Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Nghiên cứu tác hại, sự phân tán của bụi và biện pháp làm giảm ảnh hưởng của bụi với người lao động trong công tác hoàn thiện trên công trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.53 KB, 3 trang )

KHOA H“C & C«NG NGHª
3.1.3. Phân tích mối liên hệ giữa số tầng hầm và chiều
sâu tường tầng hầm khi được chống đỡ bằng tường
ngang
Dựa vào các kết quả có được từ nghiên cứu trên, ta
lập được các đồ thị biểu diễn mối liên hệ giữa số tầng
hầm, chiều dày lớp tường ngang và chiều sâu tường tầng
hầm, với trục tung là chiều dày tường ngang, trục hoành
là chiều sâu tường vây được thiêt lập như các đồ thị từ
1 đến 6.
Theo kết quả tính toán các trường hợp trên cho thấy
đặc điểm của địa chất có ảnh hưởng rất lớn tới chuyển
vị của TTH. Trong bài toán này, tác giả xét đến điều kiện
địa chất rất yếu. Độ sâu tới đáy lớp đất yếu tính từ đáy
móng là 12m (chiều dày cả lớp là 15m, 18m) và chuyển
vị thường lớn nhất ở trong phạm vi lớp đất này. Từ đó có
thể thấy việc sử dụng tường ngang xi măng đất để chống
đỡ tại vị trí đáy móng là rất hiệu quả.
Trường hợp không sử dụng tường ngang:
Với công trình 3TH, TTH dày 0,6m thì tường vây không
thể đảm bảo điều kiện chuyển vị. Khi tăng chiều dày TTH
lên 0,8m và 1m thì chiều sâu TTH vẫn rất lớn mà không
đảm bảo theo quy định (bảng 4).
Với công trình 4TH, dùng TTH dày 0,8m thì tường vây
không thể đảm bảo điều kiện chuyển vị. Tăng chiều dày
TTH lên 1m và 1,2m thì chiều sâu TTH phải rất lớn mà
không đảm bảo theo quy định (bảng 5).
Như vậy việc tăng chiều sâu và chiều dày của tường
tầng hầm là không hiệu quả trong trường hợp này
Trường hợp có sử dụng tường ngang:
Với công trình 3TH, sử dụng tường ngang dày 2m


chống đỡ là có thể dùng TTH dày 0,6m và sâu 32m. Sau
đó cứ tăng 1m chiều dày tường ngang thì lại giảm được
chiều sâu TTH (bảng 4).
Với công trình 3TH, có TTH 0,8m khi sử dụng 3m
tường ngang có thể giảm đươc đến 21,2% chiều sâu so
với khi không sử dụng tường ngang (bảng 5).

Trường hợp 4TH, chỉ sử dụng TTH dày 0,8m khi có
tường ngang dày ít nhất 2m. Khi TTH dày 1m kết hợp
tường ngang 4m có thể giảm đến 19% chiều sâu TTH so
với khi không có tường ngang (bảng 5).
Khi rút ngắn chiều sâu TTH nằm trong lớp đất yếu thì
dù có sử dụng tường ngang đến 5m cũng không đảm bảo
được chuyển vị (trong tất cả các trường hợp đã xét), vì lúc
này chân TTH không có lớp đất tốt chống đỡ, sẽ bị trượt.
Tác giả đề xuất phương án khoan trộn sâu xi măng đất để
tạo tường ngang ở ngay dưới chân TTH, nhưng điều này
phụ thuộc vào công nghệ thi công có đảm bảo hay không.
Kết luận
- Chống đỡ tường tầng hầm nhà cao tầng bằng tường
ngang thi công theo phương pháp trộn sâu là một giải
pháp nhằm hạn chế chuyển vị ngang của tường chắn đất
đảm bảo điều kiện ổn định và an toàn cho bản thân công
trình và các công trình lân cận.
- Phương pháp gia cố này thường được sử dụng khi
nền đất có lớp đất yếu có chiều dày lớn nằm giữa các lớp
đất tốt. Chuyển vị ngang cho phép của tường tầng hầm
là tiêu chuẩn đánh giá giải pháp chống đỡ bằng tường
ngang.
- Tường ngang bằng đất trộn sâu có mô đun đàn hồi

