Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Văn hóa làng trong truyện ngắn của kim lân (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.91 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***************

HOÀNG VŨ THỊ THU HÀ

VĂN HÓA LÀNG
TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới ThS.
Nguyễn Phương Hà giảng viên khoa Ngữ văn – Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình làm khóa luận
tốt nghiệp.
Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các
thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã cung cấp kiến thức về văn học và
tạo điều kiện tốt nhất để em có thể thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Để hoàn
thành khóa luận này, em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của gia đình,
bạn bè, những người thân là điểm tựa vững chắc giúp em hoàn thành tốt nhiệm
vụ học tập và nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Hoàng Vũ Thị Thu Hà



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự
hướng dẫn của ThS. Nguyễn Phương Hà. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trong đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nghiên cứu nào. Nếu phát hiện có bất kì sự sai lệch nào, tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Hoàng Vũ Thị Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 5
3.1. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
6. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1...................................................................................................... 7
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................................... 7
1.1. Đặc trưng văn hóa làng xã Việt Nam......................................................... 7
1.1.1. Làng xã Việt Nam mang tính cộng đồng ................................................ 8
1.1.2. Làng xã Việt Nam mang tính chất tự trị ............................................... 10
1.2. Tác giả Kim Lân....................................................................................... 11
1.2.1. Cuộc đời ............................................................................................... 11
1.2.2. Sự nghiệp.............................................................................................. 12
1.3. Đóng góp của Kim Lân về đề tài văn hóa làng trong văn học Việt Nam

hiện đại ............................................................................................................ 13
CHƯƠNG 2.................................................................................................... 15
NHẬN DIỆN VĂN HÓA LÀNG VÀ NHỮNG KIỂU NHÂN VẬT ĐẶC
TRƯNG TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN......................................... 15
2.1. Các kiểu loại làng quê Việt ...................................................................... 15
2.1.1. Làng quê truyền thống .......................................................................... 16


2.1.2. Làng xóm ngụ cư................................................................................... 24
2.1.3. Làng xóm thời kì cải cách ruộng đất..................................................... 29
2.1.4. Làng xóm tản cư.................................................................................... 32
2.2. Những kiểu nhân vật đặc trưng trong truyện ngắn Kim Lân ................... 36
2.2.1. Nhân vật nghệ sĩ.................................................................................... 36
2.2.2. Nhân vật thượng võ............................................................................... 42
2.2.3. Nhân vật nhỏ bé, đời thường................................................................. 47
KẾT LUẬN .................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Kim Lân là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của Kim Lân tuy không đồ sộ nhưng lại rất
đặc sắc và khó trộn lẫn bởi lối viết văn giản dị, gần gũi, dễ hiểu. Một số
truyện ngắn của ông được xếp vào hàng xuất sắc trong văn xuôi Việt Nam thế
kỉ XX, có thể kể đến tác phẩm: Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí... Là nhà văn
luôn lấy hiện thực cuộc sống làm chất liệu sáng tác, Kim Lân đã vẽ lên bức
tranh làng quê với vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt Nam trong sáng, yêu
đời. Hồn quê đã thấm đẫm vào ông, khiến cho hầu hết các truyện ngắn của
ông đều có dáng dấp và hình ảnh của làng quê Việt và của chính bản thân tác

giả.
1.2. Kim Lân được biết đến là nhà văn của làng quê Việt. Chính bởi vậy,
để tạo nên những trang văn thấm đẫm không gian văn hóa làng quê Kinh Bắc
cũng như tạo dựng phong cách riêng khi viết về đề tài nông thôn Việt Nam,
Kim Lân đã thể hiện sự am hiểu, tài năng khám phá, yếu tố đời sống, lối sống
và phông văn hóa làng xã Việt Nam. Bản thân là người cầm bút, Kim Lân
hiểu rằng chiều sâu của các tác phẩm không chỉ là những mối quan hệ đơn
thuần về quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội mà còn là mối quan hệ về văn hóa.
Văn hóa chính là chất liệu để tạo nên đề tài, chủ đề… góp phần nuôi dưỡng
văn học phát triển. Bởi vậy, hướng tiếp cận tác phẩm dưới góc nhìn văn hóa
sẽ cắt nghĩa một cách đầy đủ hơn về tác phẩm của nhà văn.
1.3. Hiện nay những truyện ngắn của Kim Lân được giảng dạy ở nhiều
cấp học trong nhà trường: THCS, THPT. Vì thế tìm hiểu đề tài Văn hóa làng
trong truyện ngắn Kim Lân là việc làm mang ý nghĩa khoa học, thực tiễn,
giúp cho học sinh có sự cảm thụ văn chương tinh tế cùng với vốn hiểu biết

1


thêm về phông nền văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán, con người thế kỉ
XX.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kim Lân là cây bút truyện ngắn sớm có chỗ đứng trên văn đàn dân tộc
và là nhà văn được bạn đọc trân trọng, yêu mến. Kim Lân và các truyện ngắn
của ông đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều học giả, độc giả dưới
nhiều góc độ, phương diện khác nhau trước Cách mạng tháng Tám và sau
Cách mạng tháng Tám.
Nổi bật hơn cả và cũng sớm hơn cả là hướng nghiên cứu tập trung vào
nội dung sáng tác của Kim Lân. Đây cũng là điều tất yếu, bởi vấn đề nhà văn
phản ánh cũng chính là chìa khóa để mở cánh cửa những điều trăn trở, quan

