộc lộ
những cảm xúc, suy tư của bản thân chứ không chủ đích viết cho công chúng;

trong khi hồi kí có thể bao gồm sự tái cấu trúc, sắp xếp sự kiện rời rạc không
liền mạch trong trí nhớ của tác giả, và có thể có hư cấu. Hồi kí và nhật kí đều
là những chuyện đời tư, nhưng hồi kí được viết theo chiều nghịch của thời
gian, hướng về dĩ vãng với cảm hứng hồi cố, còn nhật kí được viết theo chiều
thuận, ghi lại những sự kiện và cảm xúc hàng ngày. Hồi kí có tính tổng kết và
lý giải còn nhật kí có tính thời sự và thường dang dở, ít khái quát, bởi thời
gian sống và viết gần như đồng thời. Nếu hồi kí viết ra nhằm giãi bày, thú


nhận với người khác, thiên về hướng ngoại thì nhật kí là lối viết thầm kín cho
riêng mình, có tính riêng tư và hướng nội.
Về hồi kí và tự truyện, nội hàm hai khái niệm này rất gần nhau nhưng
không hoàn toàn trùng khít. Từ điển Văn học (bộ mới) phân biệt: “Hồi kí có
thể chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kì lịch sử, mà tác giả không phải là
nhân vật chính; còn tự truyện kể chuyện của cái “tôi” tác giả. Tự truyện
không phải một tập hợp những kỉ niệm tản mạn, mà được bố trí như một
truyện, một tiểu thuyết” [3, tr.1906]. Như vậy, hồi kí và tự truyện đều đề cập
đến những gì thuộc về quá khứ. Cơ chế của người viết hồi kí và tự truyện đều
hướng về dĩ vãng, đều có cảm hứng tổng kết và lý giải, đều được viết ra cho
người khác đọc để bộc bạch cái tôi, chia sẻ kinh nghiệm cá nhân. Xét về bản
chất, tự truyện mang đặc trưng của truyện, giàu tính miêu tả, chú ý đến nghệ
thuật kể, còn hồi kí mang đặc trưng của kí, nặng về tính sự kiện, tính xác
thực. Tự truyện xuất phát từ nhu cầu lý giải bản thân nhiều hơn, từ nhu cầu đó
để tập trung vào quá trình hình thành nhân cách và lịch sử thế giới nội tâm
của mình trong sự tương tác với thế giới bên ngoài, còn hồi kí chỉ xuất hiện
khi người ta có cảm hứng hồi cố, có nhu cầu trục vớt quá khứ khi nó đòi được
hiện diện trong hiện tại, thỏa mãn mong muốn xét lại lịch sử. Do vậy, tự
truyện có cái tôi hiện tại, hồi kí không có cái tôi hiện tại và thông thường hồi
kí cần có độ lùi thời gian hơn, đủ cho kí ức sống lại, đong đầy một niềm tiếc
nuối, hiện thực bị khuất lấp được trình ra.

Về hồi kí và các dạng thức tự thuật. Tiểu thuyết tự thuật là dạng tiểu
thuyết sử dụng những “câu chuyện cuộc đời” có thật để làm chất liệu sáng tạo
nghệ thuật. Trong tiểu thuyết tự thuật, người kể chuyện xưng “tôi” đồng nhất
với tác giả, kể chuyện về đời mình, kể cả chuyện riêng tư, trong đó có cả sự
hư cấu về những câu chuyện liên quan đến đời mình. Như vậy, đường biên
giữa tiểu thuyết tự thuật với hồi kí thật nhạt nhòa. Hồi ức và sáng tạo, sự thật