và sức kháng cắt lớn gấp nhiều lần so với nền đất yếu do
đó có thể giảm biến dạng của nền đất khi chịu tải.
- Các kết quả nghiên cứu với tường tầng hầm có chiều
dày khác nhau và độ sâu hố đào khác nhau cho thấy khi
sử dụng tường ngang, độ sâu chôn tường được giảm đi
đáng kể so với trường hợp không sử dụng tường ngang
(có trường hợp lên đến 21%). Đẩy trồi đáy hố đào, chuyển
vị lún mặt nền đồng thời cũng giảm xuống. Kết quả nghiên
cứu với 31 trường hợp được thể hiện trên bảng 4 và bảng
5 cùng các đồ thị từ đồ thị 1 đến đồ thị 6
- Tường tầng hầm vẫn cần được ngàm vào lớp đất tốt
phía dưới lớp đất yếu một giá trí nhất định. Trong trường
hợp không thể ngàm vào lớp đất tốt phía dưới, giải pháp
được đề xuất là thi công tường ngang ngay tại vị trí chân
tường chắn đất./.

T¿i lièu tham khÀo
1. Đỗ Đình Đức, Thi công hố đào cho tầng hầm nhà cao tầng trong
đô thị Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kỹ thuật, (2002)
2. Đinh Hoàng Hải, Quy trình công nghệ cột đất – vôi và đất - xi
măng, Luận văn thạc sỹ kỹ thuật, (2002)
3. Nguyễn Bá Kế, Xây dựng công trình ngầm đô thị theo phương pháp
đào mở, nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, (2008)
4. Lê Kiều, Chất lượng bê tông cốt thép cọc nhồi và tường Baret, Báo
cáo hội thảo “Những bài học kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam về
công trình ngầm đô thị”, (2008)
5. Nguyễn Văn Quảng, Nền móng và tầng hầm nhà cao tầng, Nhà
xuất bản Xây dựng, Hà Nội, (2008)
6. Nguyễn Văn Quảng, Chỉ dẫn thiết kế và thi công cọc barét, tường
trong đất và neo trong đất, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội,

(2008)
7. Đoàn Thế Tường. Các dạng nền tại đô thị Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh và đánh giá chúng phục vụ xây dựng công trình ngầm,
Bài báo khoa học.
8. Nguyễn Viết Trung, Cọc xi măng đất phương pháp gia cố nền đất
yếu, Nhà xuất bản xây dựng, (2011)

72

9. TCXDVN 385: 2006, Phương pháp gia cố nền đất yếu bằng trụ xi
măng đất, nhà xuất bản Xây dựng.

T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG

10.Tiêu chuẩn thành phố Thượng Hải, Quy phạm kỹ thuật xử lý nền
móng, TP Thượng Hải, (1994)
11.Tiếng anh:
12.Cassadra Rutherfor, Giovanna Biscontin, and Jean –Loius Briaud
Texas A&M University); Design manual for excavation support
using deep mixing technology
13.Wong kai sin (Nanyang Technological University), esign analysis
deep excavations, 2009
14. Chang –Yu Ou (2006), Deep Excavation, Theory and Practice.
15. Thomas Telford (1996), Deep Excavations: a practical manual,
London.
16.
17.

Nghiãn cöu t¾c hÂi, sú phÝn t¾n cÔa bÖi
v¿ bièn ph¾p l¿m giÀm Ành hõòng cÔa bÖi

vði ngõñi lao ½îng trong céng t¾c ho¿n thièn
trãn céng trõñng

ThS. PhÂm Minh }öc

Tóm tắt
Bụi sinh ra trong quá trình sản xuất công
nghiệp nói chung không những gây ô nhiễm
môi trường, làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe người lao động mà còn là nguyên nhân
gây gây ra nhiều vụ cháy nổ trong khu vực sản
xuất. Trên công trường thi công xây dựng, môi
trường làm việc của công nhân luôn tồn tại
lượng bụi phát sinh đáng kể. Do đó, việc dập
bụi là vô cùng cần thiết giúp người lao động có
sức khỏe tốt và giảm nguy cơ mắc bệnh nghề
nghiệp do bụi. Bài viết này đề cập đến việc
nghiên cứu sự phân tán của bụi phát sinh trong
các công tác thi công ở giai đoạn hoàn thiện
công trình xây dựng.