tâm của họ trước cuộc đời. Nhà văn Nguyên Hồng trong Những nhân vật ấy
đã sống với tôi kể lại rằng: “Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc
mấy truyện của Kim Lân… Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn
thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy, hình như định chọi, định đả
chữ nhau với một số tên như Mộng Ngọc, Mộng Dương, hay Hoài Trạch,
Hoài Tâm… lúc bấy giờ vậy. Nhưng rồi chỉ bập vào mấy truyện của anh mà
tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại có một cái gì đó
chân chất của đời sống con người nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung
cảm thắm thiết, đặc biệt là lại gần gũi với mình…” [5]. Đây có thể xem là một
ý kiến rất đáng chú ý khi tìm hiểu truyện ngắn của Kim Lân. Ở những tác
phẩm đầu tay, Kim Lân dường như chưa ý thức phản ánh hiện thực sâu sắc
nhưng chất hiện thực vẫn toát ra một cách tự nhiên từ những hình tượng nhân
vật của ông. Bởi đó thường là những con người sống ở quê hương Kim Lân,
ruột thịt với ông, từ cuộc sống lam lũ bần cùng, họ đã trực tiếp bước vào văn
học.


Điểm lại lịch sử nghiên cứu về Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân
cũng đưa ra nhận xét: “Đọc văn Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những
người dân nghèo vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người dân miền
xuôi mất nhà, mất đất, xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ, bến
sông, một góc phố hay ven một đồn điền, một xóm trại, tiếp tục vật lộn với
miếng sống sơ đẳng hàng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân
vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó
xỉnh cuộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của
chính các nhân vật ấy (...) mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất
nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế
khóa, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức đọa đày” [2].
Tìm hiểu về quan niệm sáng tác của Kim Lân, nhà nghiên cứu Trần Hữu
Tá cho rằng: “Kim Lân quan niệm viết văn như cách đòi cho mình một thân

phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh của
quê hương” [17].
Đáng chú ý nhất là đánh giá của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh. Trong cuốn
Tổng tập văn học Việt Nam, tác giả đã tỏ ra khá tinh tế vá sắc sảo khi nhận
xét về đề tài phong tục và thú chơi đồng quê của Kim Lân. Ông cho rằng:
“Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là
“thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”… Sở dĩ có sự hấp dẫn, không
phải vì ở đấy những tập quán ngộ nghĩnh, kỳ lạ, những thú chơi phiền phức,
cầu kỳ được trình bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà văn đã thể hiện lên được
những con người ở làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ thiếu thốn
mà vẫn yêu đời” [8].
Từ đó, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khái quát nội dung truyện ngắn
Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám 1945: “Đó là những trang số phận của
các đầu thừa, đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy


trắng chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về phía phong
tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh… nhưng vẫn biểu hiện một
phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám những
người sống vất vả, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, trong sáng thông minh, tài
hoa” [8].
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã nhận xét về truyện ngắn của Kim
Lân sau Cách mạng tháng Tám bằng cái nhìn biện chứng sắc sảo và quan
điểm lịch sử như: “Sau Cách mạng tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung
vào phương diện xã hội chính trị, của đời sống nông dân gắn liền với vận
mệnh đất nước. Về đề tài này Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những
truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại” [9].
Trong Tuyển tập mười năm tạp chí văn học và tuổi trẻ (2003), những
dòng cô đúc đã cố gắng khái quát về truyện ngắn sau cách mạng của Kim
Lân: “Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê Việt Nam. Ông thường viết về

những cảnh tội nghiệp, cuộc sống khốn khó đến cùng cực của người nông dân
dưới chế độ cũ và sự đổi đời của họ nhờ cách mạng” [16].
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân trong Tạp chí văn học số 6 cũng đã
trích dẫn lời nhận xét của tác giả Lữ Huy Nguyên về toàn bộ truyện ngắn Kim
Lân: “Nếu có dịp đọc toàn bộ tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu là truyện
ngắn ta sẽ thấy, ông không chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa
đuôi thẹo; ông còn là đại diện văn học sáng giá của những người tài hoa, bặt
thiệp, phong lưu riêng…” [2]. Rõ ràng, trong truyện ngắn Kim Lân, người đọc
dễ dàng bị cuốn hút bởi những tố chất và vẻ đẹp dung dị, kín đáo của con
người làng quê Bắc bộ - những con người lịch lãm, hào hoa và đầy tinh thần
thượng võ.
Khẳng định về tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, tác giả Hà Minh
Đức viết trong Nhà văn nói về tác phẩm cho rằng: “Kim Lân là một trong


những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân
đã tạo được cách viết độc đáo… Phải nói rằng Kim Lân viết không
nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc” [3]. Cả
đời văn Kim Lân chỉ chuyên tâm viết truyện ngắn. Truyện của ông thường tập
trung miêu tả sinh hoạt làng quê và hình tượng người nông dân. Nhưng thế
giới nghệ thuật của ông không vì vậy mà bị giảm sức sống và sự hấp dẫn.
Trên đây là một số trong rất nhiều công trình nghiên cứu về con người và
văn chương Kim Lân. Có thể thấy dù tiếp cận và nghiên cứu ở góc độ khác
nhau nhưng nhìn chung ta vẫn nhận thấy dấu ấn văn hóa làng đậm chất trong
các sáng tác của nhà văn được các nhà nghiên cứu quan tâm và bàn tới song
tất cả đều là những bài viết lẻ tẻ, mang tính chất gợi mở. Trên tinh thần tiếp
thu và vận dụng những thành quả nghiên cứu của những người đi trước,
chúng tôi đi sâu tìm hiểu đề tài: Văn hóa làng trong truyện ngắn Kim Lân
với mong muốn giúp người đọc cảm nhận rõ yếu tố văn hóa đồng thời thể
hiện sự yêu quý, sáng tạo của Kim Lân.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đề tài dưới góc nhìn văn hóa làng, khóa luận giúp cho người
đọc hiểu được phông văn hóa làng xã, từ đó có cái nhìn chiều sâu về đời sống,
con người và văn hóa của đất nước thuần nông nghiệp.
Khẳng định tài năng, vị trí của Kim Lân và những đóng góp của ông
trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ khái niệm văn hóa làng, chúng tôi đi sâu nhận diện văn hóa làng
(truyền thống; ngụ cư; tản cư) và những kiểu nhân vật đặc trưng (nhân vật
nghệ sĩ; nhân vật thượng võ; nhân vật nhỏ bé, đời thường).