và hư cấu, cái riêng và cái chung luôn có nguy cơ lẫn vào nhau, thâm nhập
vào nhau ở hai thể loại này. Tuy nhiên, dựa vào những nét khu biệt, ta vẫn
nhận ra ranh giới giữa tiểu thuyết tự thuật và hồi kí. Tiểu thuyết tự thuật tuy
dựng lại cuộc đời của người đó, trong thời đại đó nhưng đã hư cấu hóa, còn
hồi kí là dựng lại gương mặt quá khứ trong đó có cuộc đời của mình với
những chi tiết tiểu sử, đời tư không có sự hư cấu. Bản chất sự thật trong tiểu
thuyết tự thuật ở đây là cái giống, có khi là “phiên bản” của sự thật, tác giả là
người không chịu trách nhiệm về điều đó. Còn hồi kí, nếu có hư cấu thì đó
cũng chỉ là cách để chuyển tải sinh động cái sự thật. Xuất phát điểm của hồi
kí không phải sáng tạo nghệ thuật mà cốt để nhớ lại, viết lại quá khứ và cuộc
đời của tác giả, còn tiểu thuyết tự thuật là sự sáng tạo của nhà văn.
Ngoài ra, xét về phương diện tư liệu, tính xác thực và không có hư cấu,
hồi kí lại gần với văn xuôi lịch sử, tiểu thuyết khoa học. Song, nếu các thể
loại này hướng vào tính nghiêm ngặt của sự thực và nghiên cứu, phân tích các
tư liệu một cách toàn diện, thì người viết hồi kí chỉ tiếp nhận và ghi chép phần
hiện thực mà tác giả nhìn rõ hơn trên cơ sở những ấn tượng và hồi ức riêng
trực tiếp của mình. Vì vậy, trong toàn bộ tác phẩm hồi kí có sự nổi trội của
bản thân người viết hoặc cái nhìn của bản thân người viết vào tất cả những gì
được kể lại, miêu tả lại.
Nhìn chung, trong sự phát triển của thể hồi kí, đường biên thể loại
không tuyệt đối, bản thân tác phẩm hồi kí luôn có sự xâm nhập, dung hợp các
thể tài, thể loại khác. Chính sự giao thoa giữa các thể loại khiến tác phẩm hồi

kí càng được chắp thêm đôi cánh vươn ra những chân trời mới của việc tái
hiện hiện thực. Nó đồng thời cũng thể hiện tính hiện đại, năng động, linh hoạt
của thể loại kí nói chung trong thời kì mở rộng và đổi mới tư duy nghệ thuật
của những năm sau 1975. Tuy vậy, văn bản hồi kí dù có tính tự do (do tính
chủ quan của hồi ức) hoặc dẫu khó xác định đường biên thể loại thì cũng
không thể nằm ngoài khung đặc trưng thể loại.


1.2. Thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đương đại
Sau 1975, hồi kí thực sự góp phần đáng kể trong việc tạo lập một diện
mạo riêng trên văn đàn Việt Nam. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự
phát triển của hồi kí là điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam đương đại. Nhìn từ
bối cảnh xã hội - văn hóa, trong xu thế hội nhập toàn cầu, đời sống văn học có
nhiều chuyển đổi, hồi kí cũng không đứng ngoài lề. Đất nước hòa bình, xã hội
có nhiều biến đổi, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của con người, đặc biệt là của
người nghệ sĩ cũng đổi khác. Bên cạnh vấn đề vận mệnh dân tộc, vấn đề số
phận cá nhân được đặt ra gay gắt. Ý thức cá nhân thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ.
Những vấn đề thuộc về cá nhân, riêng tư từ trước bị kìm nén, bị giấu đi trong
cái chung, trong nhân danh cái cộng đồng được chú ý khai thác và đào sâu. Ý
thức của con người cá nhân với những nhu cầu, khát vọng đời thường mang
tính bản năng được đánh thức. Văn học hướng đến cảm hứng thế sự, đời tư để
thỏa mãn thị hiếu, nhu cầu cấp thiết của độc giả. Đặc biệt, văn nghệ sĩ vốn
nhạy cảm với những biến thiên của cuộc đời, hành trình sáng tạo cũng nhiều
thay đổi, họ có nhu cầu nhìn lại chính mình, khẳng định vai trò, vị thế cá nhân
trong xã hội, trong văn chương. Trước những nhu cầu này, sức mạnh của một
tác phẩm văn học không còn ở chỗ khối lượng hiện thực được ghi chép, phản
ánh mà còn đòi hỏi nhà văn phải thể hiện được những nghiền ngẫm, tình cảm
và chiều sâu tư tưởng của mình. Đòi hỏi này là thế mạnh của hồi kí, nhất là
hồi kí văn học. Hồi kí vốn là sự hồi cố lại những gì nhà văn đã trải qua trong
quá khứ, thế nhưng, tất cả những hồi ức đó chỉ là đường viền, là cái cớ để đưa