Abstract
Dust generated in the process of industrial production
generally does not only pollute the environment,
directly affect the human health but also cause
explosion in production areas. On the construction
site, the working environment exists considerable
amount of dust. Thus, the dust suppression is essential
to help workers with good health and reduce the
diseases due to dust. This paper refers to the study

of the dust dispersion in the finishing stages of
construction.

ThS. Phạm Minh Đức
Bộ môn Công nghệ và tổ chức thi công, Khoa Xây dựng
ĐT: 0912534524
Email:

I. Mở đầu
Bụi  là tên chung cho các hạt  chất rắn  có  đường
kính nhỏ cỡ vài micrômét đến nửa milimét, tự lắng xuống
theo trọng lượng của chúng nhưng vẫn có thể lơ lửng
trong không khí một thời gian sau. Hạt có kích thước >
10µ gọi là bụi,các hạt to hơn có thể gọi là cát, sỏi.
Có loại bụi vô cơ hoặc hữu cơ, bụi nhân tạo do các
hoạt động của con người trong các qui trình sản xuất hay
sinh ra trong tự nhiên bởi các hoạt động bào mòn, va đập
vật lý.
Các loại bụi nói chung thường có kích thước từ 0,001µ
- 10µ,  bụi lắng lớn hơn 10µ thường rơi xuống với vận tốc
tăng dần theo định luật Niutơn. Bụi có kích cỡ hạt từ 10µ
- 7µ - 0,1µ là sương mù và có kích cỡ < 0,1µ gọi là khói.
Công nhân làm việc môi trường có bụi, nhất là ở công
trường xây dựng, bụi > 10µ thường đọng lại ở cánh mũi,
từ 5µ -10µ vào phổi nhưng được phổi thải ra ngoài, các
hạt nhỏ < 5µ có thể vào tận phế nang của người khi hít
thở và ở lại phổi với khối lượng từ 80% - 90% khi hít vào.
Loại bụi < 0,1µ không ở lại trong phế nang mà gây ảnh
hưởng trực tiếp đến cơ quan hô hấp.
Khi bụi phân tán mạnh trong không khí hay các chất

khí  nói chung, hỗn hợp khí và bụi được gọi là  aerosol
rắn, bao gồm tro, muội, khói và những hạt chất rắn tồn
tại dưới dạng hạt rất nhỏ, chuyển động theo kiểu Brown,
hoặc rơi xuống đất với tốc độ không đổi theo định luật
Stock.
II. Ảnh hưởng của bụi đến sức khỏe người lao động
trong xây dựng
Bụi là chất phát thải chiếm tỉ lệ rất lớn trong quá trình
sản xuất. Hầu hết các hoạt động sản xuất công nghiệp
đều phát sinh ra bụi như : sản xuất xi măng thải ra bụi,
khí SO2...; luyện cán thép thải ra bụi, khí CO, NO2...; sản
xuất gạch, gốm phát sinh bụi, khí HF...; xây dựng các
công trình dân dụng, thủy lợi, giao thông gây bụi trong
các giai đoạn thi công do các công tác đất, trộn các loại
vữa sử dụng...
Bụi có khả năng di chuyển trong không khí trong
phạm vi rộng, có thể gây bệnh cho cả những người ở
những khu vực lân cận.Tỉ lệ người mắc bệnh bụi phổi so
với số người nghi ngờ khám phát hiện bệnh nghề nghiệp
rất cao chiếm 40,7 % (năm 2002). Người lao động làm
việc lâu ngày trong môi trường có nồng độ bụi vượt quá
tiêu chuẩn vệ sinh cho phép thường dẫn đến các loại
bệnh như:
- Các bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, viêm phế
quản, ung thư phổi, tràn dịch màng phổi, dầy màng phổi,
S¬ 24 - 2016

73



KHOA H“C & C«NG NGHª
Bảng 1. Tình hình khám phát hiện bệnh bụi phổi Silic trong các nhóm nghề ngành Xây dựng
STT
1
2
3
4
5

Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Cộng

Tổng số khám
460
1185
430
664
1344
4238=10%

Thể nghi ngờ (0/1p)
Số lượng
Tỷ lệ%
11
2,4

38
3,2
21
34,9
23
3,5
35
2,6
128
3,2

xẹp phổi. Đặc biệt là các bệnh phổi bị nhiễm bụi (bụi phổi).
Loại bụi hữu cơcó chứa chất gây co thắt phế quản, phù
nề niêm mạc và gây nên bệnh bụi phổi bông. Nhiễm bụi
cấp tính có thể làm cho người lao động có biểu hiện tức
ngực, khó thở, nhức đầu, mỏi mệt, suy hô hấp mãn, suy
tim đưa đến tử vong.
- Với bụi Silic, người lao động luôn phải tiếp xúc với
nồng độ bụi cao dễ gây xơ hóa phổi, dính màng phổi. Tiếp
xúc thời gian dài có nguy cơ bị ung thư phổi, bội nhiểm vi
khuẩn và đặc biệt gây bệnh bụi phổi nghề nghiệp. Bệnh
này gây xơ hóa phổi và bệnh tiến triển không ngừng, ngay
cả khi người lao động rời khỏi khu vực làm việc không tiếp
xúc với bụi, bệnh không có khả năng hồi phục và nhiều
trường hợp biến chứng gây tử vong.
- Các loại bệnh ngoài da, mắt như hiện tượng ăn mòn
da, nấm mốc, sạm da, viêm loét giác mạc, giảm thị lực...
1. Tình hình bệnh bụi phổi Silíc trong ngành Xây
dựng
Bệnh bụi phổi silic là bệnh phổ biến nhất trong các

loại bệnh nghề nghiệp trên cả nước nói chung và trong
ngành Xây dựng nói riêng. Những năm gần đây, các biện
pháp phòng chống bệnh bụi phổi silic đã được đẩy mạnh
và quan tâm đáng kể. Tuy nhiên, việc phát hiện và phòng
chống còn nhiều khó khăn, bởi lẽ:
- Việc ứng dụng công nghệ sạch hiện nay ở nước ta
nói chung chỉ đang ở giai đoạn đầu vì trình độ khoa học
công nghệ và kinh tế của nước ta chưa cao.
- Tuy đã tăng cường tuyên truyền, giáo dục phòng
chống bệnh bụi phổi silic trên nhiều phương tiện truyền
thông nhưng nhận thức của doanh nghiệp vẫn chưa có
sự chuyển biến rõ nét.
- Thủ tục hành chính trong việc khám, kết luận và giải
quyết chính sách còn nhiều phức tạp nên chưa động viên
người lao động đi khám. Bên cạnh đó, chế tài xử phạt các
doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định về chế độ
khám phát hiện bệnh nghề nghiệp chưa nghiêm.

Thể mắc bệnh
Số lượng
Tỷ lệ%
17
3,7
8
0,7
1
0,2
10
1,5
10

0,7
46
1,1

Theo bảng số liệu trong Bảng 1, số trường hợp được
khám định kỳ so với số nguy cơ còn thấp. Hàng năm mới
khám định kỳ trung bình chưa đạt 1000 lượt công nhân
(không kể những trường hợp được khám theo các đề tài
và dự án).

Hình 2. Các đường cong phân phối tích lũy của
đường kính hạt bụi phát sinh trong quá trình hoàn
thiện công trình (nhào vữa, làm sạch tường, cắt gạch
men, cưa bào gỗ...). Các mẫu ở khu vực 2

2. Một số loại bụi (thường gặp) phát sinh trong giai
đoạn hoàn thiện công trình xây dựng và tiêu chuẩn vệ
sinh cho phép
Trong hoạt động thi công xây lắp, có rất nhiều bụi phát
sinh thuộc các nhóm hữu cơ và vô cơ với các kích cỡ
hạt khác nhau gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới
người lao động ở các giai đoạn thi công khác nhau từ lúc
bắt đầu tới khi kết thúc. Giai đoạn công trình đi vào hoàn
thiện các công tác đa phần được thực thi tại vị trí các tầng
nhà; tại các ô kín hoặc hở (ô phòng, ô cầu thang…). Do
vậy, cần phải xem xét một cách tương đối cụ thể loại bụi
thường gặp và các tính chất hoạt động của nó để có thể
ngăn ngừa tác hại đối với người lao động trực tiếp. Theo
thống kê, có hai loại cơ bản như sau:
- Bụi bông: phát sinh chủ yếu khi thực hiện các công

tác mộc dân dụng như: cưa, cắt lắp dựng các tấm sàn gỗ,
cửa gỗ, trang bị nội thất….