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: Văn hóa làng trong truyện ngắn
Kim Lân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Tuyển tập truyện ngắn Kim Lân,
Nxb Văn học (2011).
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài khóa luận chúng tôi vận dụng một số phương pháp
chính sau đây:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Phương pháp thống kê
Phương pháp so sánh
Phương pháp phân tích, bình giảng
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung khóa luận
triển khai theo hai chương:

Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Nhận diện văn hóa làng và những kiểu nhân vật đặc trưng
trong truyện ngắn Kim Lân


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Đặc trưng văn hóa làng xã Việt Nam
Việt Nam là một đất nước giàu truyền thống văn hóa. Nét nổi bật khi nói đến
văn hóa Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định:
 Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất và đa dạng.
 Việt Nam là một nước nông nghiệp. Vì vậy, văn hóa Việt Nam là
một nền văn hóa nông nghiệp, cụ thể là văn hóa nông nghiệp lúa nước. Trong
đó, văn hóa làng xã là kết tinh đậm đặc những đặc trưng cơ bản của văn hóa
Việt Nam.
Về cơ bản thì các khái niệm về làng xã được đưa ra khá thống nhất,
dưới đây là một số khái niệm do các nhà nghiên cứu đưa ra:
Theo Từ điển tiếng Việt: “Làng là đơn vị hành chính ở nông thôn,
cũng thường gọi là xã hay làng xã, làng xóm” [6].
Theo GS. Phan Huy Lê thì: “Làng xã cổ truyền là đơn vị tự cư, là cộng
đồng dựa trên quan hệ láng giềng kết hợp với quan hệ huyết thống, là môi
trường sinh hoạt văn hóa - xã hội từ bao đời nay gắn bó với cuộc sống của
người dân Việt Nam…” [10, 126].
Tìm hiểu khái niệm làng, tác giả Đỗ Lai Thúy cho rằng: “Làng là đơn vị
cộng cư cơ bản nhất của người Việt. Làng Việt được thoát thai từ công xã
nguyên thủy và sau đó là công xã nông thôn” [14, 106].
Theo các quan niệm trên, chúng ta có thể thấy: Làng xã trước hết là một
đơn vị cộng cư cơ bản.
Nền văn hoá Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở của nền văn minh nông

nghiệp. Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng quê. Hình ảnh làng
với luỹ tre xanh, cây đa, giếng nước, sân đình đã trở nên rất thân thuộc trong


tâm hồn người Việt Nam. Lật lại những trang sử của ngành kiến trúc Việt
Nam, người ta thấy rằng kiến trúc Việt Nam ra đời rất sớm, có thể đã xuất
hiện từ thời vua Hùng dựng nước, cách nay khoảng bốn ngàn năm. Làng xóm
cũng xuất hiện vào thời kỳ này.
Làng Việt Nam là sự tích hợp của những gia đình với nhiều phương thức
và quan hệ khác nhau, ít thì dăm bảy chục, nhiều thì vài trăm hộ, có quỹ đất,
tín ngưỡng và phong tục tập quán riêng. Làng là sự liên kết chặt chẽ dòng họ,
giáp phe, phường hội… Các nhà kiến trúc cho rằng làng xã Việt Nam có tính
quần thể cao, có kiểu kiến trúc đơn giản nhẹ nhàng phù hợp với khí hậu và tập
quán của người Việt Nam. Làng luôn được bao quanh bằng những luỹ tre
xanh. Sau luỹ tre xanh là những mái nhà tranh ấm cúng, nơi cưu mang che
chở cho con người. Làng Việt là một thành tố quan trọng trong cơ cấu xã hội
Việt Nam, nổi lên là gia đình (nhà) – làng – nước, với hai đặc trưng cơ bản là
tính cộng đồng và tính tự trị.
Văn hóa làng Việt Nam là hiện tượng lịch sử cũng là hiện tượng dân
tộc. Văn hóa làng vốn có từ ngàn xưa nhưng vẫn tồn tại đến ngày nay với sự
ngưng kết đậm đặc biểu hiện trong lối sống, phong tục tập quán, kho tàng văn
hóa dân gian, tín ngưỡng – tôn giáo…Văn hóa làng còn chứa đựng những giá
trị vật chất đình, chùa, miếu, lũy tre, bến nước, cây đa,…Tất cả “những yếu tố
vật thể và phi vật thể trên không đứng đơn lập, rời rạc mà hòa quyện vào
nhau, tích hợp lại thành bản sắc văn hóa làng, lưu truyền từ thế hệ trước sang
thế hệ sau như một dòng chảy không bao giờ dứt” [13].
Khi nói về văn hóa làng, các nhà nghiên cứu đã nêu bật được hai đặc
trưng cơ bản đó là: Tính cộng đồng và tính tự trị.
1.1.1. Làng xã Việt Nam mang tính cộng đồng
Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo

nên tính cộng đồng làng xã. Theo giáo sư Trần Ngọc Thêm: “Tính cộng đồng


là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới
người khác - nó là đặc trưng dương tính hướng ngoại” [4].
Người Việt Nam ta vốn xưa nay quen lối sống tình cảm. Mối quan hệ
làng xã khiến người ta phải gắn bó với nhau, phải giữ gìn được quan hệ trong
ấm ngoài êm, sống có tình có nghĩa có tình với nhau. Chỉ có thế người ta mới
có thể duy trì được sự cố kết của cộng đồng. Sự duy trì này không chỉ diễn ra
trong những cộng đồng theo huyết thống như gia đình, dòng họ mà ở cả
những cộng đồng theo quan hệ láng giềng với nhau: ngõ, xóm, làng, vùng
miền…
Mặt khác, tính cộng đồng có vai trò gắn kết các thành viên trong làng lại
với nhau thông qua các biểu tượng mang tính truyền thống như cây đa, bến
nước, sân đình. Hầu hết, mọi làng của người Việt đều hội tụ cả ba biểu tượng
này. Như vậy, tính cộng đồng đóng một vai trò rất lớn trong đời sống sinh
hoạt của người dân làng xã. Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất
cùng họ là đồng tộc, cùng tuổi là đồng niên, cùng nghề là đồng nghiệp, cùng
quê là đồng hương. Do sự đồng nhất giống nhau “cùng hội cùng thuyền” cho
nên mọi người luôn sẵn sàng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong
cộng đồng như anh em, chị em trong nhà “tay đứt ruột xót”, “chị ngã em
nâng”… Điều đó làm cho các quan hệ tình cảm của các thành viên trong làng
xã thêm gắn bó. Đặc biệt trong khó khăn, họ có thể hi sinh cho cộng đồng,
trước hết là gia đình, dòng họ, làng xóm sau đó là đất nước. Vì vậy đã tạo nên
sức mạnh quật cường tính tập thể rất cao, mọi người trong cộng đồng đều gắn
bó tập thể. Sự đồng nhất cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ,
bình đẳng bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức nông theo địa bàn cư trú, theo
nghề nghiệp, theo giáp.



1.1.2. Làng xã Việt Nam mang tính chất tự trị
Cùng với tính cộng đồng, tính tự trị cũng là một đặc trưng gốc rễ trong
văn hoá làng của người Việt. Tính tự trị nhấn mạnh vào sự khác biệt. Đối với
làng, biểu tượng truyền thống của tính tự trị là luỹ tre làng. Luỹ tre trở thành
thành luỹ kiên cố của làng bất khả xâm phạm. Đối với người Việt, bên ngoài
luỹ tre làng là cả một thế giới khác cho nên có người cả đời không bước ra
khỏi luỹ tre làng. Do tính chất khép kín dẫn đến làng người Việt luôn mang
trong mình tính bảo thủ, địa phương cục bộ “Trống làng nào làng đấy đánh”,
“Thánh làng nào làng nấy thờ” hay “Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao
nhà vẫn hơn”. Tính tự trị cũng tạo cho người Việt tính gia trưởng tôn ti hay óc
bè phái tư hữu ích kỷ. Bởi vậy trong làng, người ta coi trọng tôn ti, họ to họ
nhỏ, con trưởng con thứ, tư tưởng thứ bậc, thói gia đình chủ nghĩa. Khởi đầu
là sự khác biệt của cộng đồng (làng, họ) này so với cộng đồng (làng, họ) khác.
Sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị, tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi
làng, mỗi tập thể hoạt động độc lập với tập thể khác, phải tự lo liệu lấy mọi
việc. Vì phải tự lo liệu, nên con người Việt Nam có truyền thống cần cù, có
tính chịu thương chịu khó đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.
Nó cũng tạo nên nếp sống tự cấp tự túc: mỗi làng tự đáp ứng mọi nhu cầu cho
cuộc sống của làng mình; mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà, ao cá tự đảm bảo
nhu cầu về ăn, có bụi tre, rặng xoan, gốc mít tự đảm bảo nhu cầu về chỗ ở.
Tóm lại, với đặc trưng vừa mang tính cộng đồng vừa mang tính tự trị cho
nên làng của người Việt có tinh thần đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau nhưng cũng
luôn khép kín bảo thủ. Như vậy: “làng là tổ chức xã hội cơ sở đặc biệt của
người Việt mà từ đó tạo nên tính cách của người Việt, mà một trong những
tính cách mạng, tính truyền thống ngàn đời đó chính là ý thức độc lập và lòng
yêu nước” [18]. Tính cộng đồng làng xóm tạo nên tinh thần đoàn kết toàn dân.
Xét một cách sâu xa, tinh thần đoàn kết toàn dân, ý thức độc lập dân tộc và


lòng yêu nước được xuất phát và hun đúc từ truyền thống làng của người Việt

Nam.
1.2. Tác giả Kim Lân
1.2.1. Cuộc đời
Kim Lân (1920-2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu,
xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn (nay là làng Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thị xã
Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Xuất thân từ một gia đình nghèo, do hoàn cảnh gia
đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm.
Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được
đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện
(Vợ nhặt, Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa…) mang
tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của
nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ
đó.
Sớm giác ngộ Cách mạng nên từ năm 1944, Kim Lân đã tham gia Hội
Văn hóa Cứu quốc cùng với Nguyên Hồng, Nam Cao (những người bạn thân
thiết, đồng tâm của ông). Cuộc kháng Pháp nổ ra, ông tiếp tục có mặt trong
phong trào Văn hoá cứu quốc, công tác ở các báo Chi Lăng (Khu ủy khu
XII), Xông pha (Quân đội khu XII), Dân quân Việt Bắc, Hội Văn nghệ
Việt Nam, Báo Văn nghệ.
Kim Lân là một trong những hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Ông gắn bó với nghiệp làm báo, viết văn, và khẳng định mình ở mảng truyện
ngắn với những trang viết sâu sắc về làng quê Việt Nam, phản ánh sinh động
đời sống tâm tư, tình cảm của người nông dân trong giai đoạn kháng chiến và
sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất. Ông cũng là một trong nhiều nhà
văn có tác phẩm được đưa vào nhà trường giảng dạy từ rất sớm: Vợ nhặt,
Làng.


