Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Đề tài: Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.54 MB, 136 trang )

                                                      

3

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Là một quốc gia với chiều dài bờ biển khoảng 3260 km, Việt Nam có một 
lợi thế rất lớn trong việc phát triển kinh tế  biển và khai thác nguồn lợi từ  vùng  
bãi ven bờ. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng phải gánh chịu những thiệt hại hết 
sức nặng nề do thiên tai từ biển mang lại. Hàng năm, những cơn bão liên tiếp đổ 
bộ từ biển vào đất liền đã mang đi một khối lượng lớn về tài sản, tính mạng con  
người đồng thời để lại những thảm họa không nhỏ về môi trường mà nhiều năm 
sau con người vẫn chưa khắc phục được.
Trong những năm gần đây sự khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên của  
con người làm cho khí hậu toàn cầu thay đổi. Nhiệt độ  trái đất ngày càng nóng  
lên là vấn đề  thời sự  tạo ra mối quan tâm đặc biệt cho tất cả  các quốc gia trên 
thế giới. Hậu quả của hiện tượng này là mực nước biển ngày càng dâng cao kéo 
theo những thảm họa như bão biển, sóng thần, động đất …
Một trong những biện pháp khắc phục những thiên tai đó được các nước 
trên thế giới và Việt Nam áp dụng đã mang lại những hiệu quả rất thiết thực là  
xây dựng hệ thống đê biển để phòng chống thiên tai, bảo vệ tính mạng và tài sản 
của cư dân vùng ven biển.
Vùng ven biển Nam Bộ  từ  Bà Rịa ­ Vũng Tàu đến Kiên Giang là vùng đa  
dạng về  sinh thái, có vai trò lớn trong sự  phát triển kinh tế  của của miền Nam  
cũng như  của cả  nước. Dù vậy, tiềm năng kinh tế  đa dạng của vùng này vẫn 
chưa được khai thác tương xứng, kém ổn định, vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro do  
thiên tai. Một trong những nguyên nhân là hệ thống đê biển được hình thành qua  
nhiều thế  hệ  với quy mô, nhiệm vụ, chức năng ở  từng thời kỳ  khác nhau, việc 
xây dựng mang tính chắp vá, hiện tại chưa  đủ  khả  năng chống triều cường,  
nước biển dâng, để bảo vệ sản xuất và đời sống của nhân dân.


Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

4

Vì vậy, việc xây dựng hệ  thống đê biển, đê ngăn mặn cửa sông Nam Bộ 
hoàn chỉnh, đồng bộ với quy mô công trình có khả năng giảm nhẹ thiên tai là một  
nhu cầu cấp thiết nhằm ứng phó với những thay đổi về khí hậu toàn cầu, bảo vệ 
sự phát triển bền vững cho sản xuất và ổn định đời sống nhân dân trong vùng. 
Để hệ thống đê biển làm việc ổn định, an toàn và phát huy hiệu quả phòng 
chống thiên tai đồng thời tiết kiệm kinh phí đầu tư  xây dựng cần phải nghiên 
cứu các giải pháp xây dựng dựa trên các căn cứ khoa học.
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
­ Đánh giá thực trạng hệ thống đê biển Nam Bộ;
­ Xác định quy luật diễn biến của dải ven biển Nam Bộ;
­ Xác định được các thông số kỹ thuật, giải pháp thi công đê biển Nam Bộ.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Toàn bộ tuyến đê biển từ Bà Rịa – Vũng Tàu đến Kiên Giang, trong đó tập  
trung nghiên cứu một số đoạn điển hình, đại diện cho từng khu vực.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
­ Điều tra, thu thập, hệ thống hóa các tài liệu cơ bản phục vụ nghiên cứu;
­ Kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây;
­ Nghiên cứu lý thuyết cơ bản;
­ Sử dụng các phần mềm tin học hiện đại.
5. KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC
­ Đưa ra được bức tranh toàn cảnh về thực trạng hệ thống đê biển Nam Bộ.
­ Kiến nghị vị trí tuyến, quy mô công trình và các thông số kỹ thuật đê biển  
Nam Bộ.