không che chắn khu vực cưa cắt vật tư gây bụi như gạch,
gỗ; ý thức vệ sinh công nghiệp kém trong thực hiện nhiệm
vụ….
Khi thực hiện nhiệm vụ trong các tầng nhà hoặc từng
phòng riêng biệt (tạm gọi là một ô không gian hữu hạn),
lượng bụi phát sinh phân tán theo sự lưu chuyển của
dòng không khí chứa bụi bên trong. Do (bụi) là tập hợp
nhiều hạt có kích thước lớn nhỏ khác nhau tồn tại lâu
trong không khí dưới dạng:
- Bụi bay, khi những hạt bụi lơ lửng trong không khí
(gọi là aerozon),

Giá trị giới hạn: Nồng độ tối đa cho phép bụi bông
(trung bình lấy mẫu 8 giờ) là 1 mg/m3

- Bụi lắng, khi chúng đọng lại trên bề mặt vật thể (gọi
là aerogen),

- Bụi Silicat (loại bụi có chứa silic tự do SiO2) : Thường
gặp trên khu vực sản xuất do công tác trộn các loại vữa
xây, vữa trát bề mặt cấu kiện; các công tác như cưa cắt
gạch gốm dùng trong ốp, lát trang trí bề mặt công trình
trong và ngoài nhà.

- Và các hệ khí dung nhiều pha, gồm: Hơi, Khói và Mù.

Giá trị nồng độ tối đa cho phép bụi Silicat có kích thước

từ 0,2 – 5 mm trong ca làm việc theo bảng sau:
Bảng 2. Giá trị nồng độ tối đa bụi Silic
Hàm lượng Silic (%)

Nồng độ bụi hô hấp (mg/m3)

Trên 100

0,1

50 – 100

0,5

20 – 50

1,0

Dưới 20

2,0

Tính trung bình toàn Ngành, tỷ lệ mắc bệnh là 6.1 %
và đối tượng nghi ngờ (thể 0/1 p) cần được dự phòng
để bệnh không phát triển là 6.9 %. Như vậy, chỉ ước tính
riêng các cơ sở do Bộ xây dựng quản lý đã có 2593 ca
bệnh phổi silic (6.1 % x 42500 công nhân) và 2392 trường
hợp nghi ngờ thể 0/1 p (6,9 % x 42500 công nhân).

III. Sự phân tán của bụi trong thi công hoàn thiện

công trình

Do nhiều khó khăn khác nhau nên công tác khám phát
hiện bệnh bụi phổi silic chưa đáp ứng với yêu cầu. Thực
tế, số công nhân được khám định kỳ (không kể các công
nhân được khám nhờ các đề tài và dự án) do Trung tâm Y
tế Xây dựng thống kê từ năm 1999 đến 2003, như bảng
1.

Trong giai đoạn thực hiện các công tác hoàn thiện của
công trình, nhất là với loại công trình dân dụng ở nước ta
hiện nay, vẫn sử dụng chủ yếu các qui trình công nghệ
cũ với mức cơ giới hóa chưa cao. Cộng với ý thức trong
sản xuất kém dẫn đến gia tăng sự phát sinh của bụi như:
chuyên chở vật tư cát, xi-măng dạng rời; trộn vữa tại chỗ;

74

Hình 1. Vị trí lấy mẫu trong không gian
chứa bụi khi thi công hoàn thiện công trình

T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG

Bảng 3. Phân loại bụi phát sinh theo kích thước
Phân loại
Bụi bay
Các hạt mù
Các hạt khói
Bụi lắng


Kích thước điển hình, [micromet]
0,00110
0,1   - 10
0,001-  0,1
>10

Thông thường, luôn có các lỗ trống xung quanh ô.
Điều này đảm bảo cho việc thông gió tự nhiên bên trong
khi có gió thổi bên ngoài. Hướng của dòng chảy không
khí mang bụi luôn thay đổi và có thể xác định theo hướng
gió ngoài nhà. Ngoài ra, trong điều kiện đặc biệt khó hoặc
không thể thực hiện được việc thông gió tự nhiên phải sử
dụng giải pháp thông gió cưỡng bức thông qua các lỗ mở
và không khí được lưu thông qua các hộp được gắn bên
ngoài [5].
Thực tế thi công trên công trường, hầu hết đều thực
hiện biện pháp thông gió tự nhiên ở mức tối đa. Nên chỉ
tập trung xem xét sự phân bố của bụi ở điều kiện này. Bụi
có trong không khí được phân tán khắp ô theo chiều rộng
và chiều sâu. Tiến hành khảo sát một ô được thực hiện
trong giai đoạn hoàn thiện của công trình dân dụng ở điều
kiện thi công bình thường (thông gió tự nhiên), không xem