Từ sau năm 1960, hầu như Kim Lân gác bút trên văn đàn. Ở tuổi 40 với
nghệ thuật viết truyện ngắn bậc thầy, cái việc gác bút của ông được coi là

chuyện lạ với mọi người. Thay vào việc viết văn, ông làm việc biên tập sách
và đào tạo thế hệ nhà văn trẻ.
Sinh thời ông sống tại Hà Nội. Nǎm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải
thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông từ trần năm 2007 tại Bệnh viện
Hữu Nghị Hà Nội, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn,
hưởng thọ 87 tuổi.
1.2.2. Sự nghiệp
Kim Lân là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau cách mạng tháng Tám. Ngòi bút của ông luôn hướng
về đề tài nông thôn và nông dân Việt Nam.
Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân là cây bút biết đến với nhiều tác
phẩm được đăng báo như: Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô
Vịa… hầu hết các truyện ngắn chỉ mang tính tự truyện, tuy nhiên vẫn phần
nào phản ánh được bức tranh ảm đạm, tiêu điều vùng nông thôn Việt Nam.
Đặc biệt, Kim Lân được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những mảng đề
tài tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả
chim, đi săn…). Các truyện: Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn… kể lại
một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp
tâm hồn của người nông dân, những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng
vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Do đó truyện của Kim Lân giai đoạn này
mang tính hiện thực nhưng cũng rất giản dị, dễ hiểu, cảnh sắc và con người
trong văn Kim Lân thấm đẫm hồn cốt của vùng quê Kinh Bắc.
Sau Cách Mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông
vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam - mảng hiện
thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Từ năm 1954, ông lần lượt công tác ở


một số cơ quan văn nghệ Trung ương và tiếp tục sáng tác. Một số tác phẩm
chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện
ngắn, 1962), Hiệp sĩ gỗ, Ông Cản Ngũ (1998)... Có thể nhận thấy rằng số

lượng tác phẩm của Kim Lân không nhiều, nhưng Kim Lân đã có những đóng
góp tích cực trong đề tài truyện ngắn và đề tài nông nông, những sinh hoạt
văn hóa phong phú ở thôn quê. Ông viết về mảng hiện thực này bằng tình
cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng, của nông thôn
Việt Nam.
Nhìn chung các truyện ngắn của Kim Lân không đồ sộ nhưng lại rất đặc
sắc và khó trộn lẫn. Ông là nhà văn có vị trí vững trãi trên thi đàn văn học,
đặc biệt để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua nhiều thế hệ.
Ngoài sáng tác văn học, Kim Lân còn tham gia đóng phim, đóng kịch và
đều thành công. Một số vai tiêu biểu ông tham gia diễn xuất có thể kể đến:


Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy



Lý Cựu trong phim Chị Dậu



Lão Pẩu trong phim Con Vá



Cả Khiết trong vở Cái tủ chè của Vũ Trọng Can



Cụ lang Tâm trong phim Hà Nội 12 ngày đêm


1.3. Đóng góp của Kim Lân về đề tài văn hóa làng trong văn học Việt
Nam hiện đại
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân chính là minh chứng
sinh động cho quy luật muôn thuở “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Sự thành
công của một nhà văn không hẳn đo bằng số lượng tác phẩm viết được, in
được mà quan trọng hơn là chất lượng nghệ thuật ở sự kết tinh tài năng. Hơn
mười năm cầm bút, Kim Lân chỉ sáng tác vẻn vẹn hơn ba mươi tác phẩm thế
nhưng ông vẫn được xem là một cây bút văn xuôi có tầm vóc lớn lao. Điều
đặc biệt phải kể đến là chất liệu được sử dụng trong văn chương của ông đó


chính là hơi thở của làng quê Việt, là những nét đẹp về văn hóa, phong tục tập
quán. Qua những truyện ngắn của mình, Kim Lân giúp cho độc giả có cái
nhìn chiều sâu về vốn văn hóa, phong tục, những ngôi chùa cổ kính những
con đường làng lát gạch êm ả của tuổi thơ, hay những ngôi đình, ngôi đền với
cây đa trăm tuổi đều có chỗ đứng trong văn chương. Điều đó đã thể hiện đặc
biệt qua giọng văn của ông và làm độc giả say mê thú vị.
Kim Lân không phải là nhà văn đầu tiên và duy nhất viết về văn hóa,
phong tục Việt Nam. Trước ông đã từng có nhiều nhà văn Ngô Tất Tố,
Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Thạch Lam… nhưng ở mỗi nhà văn lại chọn cho
mình lối đi riêng. Người thì viết về thú chơi hoa thưởng rượu của các nhà Nho
xưa nay chỉ còn vang bóng. Cũng có người viết về văn hóa ẩm thực, nâng nó
lên thành yếu tố thẩm mĩ. Còn riêng đối với Kim Lân thì ông cũng đóng góp
không nhỏ và trong kho tàng văn học, văn hóa dân gian. Ngược trở lại dòng
lịch sử, ông cho người đọc biết đến những giá trị tinh thần của chốn thôn quê.
Mỗi trang viết của ông đều nói tới khung cảnh làng quê, nói tới những nét
tính cách đặc trưng của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Không gian,
thời gian làng quê có lẽ cứ như vậy mà hiện hữu trong từng trang văn. Không
chỉ vậy Kim Lân là một nhà văn đặc biệt am hiểu về những thú chơi tao nhã
của người nông dân. Đó là niềm say mê với hát tuồng, hát kép và cả nghệ