­ Đề xuất kỹ thuật xây dựng đê biển Nam Bộ qua từng thời kỳ.

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

5

CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG ĐÊ BIỂN
1.1.1. Đê biển và giảm nhẹ thiên tai
Trong vài thập niên gần đây khí hậu toàn cầu có sự  biến đổi mạnh khiến  
cho ngày càng có nhiều tác động bất lợi đến môi trường sinh thái của trái đất.  
Một trong những hậu quả  của sự  thay đổi khí hậu toàn cầu đó là hiện tượng  
nước biển dâng. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do  ảnh hưởng của  
hiệu ứng nhà kính dẫn đến sự nóng dần lên của Trái đất, khiến cho các dải băng  
ở Bắc Cực tan nhanh hơn, nhiều nơi dải băng tan tới hơn 1 mét mỗi tháng; ngòai 
ra việc khai thác nước ngầm đang ngày càng gia tăng, đặc biệt tại các đô thị lớn,  
làm mặt đất bị  sụt lún. Theo cảnh báo của Liên hiệp quốc thì Việt Nam có thể 
chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của hiện tượng tan băng [15].
Theo tính toán, nếu mực nước biển toàn cầu tăng thêm 1 mét, Việt Nam sẽ 
phải đối mặt với mức thiệt hại lên tới 17 tỷ  USD/năm; 1/5 dân số  sẽ  mất nhà  
cửa và 12,3% diện tích đất trồng trọt của cả nước sẽ biến mất; 40.000 km² diện  
tích đồng bằng và 17 km² diện tích bờ  biển  ở  khu vực các tỉnh lưu vực sông 
Mêkông sẽ chịu tác động của những trận lũ ở  mức độ  không thể dự  đoán được. 
Theo các nhà khoa học, tại Việt Nam trong năm thập niên gần đây, hiện tượng 
Enso (hiện tượng nhiễu động nhiệt độ  của nước biển vùng xích đạo Thái Bình 
Dương) ngày càng có tác động mạnh mẽ  đến chế  độ  thời tiết và đặc trưng khí  

hậu trên nhiều khu vực. Dự báo nhiệt độ sẽ tăng tại các tỉnh miền Nam từ 0,1 ÷ 
0,50C vào năm 2010, từ 0,4 ÷ 30C (năm 2070) và tại miền Bắc từ 0,3 ÷ 0,70C (năm 
2010) và từ  1,2÷4,50C (năm 2070). Mực nước biển dự  báo sẽ  dâng cao thêm 
3÷15cm (năm 2010) và từ 15÷90cm (năm 2070).

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

6

Hình 1.1: Bản đồ dự báo các vùng ảnh hưởng nước biển dâng 
ở Đồng bằng Sông Cửu Long (Nguồn: ICEM)
Cũng liên quan đến sự thay đổi khí hậu toàn cầu đã khiến cho ngày càng có  
nhiều dạng thiên tai xảy ra như: bão, động đất, sóng thần, sạt lở..., với tần suất  
xuất hiện nhiều, cường độ  lớn cũng như  diễn biến khó lường, không tuân theo 
quy luật nào. Do vậy thiệt hại do thiên tai gây ra là rất lớn, theo thống kê chưa  
đầy đủ trong những năm gần đây chúng ta đã phải chứng kiến các thảm họa như: 
cơn bão Linda (bão số 5) tháng 11/1997 đổ bộ vào Nam Bộ làm 445 người chết,  
3.409 người bị  mất tích, 857 người bị  thương, 3.783 tàu thuyền bị  chìm, 22.000 
ngôi nhà bị  phá hủy, tổng thiệt hại về vật chất lên tới 5.569 tỷ  đồng. Đợt sóng 
thần xảy ra vào cuối năm 2004  ở   vùng Nam Á và Đông Nam Á, làm chết hơn  
200.000 người, 2 triệu người mất nhà cửa, tổng thiệt hại lên tới nhiều tỷ  USD.  
Trận bão Katrina đổ  bộ  vào nước Mỹ  cuối tháng 8/2005 với sức gió mạnh nhất  