xét tới chủng loại riêng biệt của các hạt đồng thành phần
tại ba khu vực cao độ khác nhau trong ô:
- Thấp (0mm ÷ 350mm)
- Giữa (350mm ÷ 1700mm) không gian lao động
- Cao (trên 1700mm)
Cho thấy, sự di chuyển của luồng không khí lưu thông
liên tục trong ô làm phân tán các hạt bụi tạo thành ở các

khu vực khác nhau hiện tượng bụi lắng đọng bề mặt phía
thấp 1, lơ lửng ở khu vực giữa 2 và bụi bay (dạng mù) ở
trên đỉnh 3. Tuy nhiên, việc phân loại chính xác kích cỡ
hạt ở tại 3 khu vực nói trên khó có con số chính xác tuyệt
đối do tốc độ luồng khí bởi thông gió tự nhiên luôn thay
đổi theo điều kiện tự nhiên. Ngoài ra, độ ẩm cao thấp của
không khí bên trong kéo theo sự phân bố và tích tụ nồng
độ bụi thay đổi ở các khu vực đang xét.
Trong quá trình khảo sát, các công tác đo lường, phân
tích các thành phần hạt (bụi) phát tán trong môi trường
được thực hiện bằng kính hiển vi thông qua chụp ảnh
không khí có chứa bụi và sử dụng máy tính để phân tích
ảnh [6]. Phương pháp này có hiệu quả khi xem xét với
loại bụi mịn (bụi bay-aerozon) phát tán trong khu vực lao
động phát sinh khi vận chuyển các loại vật tư dạng bột,
công tác chế tác vật phẩm từ vật liệu gốm khi thi công
hoàn thiện.
Thực tế cho thấy lượng bụi trong không khí tại vị trí
khảo sát chủ yếu (chiếm 95%) là dạng bụi bay (aerozon).
Nghiên cứu được bắt đầu với các mẫu không khí được
chụp ảnh qua phóng đại từ 200 – 2000 lần bằng kính hiển
vi, số lượng ảnh cần thiết được đưa vào máy tính để sử
lý, so sánh số liệu phụ thuộc vào mức độ phân tán của
nồng độ bụi qua các mẫu. Bằng việc sử dụng các phần
mềm có sẵn như gói đồ họa Adobe Photoshop để lưu các
ảnh có định dạng Windows Bitmap (BMP) với hai màu
đen – trắng (1 bit / pixel). Đó là cách thuận tiện để mô tả
rõ các thành phần hạt của bụi ở trong các ô khảo sát trên
thực địa [5,9], từ đó đưa ra biểu đồ đường cong phân bố
các loại đường kính của các hạt bụi trong một khu vực

khảo sát.
S¬ 24 - 2016

75


KHOA H“C & C«NG NGHª
- Làm ẩm ướt hoặc che kín nguồn phát sinh ra bụi.
Nhà xưởng đặt cuối chiều gió cách xa bộ phận làm việc
không có bụi. Không dùng quạt trần chống nóng hay
thông khí nhà xưởng.
- Giảm thời gian làm việc tiếp xúc với bụi. Tổ chức bồi
dưỡng giữa ca làm việc để ngăn ngừa bệnh tật và bảo
đảm sức khoẻ cho người lao động nếu chưa khắc phục
hết các yếu tố độc hại trong môi trường lao động.
- Sử dụng các phương tiện bảo vệ cá nhân thích hợp
ngăn bụi qua đường hô hấp, tiêu hóa, mắt và tiếp xúc
ngoài da.

Hình 3. Thực hiện che chắn một phần công trình
đơn vị nhằm tăng cường yếu tố thông gió tự nhiên

Hình 4. Che chắn bộ phận tại các khu vực
thi công ở công trình đơn vị

- Không bố trí người có tiền sử bệnh về đường hô
hấp và người bị nhiễm bệnh bụi phổi làm việc trong môi
trường có bụi.
- Hàng năm đo môi trường lao động và khám phát
hiện bệnh nghề nghiệp, chụp phổi và đo các chức năng

hô hấp.
- Tổ chức tập huấn cho người làm việc có tiếp xúc với
bụi biết tác hại của bụi và các biện pháp làm việc an toàn.
3. Một số biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng của bụi
khi thi công hoàn thiện
- Che chắn khu vực phát sinh bụi