ra những nhận xét, đánh giá, trăn trở, suy ngẫm và bộc lộ những quan điểm tư
tưởng của chính nhà văn. Nói đúng hơn, hồi kí viết về cái hôm qua để suy xét
cái hôm nay, để người đọc nhận ra bao bộn bề của thế sự đời thường…
Bên cạnh sự phát triển của truyện ngắn, tiểu thuyết với những bứt phá
trong cách tân thể loại, hồi kí cũng đi tìm cho mình mảnh đất để dụng võ với


cả số lượng đông đảo về tác giả, tác phẩm cũng như những dấu ấn về nội
dung và nghệ thuật của thể tài trong hành trình phát triển. Hồi kí đã đáp ứng
được nhu cầu cần hiểu, cần đánh giá lại một thời đại đã qua của lịch sử văn
học, chiêm nghiệm lại quá khứ của bản thân người viết và độc giả. Sự chuyển
biến của tư duy văn học sau 1975 được thể hiện ở khuynh hướng “phi sử thi
hóa”, đưa văn học trở lại với “quỹ đạo” đời thường. Các thể loại văn học phát
triển mạnh mẽ và đều có vị trí trọng yếu. Nằm trong dòng mạch đó, hồi kí
phát triển đáp ứng nhu cầu vận động tự thân của văn học. Hơn thế nữa, văn
học giai đoạn từ 1975 đến nay đã có một đội ngũ sáng tác trải nghiệm từ thời
chiến bước vào thời đổi mới với bao va đập qua những bước ngoặt lịch sử.
Nhu cầu viết về mình, về thế hệ mình, về những vinh quang thăng trầm quá
khứ trở nên bức thiết. Hồi kí ra đời như một tổng kết cuộc đời mình, để sống
lại một lần nữa cuộc đời đã sống, để khách quan nhìn nhận, đánh giá lại chính
cuộc đời mình bằng sự trải nghiệm của bản thân. Nói cụ thể hơn, viết hồi kí là
nhu cầu để nhà văn giải tỏa những ẩn ức bởi sự giục giã, thôi thúc từ bên
trong. Tất cả điều này đã khiến cho hồi kí phát triển mạnh mẽ.
Diện mạo hồi kí sau 1975 khá phong phú với nhiều phong cách, với sự
tập hợp nhiều thế hệ. Đóng góp lớn cho thành tựu hồi kí giai đoạn này là thế
hệ các nhà văn tiền chiến, từng sáng tác trước Cách mạng, thuộc các khuynh
hướng. Tham dự với vai trò chủ đạo trong nhiều chặng đường văn học, có mặt
trong những sự kiện trọng đại của đất nước qua những biến thiên lịch sử, nhu
cầu viết hồi kí trở nên bức thiết đối với thế hệ này. Đây là thế hệ trải qua
nhiều thăng trầm trong cuộc đời cũng như sáng tác văn chương. Thế hệ này

cũng đến độ “tri thiên mệnh”, có nhiều đóng góp cho văn học nước nhà, muốn
nhìn lại chính mình và thế hệ của mình qua những biến đổi lớn lao. Nhiều
thiên hồi kí tái hiện các giai đoạn lịch sử - xã hội - văn học qua các thời kì,
giàu tính thẩm mỹ, được cộng đồng văn học đón nhận.