thuật múa rối nước… hay những trò chơi dân gian như trọi gà, thả chim, đấu
vật, đi săn…
Có thể nói Kim Lân là nhà văn “thuần hậu nguyên thủy” những nét đẹp
về văn hóa, phong tục tập quán, lối sống tình làng nghĩa xóm được Kim Lân
tìm hiểu một cách tường tận, tỉ mỉ để từ đó giúp cho bạn đọc có cái nhìn chiều
sâu về vốn văn hóa dân tộc. Qua đó khẳng định Kim Lân đã đóng góp không
nhỏ vào kho tàng dân tộc những giá trị đặc sắc về văn hóa, phong tục, để từ
đó hoàn thiện bức tranh sống động chốn làng quê Việt.


CHƯƠNG 2
NHẬN DIỆN VĂN HÓA LÀNG VÀ NHỮNG KIỂU NHÂN VẬT ĐẶC
TRƯNG TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN
2.1. Các kiểu loại làng quê Việt
Nếu nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn làng quê Việt Nam thì
Kim Lân chính là nhà văn của nông thôn làng quê ấy. Bởi trong toàn bộ các
sáng tác của Kim Lân luôn có sự hiện diện của một kiểu “thế giới”, một
khoảng trời riêng dường như chỉ có trong văn của ông. Đó là thế giới mà
nhiều người đã nói tới - Kim Lân là nhà văn của nông thôn Việt Nam. Quan
sát kỹ bức tranh nông thôn làng quê ấy, người ta còn nhận ra rằng đó không
phải là nông thôn làng quê nói chung mà là làng Việt cổ truyền, làng xóm ngụ
cư, làng xóm tản cư của nông thôn Việt Nam trong những năm trước và sau
Cách mạng tháng Tám. Đây có thể xem như là một cấu trúc không gian đặc
thù của nông thôn làng quê với nhiều vẻ đẹp bình dị của con người, của
phong tục văn hóa mà bất kỳ ai cũng cảm nhận được. Nó đòi hỏi nhà văn phải
có một sự nhạy bén, tinh tế, một cách tinh vi điềm tĩnh, soi ngắm từ nhiều
phía, nhiều tầng để cảm nhận.
Kim Lân là nhà văn của nông thôn làng quê Việt Nam nói chung, của
nông thôn làng quê Bắc Bộ nói riêng, nhà văn được ấp ủ, được nuôi dưỡng và
được tưới tắm đời mình từ nhỏ đến lớn giữa cái nôi văn hóa của làng quê ấy.

Và đây được xem như một quá trình thấm thấu để hình thành một hồn văn
Kim Lân độc đáo. Tuy nhiên làng quê trong sáng tạo của Kim Lân lại không
được đặc tả hoặc nhấn mạnh cái nét đặc trưng Kinh Bắc, mà nhà văn lại
hướng tới không gian làng quê Bắc Bộ nói chung. Do đó, thế giới trong
truyện Kim Lân về căn bản là thế giới nhìn từ nông thôn làng quê, hay từ một
mô hình “nông thôn làng Việt” mang bản sắc rất riêng. Ông tiếp cận làng quê
trên bình diện phong tục sinh hoạt văn hóa cùng với những câu chuyện đời tư,


đời thường sau lũy tre xanh. Ở đó, người đọc không thấy được cái lo âu sợ hãi
vì gánh nặng của lệ làng, hủ tục, sưu cao, thuế nặng mà chỉ thấy người nông
dân hòa niềm vui vào trong không khí tưng bừng của những lễ hội sinh hoạt
văn hóa làng quê để quên hết những lo âu, vất vả của cuộc sống thường ngày.
Hơn ba mươi truyện ngắn của Kim Lân đều miêu tả hoặc gợi nhắc đến cuộc
sống muôn màu, muôn vẻ của người dân quê trong làng mạc, thôn xóm ngày
xưa. Từ những truyện ngắn: Đôi chim thành, Con mã mái, Cầu đánh vật,
Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật… đến Làng, Thư phát động,
Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Ông lão hàng xóm… tất cả đều
chứa đựng một không gian làng nói chung mang đậm màu sắc địa phương bởi
những yếu tố phong tục, những sinh hoạt văn hóa làng xã gắn liền với những
thú chơi tao nhã, “phong lưu đồng ruộng”, với những buồn vui thế sự, những
số phận, những tâm tình của con người Việt Nam trước và sau Cách mạng
tháng Tám nói chung.
Làng quê ấy của Kim Lân chính là một làng quê truyền thống ngàn đời,
vừa là làng xóm ngụ cư, làng xóm tản cư thời kháng chiến với những biểu
hiện cụ thể của nó. Không gian làng đi vào trang văn của Kim Lân với tất cả
sự sống động của nó.
2.1.1. Làng quê truyền thống
Nhà văn Kim Lân sinh ra và lớn lên ở làng quê Bắc Bộ. Ông gắn bó máu
thịt với bờ tre, mái rạ, giếng nước, sân đình... để rồi sự am hiểu sâu sắc văn

hóa làng xã ấy cùng với nhãn quan của một nhà văn đã tạo nên những tác
phẩm đặc sắc. Khác với các nhà văn cùng thời, Kim Lân đã thể hiện một cái
nhìn sâu sắc, toàn diện về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Với Kim Lân điều cốt lõi làm nên giá trị của tác phẩm là cái nhìn chiều sâu
văn hóa. Ông từng nói: “Đất có lề, quê có thói, văn hóa được tích tụ hàng
nghìn năm, hàng trăm năm. Nó tồn tại và phát triển trong mỗi con người, mỗi