+ Khi thi công cụm công trình:



Hệ thống phun sương dập bụi là phương pháp được
áp dụng nhiều nhất hiện nay trên toàn thế giới. Hệ thống
này gồm các phần: bơm, ống dẫn và quan trọng nhất là
các béc phun sương.
Đối với việc dập bụi ngoài trời, hệ thống phun sương
dập bụi được thiết kế riêng, có quạt gió đi kèm để tăng
hiệu quả dập bụi và sử dụng được trên phạm vi diện tích
lớn.
V. Kết luận
Từ những nghiên cứu về sự phân tán của bụi trong khu
vực làm việc của công nhân khi thi công ở giai đoạn hoàn
thiện công trình xây dựng, biện pháp lưu chuyển không
khí cục bộ và tạo ẩm cục bộ được xem xét là đơn giản
và hiệu quả nhất để tránh tác hại của bụi đối với người
lao động trực tiếp; nên sử dụng các biện pháp thông gió
tự nhiện theo điều kiện địa hình, thời tiết theo đặc thù
của khu vực thi công. Trong điều kiện khó khăn hơn như
không gian hẹp, nồng độ bụi cao thì kết hợp thông gió

cưỡng bức (có tính toán cụ thể) để hạn chế nồng độ bụi.
Làm ẩm khu vực thi công bằng việc phun tạo ẩm cưỡng
bức công nghiệp bằng các béc phun sương hoặc bằng
nhiều cách khác nhau tùy theo điều kiện của từng công
trường, đồng thời luôn phân vùng và cách ly khu vực gây
bụi bằng các loại lưới che chắn để chủ động xử lý, tránh
bụi khuyếch tán và thuận tiện trong tổ chức thực hiện./.

T¿i lièu tham khÀo

Hình 5. Béc phun sương tạo ẩm cục bộ
khu vực thi công

Kết quả cho thấy: tỷ lệ các hạt có kích cỡ 10µm và
2,5µm sẽ là 13% và 0,4% trong thành phần bụi có loại
hạt kích thước d>30µm phổ biến tại khu vực 2. Tại vị trí
khu vực 1 tỷ lệ các loại hạt bụi chiếm đa số là các hạt có
kích cỡ d>85µm, trong khi đó khu vực 1 đa phần là bụi
có kích cỡ hạt trung bình d≤ 2µm. Có thể nhận định rằng
khi tăng lưu tốc của không khí ở phần trên ô (khu vực 3)
sẽ cuốn theo các hạt bụi bay (aerozon) và làm chậm lưu
thông không khí ở phía dưới ô (khu vực 1) sẽ làm tích tụ
và lắng đọng các hạt bụi lớn (aerogen), vì thế có thể giảm
thiểu được nồng độ bụi ở mức (và trên mức) an toàn cho
người lao động.
Do vậy, cần tính toán vị trí, diện tích các khe nhận và
thoát khí trong từng phân khu thi công trong sử dụng biện
pháp thông gió tự nhiên theo địa hình, mùa và thời tiết của
giai đoạn thi công hoàn thiện công trình. Nên chủ động kết
hợp hệ thống thông gió cưỡng bức đối với khu vực thi

công có nồng độ bụi phát sinh tức thời lớn và các trang bị
lọc bụi đi kèm.
IV. Một vài kiến nghị và giải pháp hạn chế ảnh hưởng
của bụi trong thi công hoàn thiện
Kiểm soát ô nhiễm không khí bụi một cách triệt để phải
tiến hành theo 2 hướng:

76

Hình 6. Hệ thống béc phun sương ngoài trời
trên mặt bằng thi công

1. Giảm sự phát thải bụi từ nguồn gây ra bụi
- Dùng biện pháp thay đổi công nghệ (sản xuất sạch
hơn). Đây là biện pháp mang tính tích cực, chủ động và
mang lại hiệu quả to lớn. Cụ thể như:

1. Nguyễn Bá Dũng, Nguyễn Đình Thám, Lê Văn Tin. Kỹ thuật an
toàn & vệ sinh lao động trong xây dựng. Nhà xuất bản Khoa học
và kỹ thuật, Hà Nội 2001.
2. Bùi Mạnh Hùng. Bảo hộ lao động trong xây dựng. Nhà xuất bản
xây dựng, Hà nội 2011
3. Báo cáo thanh tra của sở xây dựng Hà Nội tại các công trình có
tai nạn lao động
4. Báo cáo thanh tra của sở xây dựng Thành Phố Hồ Chí Minh tại
các công trình có tai nạn lao động.
5. Аэродинамика и вентиляторы. Л. : Машиностроение,
1986. С. 280.