Nhắc tới thành tựu của thể loại hồi kí sau 1975 là nhắc tới các tác phẩm
tiêu biểu như Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Tuổi thơ im lặng (Duy
Khán), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Cát bụi chân ai, Chiều chiều
(Tô Hoài), Đặng Thai Mai hồi ký (Đặng Thai Mai), Từ bến sông
Thương (Anh Thơ), Hồi ký song đôi (Huy Cận), Nhớ lại một thời (Tố
Hữu)…Với những tác phẩm này, cái tôi của người viết hiện diện rất sắc nét
qua cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì đã trải nghiệm bằng điểm nhìn
từ hiện tại. Những chi tiết tự truyện, thái độ chủ quan của người trần thuật
chứa đựng nhu cầu khẳng định giá trị của kinh nghiệm cá nhân.
Trong thành tựu chung của hồi kí sau 1975, số lượng tác giả của phong
trào Thơ mới tham gia khá nhiều. Những tác phẩm hồi kí ra đời ghi lại cả một
khoảng trời về tuổi thơ, về quê hương, gia đình, về những sự kiện lịch sử in
đậm trong hồi ức như Nửa đêm sực tỉnh (Lưu Trọng Lư), Những gương mặt
đáng yêu (Nguyễn Xuân Sanh), Hồi ký Song Đôi (Huy Cận). Đặc biệt các nhà
thơ nữ cũng làm mới diện mạo hồi kí bằng những tác phẩm đậm tính nữ như
Hồi ký Anh Thơ, hồi kí Núi Mộng Gương Hồ (Mộng Tuyết)… Nhìn chung,
sau năm 1975, thể loại hồi kí có những điều kiện thuận lợi để phát triển và đạt
nhiều thành tựu rực rỡ, góp phần không nhỏ vào việc thay đổi diện mạo của
văn xuôi Việt Nam đương đại.
1.3. Tác giả Duy Khán và hồi kí T ổi thơ im lặng
1.3.1. Nhà văn D y Khán
Duy Khán là nhà văn gốc Bắc Ninh, trưởng thành trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Trong sự nghiệp cầm bút của
mình, Duy Khán viết báo nhiều hơn sáng tác văn học. Tuy vậy, nhà văn cũng

có vị trí nhất định trong văn xuôi Việt Nam sau 1975.
Nhà văn Duy Khán tên khai sinh là Nguyễn Duy Khán, sinh ngày 6 tháng
8 năm 1934, tại thôn Sơn Trung, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh,


trong một gia đình nông dân nghèo. Thời niên thiếu, ông đi học trong vùng
Pháp kiểm soát. Năm 15 tuổi ông bỏ dở việc học, theo hai anh trai là Nguyễn
Đình Thư và Nguyễn Đình Thả trốn ra vùng Việt Minh kiểm soát để nhập ngũ.
Do có nền tảng học vấn tốt so với thời bấy giờ, thay vì tham gia chiến đấu,
Duy Khán được đơn vị phân công dạy học, rồi làm phóng viên chiến trường
cho chương trình Phát thanh Quân đội. Năm 1972, ông làm biên tập viên ở
Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Sau khi nghỉ hưu với cấp bậc Đại tá, Duy
Khán về Hải Phòng sống cùng gia đình ở phố Trần Nguyên Hãn, quận Lê
Chân. Ông từng là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam. Duy Khán mất ngày 29 tháng 1 năm 1993 tại thành phố Hải Phòng.
Ở cương vị nào, Duy Khán cũng năng nổ hoạt động. Những năm chiến
tranh, nhà văn có mặt hầu hết trên các chiến trường lớn, từ Điện Biên đến
đường 9 - Nam Lào. Nhà văn Nguyễn Đức Mậu kể rằng: “Gặp Duy Khán, lúc
nào cũng thấy anh đeo súng ngắn, và cái máy ghi âm, cái sắc cốt cứ kè kè bên
người” [9, tr.6]. Duy Khán còn có thời gian khá dài công tác ở quần đảo
Trường Sa. Vì đi nhiều, lại làm biên tập viên tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội
nên Duy Khán viết ít. Tác phẩm văn chương vẻn vẹn chỉ có mấy tập thơ
mỏng, chủ yếu được viết những năm chống Mỹ, trong khi đồng nghiệp ở cơ
quan “sáng tác bằng máy rào rào”.
Duy Khán sống cả tin và dễ gần. Bạn bè trong cơ quan, ai cũng yêu quý
nhà văn. Ông không ganh đua với ai mà thường mừng vui trước những thành
công của bạn và chịu nhận thiệt thòi về mình. Căn phòng của Duy Khán ở
Tạp chí Văn nghệ Quân đội chưa đầy sáu mét vuông nhưng luôn đông khách
và đầy ắp kỉ niệm. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đến thăm phòng Duy Khán có
ngẫu hứng đọc mấy câu thơ: “Một nhà thơ đi sáu nghìn cây số biển/ Về ở căn