gia đình, mỗi làng xã… và từng làng được ghép thành cộng đồng, thành dân
tộc, quốc gia…” [1]. Chính bởi vậy, ông đi sâu vào tìm kiếm từng ngóc ngách
những yếu tố văn hóa, nét phong tục tập quán độc đáo của làng quê cùng với
đó là sự chiêm nghiệm về cuộc đời và con người. Một điểm sáng trong truyện
ngắn Kim Lân là ông đã khắc họa thành công làng quê Việt truyền thống.
Làng quê truyền thống cũng chính là làng quê gốc gác lâu đời, tồn tại
từ đời này qua đời khác, gắn liền với lũy tre làng, với cây đa, giếng nước, sân
đình. Ở đó là nơi hội tụ của những phong tục tập quán, kiến trúc cổ xưa và lối
sống tình nghĩa của con người. Lật từng trang viết của Kim Lân ta bắt gặp
những nét đặc sắc văn hóa làng quê truyền thống in đậm dấu ấn văn hóa Bắc
Bộ. Làng quê truyền thống được nhà văn đề cập, khai thác dưới nhiều góc độ
khác nhau, có khi được hiển hiện trực tiếp bằng cái tên, địa danh cụ thể nhưng
cũng có khi tồn tại dưới dạng biến thể mang đặc điểm, sắc thái, linh hồn của
làng quê.
Trước hết là các tên chữ trang trọng do các bậc Nho học của làng đã đặt
ra ngay từ ngày mới lập làng: Làng Trang Liệt, Đại Đình, Hạ Dương trong
(Đôi chim thành). Ngoài ra còn có các địa danh khác xuất hiện trong các
truyện ngắn của nhà văn: Đại Sơn, Dưỡng Mông (Chó săn), Cẩm Giang, Từ
Sơn, Đình Tràng, Phù Trẩn, Phù Ninh, Đồng Kỵ (Cầu đánh vật), Cổ Pháp
Đình Bảng, Bỉnh Hạ, Hàm Long (Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng
vật), chùa Vân Điềm, làng Vân Điềm (Đuổi tà), Trang Liệt, Phủ Từ, Hà
Đông, Yên Thế, Ngân Sơn (Trả lại đòn), Triều Dương, La Hiên, Đình Cả

(Nên vợ nên chồng), làng Bính Hạ (Con mã mái)… Những làng quê ấy đều
lưu giữ trong mình những nét đẹp về cảnh quan thiên nhiên, phong tục tập
quán ngàn đời. Đó là những tên gọi gần gũi, thân quen của làng quê Việt nói
chung và của xứ Kinh Bắc quê hương ông nói riêng. Cái tên cổ kính của mỗi
ngôi làng có thể lấy tên của những vị anh hùng dân tộc để đặt hoặc là cách đặt


tên gắn liền với địa hình, địa lý cư dân của vùng và luôn mang trong mình
một ý nghĩa nhất định. Trong hầu hết những câu chuyện mà Kim Lân viết đều
nhắc đến địa danh của các ngôi làng mà hiện nay vẫn tồn tại qua năm tháng ở
Bắc Ninh. Như vậy, một điều ta có thể khẳng định được rằng những tên chữ
Nho gia trang trọng đã được Kim Lân khéo léo đưa vào trong từng tác phẩm
của mình để từ đó làm nổi bật lên nét đẹp truyền thống văn hóa quê hương
mình, ngôi làng cổ kính gắn liền với bao kí ức đẹp đẽ về quê hương Kinh Bắc.
Làng giờ đây hiện lên một cách thuần túy nông thôn, vừa thực, vừa sống động
như những gì nó vốn có, điều đó càng chứng tỏ Kim Lân nhà văn của chốn
làng quê thuần túy.
Thứ nữa, làng quê Việt truyền thống còn thấp thoáng những hình ảnh,
ngôi chùa, đình làng, những di tích lịch sử. Sự có mặt của những hình ảnh này
làm cho bức tranh thôn quê thêm phần chân thực và sinh động. Đó là ngôi
chùa cổ Vân Điền trong truyện Đuổi tà được tác giả miêu tả với không gian:
“Tĩnh mịch tôn nghiêm, có thoang thoảng hương trầm của gian tam bảo.
Những pho tượng âm thầm trong ánh đèn dầu vàng vọt bóng run run trên
vách bởi ngọn gió lọt vào tưởng như đang ngồi ngây ngất thẩm âm” [12,
118]. Hay trong truyện Chó săn là cảnh ngôi chùa hoang: “Đó là một ngôi
chùa chơ vơ giữa cánh đồng xung quanh bao bọc bởi một lũy tre trống trải.
Không có sư trụ trì nên càng đìu hiu, hoang vắng. Những cây muỗm sừng
sững gieo lá úa đầy trên sân rêu cỏ. Mái thì ngói sụt, tường thì long lở ngổn
ngang. Trong cái không khí vô cùng tĩnh mịch dãy tượng La Hán sứt mẻ ngồi
nghiêm trang trong bóng chiều nhờ nhờ tối như một thế giới không có dương

gian” [20]. Ở tác phẩm Trả lại đòn ngôi chùa Dận được miêu tả với khung
cảnh thanh bình buồn bã thân quen khi chiều buông…
Để tô đậm cho làng quê truyền thống Việt, Kim Lân khéo léo trong việc
đặt tên nhân vật hết sức giản dị. Ở nông thôn, với những người nông dân việc