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      


7

lên tới 240 km/h đã cướp đi mạng sống của hàng trăm người, đã gây thiệt hại về 
vật chất lên tới 100 tỷ  USD. Năm 2005 được xem là mốc quan trọng của Việt 
Nam trong công tác phòng chống thiên tai từ  phía biển. Liên tiếp các cơn bão số 
2, 4, và 6 đổ bộ vào các tỉnh miền Bắc trong vòng 3 tháng đã làm suy yếu đáng kể 
sức chống đỡ  của toàn hệ  thống đê biển. Tiếp theo đó, cơn bão số  7 (Damrey)  
tháng 9/2005 đổ  bộ  vào các tỉnh từ  Quảng Ninh đến Nghệ  An, nước dâng kết 
hợp với triều cường và sóng lớn đã gây vỡ đê và ngập lụt tại nhiều nơi thuộc các  
tỉnh Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hóa, gây ra hậu quả nặng nề về kinh tế của  
toàn vùng. Gần đây nhất là cơn bão Durian (số 9) được hình thành ở  ổ  bão Bắc  
Thái Bình Dương vào ngày 26­11­2006 và kết thúc  ở  Vịnh Thái Lan ngày 5­12­
2006. Bão Durian với quỹ đạo đường di chuyển bất thường, không tuân theo quy  
luật nào đã gây thiệt hại lớn cho các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, khiến cho 
hàng trăm km đê biển bị  hư  hỏng, mùa màng bị  thiệt hại, hàng ngàn căn nhà bị 
sập và tốc mái, nhiều công trình công cộng như: đường giao thông, đường điện,  
trụ sở, trường học... bị tàn phá. Ước tính thiệt hại do cơn bão số 9 gây ra lên đến 
hàng trăm tỷ đồng [3].
Tất cả những thiệt hại do thiên tai gây ra nói trên đối với Việt Nam đều có 
thể giảm nhẹ nếu như chúng ta có hệ thống đê biển vững chắc, với quy mô, kích 
thước công trình đủ lớn để đủ sức chống chọi với thiên tai. Nhận thức được vai 
trò quan trọng của hệ thống đê biển, qua nhiều thế hệ, cha ông chúng ta đã xây 
dựng, củng cố, nâng cấp hệ  thống đê biển từ  những năm xa xưa cho đến ngày  
này. Chính vì vậy mà các thảm họa nêu trên đã được giảm thiểu, đã được ngăn 
chặn  ở  nhiều nơi, không cho nước biển tràn vào tàn phá nhà cửa, đất đai, hoa  
màu và cơ sở hạ tầng vùng ven biển. Để đối mặt với những ảnh hưởng bất lợi  
của thời tiết và các hiện tượng tự  nhiên bất thường có thể  xảy ra, trong những 
năm tới nước ta cần phải tiếp tục chú ý hơn nữa đến công tác đê điều và phòng  
chống lụt bão, thông qua việc nâng cấp duy tu và bảo trì hệ  thống đê hiện có, 

nghiên cứu làm mới các hệ  thống đê cần thiết tại những khu vực xung yếu cần 
Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