+ Thay thế nguyên liệu, nhiên liệu sản xuất. Thay thế

nguyên, nhiên liệu thải ra nhiều bụi bằng các nguyên,
nhiêu liệu thải không ô nhiễm hoặc ít ô nhiễm nhưng vẫn
đảm bảo chất lượng sản phẩm.

6. Методика микроскопического анализа дисперсного состава
пыли с применением пер- сонального компьютера (ПК) / В.
Н. Азаров, В. Ю. Юркъян, Н. М. Сергина, А. В. Ковалева //
Законодательная и прикладная метрология. 2004. № 1. С.
46—48.

+ Thay thế quy trình công nghệ, thay đổi công nghệ
khô bằng công nghệ ướt, cơ giới hóa, tự động hóa các
khâu sản xuất phát thải nhiều bụi.

7. Азаров В. Н., Калюжина Е. А. Об организации мониторинга
РМ10 и РМ2,5 на примере г. Волгограда // Вестник Волгогр.
гос. архит.-строит. ун-та. Сер.: Стр-во и архит. 2011.
Вып. 25(44). С. 398—402.

+ Thực hiện đúng chế độ vận hành, bảo dưỡng thiết
bị là biện pháp không tốn kém nhưng trong nhiều trường
hợp mang lại hiệu quả cao.

8. Азаров В. Н., Маринин Н. А., Жоголева Д. В. Об оценке
концентрации мелкодисперсной пыли (РМ10 и РМ2,5) в
атмосфере городов // Изв. Юго-Западного государственного
университе- та. 2011. № 5(38). Ч. 2. Курск. С. 144—149.

- Dùng các phương pháp xử lý bụi, lọc bụi, che chắn
nguồn phát sinh ra bụi.

2. Giảm sự tác tác động của bụi đến người lao
động

+ Phun ẩm khu vực có nồng độ bụi cao

10.Aerodinamika i ventilyatory. L. : Mashinostroenie, 1986. S. 280.
11.Metodika mikroskopicheskogo analiza dispersnogo sostava pyli s
primeneniem per- sonal’nogo komp’yutera (PK) / V. N. Azarov, V.
Yu. Yurk”yan, N. M. Sergina, A. V. Kovaleva // Zakonodatel’naya
i prikladnaya metrologiya. 2004. № 1. S. 46—48.
12.Azarov V. N., Kalyuzhina E. A. Ob organizatsii monitoringa
RM10 i RM2,5 na primere g. Volgograda // Vestnik Volgogr.
gos. arkhit.-stroit. un-ta. Ser.: Str-vo i arkhit. 2011. Vyp. 25(44).
S. 398—402.
13.Azarov V. N., Marinin N. A., Zhogoleva D. V. Ob otsenke
kontsentratsii melkodispersnoy pyli (RM10 i RM2,5) v atmosfere
gorodov // Izv. Yugo-Zapadnogo gosudarstvennogo universiteta.
2011. № 5(38). Ch. 2. Kursk. S. 144—149.
14.Barikaeva N. S., Ivanov V. A., Marinin N. A. O provedenii
monitoringa vozdushnoy sredy na primere otdelochnostroitel’nykh rabot // Mezhdunarod. nauch.-tekhn. konf.
«Problemy okhrany pro- izvodstvennoy i okruzhayushchey
sredy». Vyp. 4. Volgograd, 2012.

9. Барикаева Н. С., Иванов В. А., Маринин Н. А. О проведении
мониторинга воздушной среды на примере отделочностроительных работ // Международ. науч.-техн. конф.
«Пробле-мы охраны производственной и окружающей
среды». Вып. 4. Волгоград, 2012.

Ngoài việc giảm thiểu ô nhiễm không khí bụi từ nguồn
phát sinh bằng các biện pháp nói trên, cần áp dụng các

biện pháp nhằm giảm tối thiểu ảnh hưởng của bụi trong
môi trường sản xuất đến người lao động:

T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG

S¬ 24 - 2016

77



×