đặt tên người hết sức giản đơn, họ thường mượn tên các dụng cụ sản xuất, đồ
dùng sinh hoạt để đặt tên, ví như cái Hái, chị Dao, anh Bát, chị Chén… Họ
dựa luôn vào thứ tự trong nhà để gọi: chị Ba, anh Hai, chú Năm, ông Sáu, cụ
Tứ… Hoặc dựa vào những đặc điểm bên ngoài của người đó để gọi: Hai Đen,
Tư Mập, Hùng Khèo… Cũng có khi dựa vào nghề nghiệp chức vụ để gọi:
Binh Chức, Bá Kiến, Cai Huy… Cách gọi tên trên trở thành thói quen thông
dụng tự nhiên ở nông thôn. Trong các tác phẩm viết theo khuynh hướng
phong tục, Kim Lân đã sử dụng thói quen truyền thống của dân gian để đặt
tên cho các nhân vật như: Văm Lớn, Trưởng Thuận, Cả Chuẩn (Con mã mái),
Trạng Sặt, Trạng Kế, Trạch Khô, Quắm Đen, Thằng Quynh (Thượng tướng
Trần Quang Khải - Trạng Vật), ông Cả, anh Tư, Thân (Đứa con người vợ
lẽ), Chánh Bảy, Cả Sâm (Trả lại đòn)… cách đặt tên như thế phù hợp với
việc diễn tả phong tục làng quê, quen thuộc dễ gọi, gần gũi.
Một điểm nữa chúng ta cần nhận thấy đó là cấu trúc không gian của làng
quê truyền thống không phức tạp, nhưng cũng không hề đơn giản đến mức
đơn điệu. Không gian làng quê trong sáng tác của nhà văn Nam Cao chủ yếu
là không gian mang tính chất khép kín, tù đọng, con người dường như bị bó
hẹp trong khuôn khổ chật hẹp, rặng tre, bụi tre, ánh trăng… Còn riêng với
Kim Lân, ông đến với làng quê, thiên nhiên cảnh vật một cách tự nhiên nhất,
lấy bối cảnh thôn quê để từ đó khởi nguồn cho bức tranh quê truyền thống của
người dân Việt.
Không gian làng trong tác phẩm Trả lại đòn là khoảng không gian của
làng mạc, cánh đồng lúa chín, rặng tre… “từng cơn gió lướt qua cánh đồng
lúa chín lào xào, đưa một mùi thơm nhẹ nhàng, đặc biệt của nơi thôn dã về vụ

này. Ở những làng mạc xa xa, sương dâng lên trắng nửa mình tre, làm cho
phần ngọn đen sẫm lại. Từng tiếng chuông từ gác tam quan chùa Dận buông
ra không trung, vọng xa xa, ngân nga và buồn não nuột.” [12, 93]. Đó còn là


không gian của nhà Chánh Bảy rộng rãi bề thế “Đủ cả ao trước vườn sau.
Năm gian nhà lim, cửa bức bàn, sừng sững trổi giữa cái xóm nghèo, rúm ró
những mái tranh mỏng và khúm núm, gầy guộc. Hai dẫy nhà ngang cũng lợp
ngói chạy dọc trở xuống, ôm lấy chiếc sân gạch Bát Tràng rộng bát ngát. Hai
dãy cau chạy thẳng tắp từ nhà trên đến chiếc tường hoa cuối xuân. Ở đấy, có
một bể nước “xi măng” mui vồng, và bên trên có cây hương nhỏ. Bên ngoài
dãy tường hoa là vườn cây, có dăm gốc na, vài gốc ổi, một cây chanh tứ thời,
xanh tốt rườm rà. Gần bờ ao, có hai cây khế: một cây ngọt, một cây chua, và
một cây sung quả chi chít, thân ngả xuống mặt ao thành một cái cầu thiên
tạo. Ở giữa khoảng vườn ấy lại còn kê thêm bốn vực thóc cao lừng lững.
Vườn sau nhà lại còn rộng rãi gấp mấy. Đấy là chỗ nuôi gia súc. Có chuồng
trâu, cây ăn quả mùa nào thức ấy không thiếu thứ gì” [12, 100]. Hình ảnh của
một gia đình giàu có, tiền rương thóc mục, ruộng sâu ao cá, tất cả đều hiện
hữu sống động trong không gian làng quê nông thôn thuần túy.
Không chỉ có vậy, bối cảnh làng quê còn hiển hiện qua tác phẩm Con
mã mái “mảnh sân đất nhỏ hẹp chạy dài trước ba gian nhà tranh lụp xụp”;
“Giàn thiên lí, chính giữa, thấp lè tè, cành lá xum xuê che chiếc bể cạn thả cá
vàng và bốn chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kĩ, sứt mẻ: hai chậu Bạch ngọc và
hai chậu Nhất điểm. Trong bể, kê một hòn non bộ sần sùi, gân guốc; cỏ tóc
tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu bí mật đối với bọn người sành bé nhỏ,
đặt theo điển tích” [12, 49].
Làng quê Việt còn hiện lên với cảnh sống chật chội, nghèo túng, buồn
hiu hắt cùng những biến động của đời người. Chốn thôn quê yên bình ấy xen
lẫn cảnh đời sống chật vật khó khăn, túng thiếu trong bối cảng xã hội đương
thời được Kim Lân miêu tả ở truyện Người kép già “Một làn không khí nhạt

nhẽo bao bọc”; “gian nhà tranh lụp sụp”; “gian nhà ngói cổ”; “mấy ngọn cau
đen sẫm in trên nền trời sáng đục. Tàu mềm lả là thế mà không hề lay động”


×