phòng sáu mét vuông…”
Trong sự nghiệp văn học của mình, Duy Khán đã để lại những tác phẩm
tiêu biểu: Trận mới (thơ - 1972), Một tiếng Xa - Ma - Khi (thơ, 1981), Tâm sự


người đi (thơ, 1984), nổi bật nhất là hồi kí Tuổi thơ im lặng (1986). Tuổi thơ
im lặng ghi dấu bước ngoặt lớn trên con đường sáng tác của Duy Khán. Tác
phẩm được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn năm 1987. Năm 2012, Duy
Khán được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
1.3.2. Hồi kí T ổi thơ im lặng
Trong đời văn Duy Khán, Tuổi thơ im lặng là tác phẩm có vị trí quan
trọng. Tuy là “đứa con ngoài kế hoạch” nhưng tác phẩm này là tâm huyết của
nhà văn. Nó đã mang lại cho ông giải thưởng cao quý trong sự nghiệp cầm
bút của mình.
Nguồn cảm hứng lớn lao thôi thúc Duy Khán viết về những kí ức tuổi
thơ đã nằm sâu trong tâm trí chính là nguyện vọng, là sự mong đợi đầy nhiệt
tình từ các con ông. Trong lời tựa Tuổi thơ im lặng, ông viết: “Các con sinh
ra ở một thành phố lao động. Ấy thế mà vì sao các con lại đồng cảm đến mức
vậy. Ví thử các con sinh ra ở những làng quê lam lũ thì sao? Các con giục bố
viết ra, viết nhanh để các con đọc lại nhiều lần” [9, tr.12]. Chính nguyện
vọng chính đáng và da diết của các con, cùng với tình yêu quê hương sâu
nặng, nỗi nhớ tuổi thơ khôn nguôi đã trở thành nguồn cảm hứng thôi thúc
Duy Khán hướng ngòi bút đang chạy theo xu hướng chung trở về tái hiện
những kỉ niệm tuổi thơ đã nằm sâu và bền chặt trong tâm trí. Vì vậy, Tuổi thơ
im lặng tuy không nằm trong kế hoạch sáng tác của Duy Khán nhưng nó chứa
đựng tâm huyết của nhà văn, là món quà ông dành tặng các con, các bạn nhỏ
và đặc biệt là tặng những ai đã từng nghèo khó. Những kỉ niệm tuổi thơ trong
tác phẩm được tính từ thời điểm cậu bé Khán biết nhận thức đến tuổi mười
lăm. Tất cả được tái hiện chân thực và đầy cảm xúc.
Tuổi thơ im lặng xuất bản năm 1986. Vừa mới ra mắt, tác phẩm đã nhận

được lời khen của những cây bút cùng thời. Nhà thơ Đỗ Trung Lai công tác ở
báo Quân đội nhân dân gọi tập sách là “Văn chiêu hồn” của một thời, của một


vùng. Nhà văn Nguyễn Đức Mậu bình luận về Tuổi thơ im lặng: “Lời văn mộc
mạc và cổ nhưng cốt truyện thì hay, thú vị lắm” [9, tr.8]. Đáng quý hơn, năm
1987, tác phẩm này đã được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn. Những thành
quả trên thực sự xứng đáng với tâm huyết và công sức mà Duy Khán dành
cho Tuổi thơ im lặng. Cuốn sách nhỏ bé nhưng nó như máu thịt của nhà văn,
là lời giãi bày, thủ thỉ chân tình ông dành cho các con và bạn đọc.
Tuổi thơ im lặng tái hiện chân thực những kí ức tuổi thơ nhiều cung bậc
của Duy Khán. Đó là kí ức về gia đình, về thiên nhiên, phong tục làng quê…
Qua những kỉ niệm tuổi thơ đó, người đọc cảm nhận được bức tranh con
người và thiên nhiên làng quê Bắc Ninh trong những năm tháng khó nhọc của
đất nước, đồng thời thấy được tình cảm sâu nặng mà Duy Khán dành cho quê
hương xứ sở. Những nội dung đó được thể hiện qua nghệ thuật kể chuyện hấp
dẫn, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị và một giọng điệu nhiều sắc thái. Tất cả đã
tạo nên thành công cho cuốn hồi kí.


TIỂU KẾT
Trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, cũng như truyện ngắn, tiểu thuyết,
thể loại hồi kí có sự phát triển mới. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự
phát triển của hồi kí là tình hình lịch sử xã hội Việt Nam sau 1975. Những
thuận lợi của giai đoạn này đã tạo điều kiện cho văn học nói chung, thể loại
hồi kí nói riêng đi sâu khai thác các vấn đề thế sự - nhân sinh, hướng tới số
phận cá nhân, bộc lộ tâm tư, tình cảm của con người mà trước đó không có
điều kiện nói ra. Hồi kí sau 1975 được đánh dấu bằng những tác phẩm mang
đề tài thế sự, với cảm hứng chiêm nghiệm của người viết. Thành tựu của hồi
kí đã góp phần thay đổi diện mạo văn học giai đoạn đất nước hòa bình, bước

vào Đổi mới và hội nhập.
Duy Khán là nhà văn gốc Bắc Ninh, trưởng thành trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc. Với hồi kí Tuổi thơ im lặng được
nhận giải thưởng của Hội Nhà văn năm 1987, Duy Khán đã góp phần vào sự
phát triển của hồi kí giai đoạn sau 1975.
Tuổi thơ im lặng đánh dấu thành công trong sự nghiệp sáng tác của Duy
Khán. Nghiên cứu tác phẩm giúp người đọc nhận ra những đóng góp của nhà
văn đối với thể loại hồi kí và đánh giá đúng đắn vị trí của ông trong sự phát
triển của văn xuôi Việt Nam sau 1975.


Chương 2. SỰ THỂ HIỆN HOÀI NIỆM TUỔI THƠ
TRONG TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN
2.1. Kí ức về gia đình
Con người sinh ra trong cuộc đời này, ai cũng có một tuổi thơ. Tuổi thơ
là khoảng thời gian ta được sống bên cha mẹ, bên những người thân yêu với
một tâm hồn vô ưu, đầy thơ ngây và thuần khiết. Vì thế, khi đã trưởng thành,
người ta không nguôi hoài nhớ kí ức tuổi thơ. Tuổi thơ cho ta bao kỉ niệm
đẹp, nâng đỡ tâm hồn ta mỗi khi mệt nhoài bởi cuộc sống hiện tại. Nhưng
không phải tuổi thơ nào cũng là “thần tiên”. Với những tuổi thơ không may
mắn, con người chỉ muốn trốn tránh và lãng quên. Song tuổi thơ vẫn là miền
kí ức luôn được ghi nhớ và trân trọng. Nhà văn Duy Khán cũng vậy. “Đang từ
một người dễ dãi chạy theo các đề tài thời sự, Duy Khán trở lại với cái phần
kí ức tuổi thơ nằm sâu và đã trở nên bền chặt trong tâm trí”(Vương Trí
Nhàn). Những kỉ niệm tuổi thơ trong mười lăm năm đầu đời được nhà văn
làm sống dậy qua hồi kí Tuổi thơ im lặng. Tác phẩm là món quà tinh thần ông
dành tặng quê hương, tặng các con thân yêu, các bạn nhỏ và đặc biệt là tặng
những ai đã từng nghèo khó.
Tuổi thơ im lặng chứa đựng biết bao kí ức đẹp đẽ của Duy Khán, với nỗi
nhớ da diết, tình thương yêu xen lẫn sự ngậm ngùi, xót xa... Mảng kí ức nào

cũng đầy ắp tình cảm như vừa mới diễn ra. Trước tiên là kí ức về những
người thân yêu trong gia đình: bà nội, cha mẹ, anh Thư, anh Thả, em Bảng.
Người đầu tiên phải nhắc tới trong nỗi nhớ của nhà văn là bà nội. Bà nội gần
bảy mươi tuổi nhưng cái nghèo đói, cái vất vả vẫn đeo bám và hằn hiện trên
đôi vai mỏng manh của bà. Bà làm đủ mọi việc, đã vậy còn nuôi em Lĩnh con
chú Chà vì chú thím mất sớm. Trong ánh mắt các cháu, bà hiền hậu như một
bà tiên. Bà mang đến kho tàng văn học dân gian với biết bao câu ca, lời ru,
câu chuyện cổ tích đầy kì thú. Lời ru ngọt ngào, trầm bổng của bà đã nuôi


×