8

bảo vệ. Việc tiến hành nâng cấp và xây mới hệ  thống đê biển cần được tiến  
hành trên cơ  sở các nghiên cứu chuyên ngành cụ  thể  về  tiêu chuẩn an toàn, tính  
khả thi, tính thực tiễn liên quan đến các khía cạnh kinh tế và kỹ thuật, gắn liền  
với chiến lược phát triển chung của từng vùng, từng khu vực và toàn quốc.
1.1.2. Đê biển và “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”
Vừa qua tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) 
cũng đã đưa ra nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Trong  
Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu để  nước ta trở  thành 
một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc  
gia trên biển, góp phần giữ  vững  ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt  
chẽ giữa phát triển kinh tế ­ xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ 
môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển  
kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt  
động kinh tế  biển làm động lực quan trọng đối với sự  phát triển của cả  nước.  
Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế  biển đóng góp khoảng 53­55% GDP, 55­60% 
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề  xã hội, cải thiện  
một bước đáng kể  đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển. Để  đạt được 
những mục tiêu này, cần thấy rõ nhiệm vụ của hệ thống đê biển trong tương lai.
+ Hệ  thống đê biển là tiền đề  để  hình thành và phát triển các đô thị  ven 
biển, các trung tâm phát triển kinh tế biển. Trước hết, cần phải khai thác lợi thế 
và phát triển du lịch biển trên hàng nghìn ki­lô­mét bờ  biển, ngành công nghiệp 
sạch mà thiên nhiên đã ban tặng tiềm năng cho Việt Nam, một lợi thế không nhỏ 

so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng phục vụ  cho phát triển  
du lịch hiện nay còn yếu kém, đặc biệt là giao thông. Do vậy cần xây dựng một  
hệ thống đê biển vững chắc, vừa kết hợp làm đường giao thông, vừa làm lá chắn 
chống ngập lụt, bảo vệ dân cư và cơ sở hạ tầng các trung tâm du lịch, các đô thị 
ven biển trong tương lai. Hệ  thống đê biển này sẽ  trở  thành con đường huyết  

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

9

mạch, liên lạc giữa các đô thị ven biển, đồng thời là tuyến phòng thủ bảo đảm an  
ninh quốc phòng.
+ Hệ thống đê biển khép kín sẽ bảo vệ an toàn cho dải ven biển của các địa  
phương, phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp và nuôi 
trồng thủy sản. Các công trình thủy lợi dưới đê biển (như cống, âu thuyền …) sẽ 
đảm nhiệm chức năng chủ động điều tiết nước ngọt, mặn phù hợp với từng giai 
đọan phát triển kinh tế nông nghiệp và thủy sản, góp phần xóa đói, giảm nghèo 
và phát triển kinh tế bền vững cho các địa phương. 
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ  bờ  biển và phòng  
chống lũ từ phía biển, Chính phủ đã quyết định lập kế hoạch đầu tư một chương  
trình cấp quốc gia về  xây dựng và củng cố  hệ  thống đê biển  (“Chương trình  
Nhà nước về  xây dựng và nâng cấp hệ  thống đê biển”). Theo đó, từ  2005 đến 
năm 2020 Nhà nước đầu tư trên 10 nghìn tỉ đồng cho việc xây dựng nâng cấp và  
làm mới các tuyến đê biển. Để  việc xây dựng hệ  thống đê biển có đủ  căn cứ 
khoa học, Nhà nước đã giao cho Bộ  NN&PTNT chủ  trì thực hiện một chương 
trình nghiên cứu phục vụ xây dựng hệ thống đê biển, bao gồm 2 giai đoạn: 
Giai đoạn 1: Chương trình khoa học công nghệ  phục vụ xây dựng đê biển  

và công trình thủy lợi vùng cửa sông ven biển; Phạm vi thực hiện của giai đoạn 1  
bao gồm các địa phương có đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam;
Giai đoạn 2: Chương trình củng cố, nâng cấp và xây dựng mới đê biển các 
tỉnh từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang;
Các đề  tài của giai đoạn 1 đã và đang được thực hiện, các đề  tài của giai  
đoạn 2 mới trong giai đoạn đề xuất.
Do những vai trò to lớn đã nêu trên, việc đầu tư xây dựng hệ thống đê biển 
Nam Bộ đúng yêu cầu kỹ thuật, đáp  ứng được mục đích đặt ra, tạo tiền đề  để 
phát triển bền vững và ổn định đời sống của nhân dân vùng ven biển nói riêng và  
cả nước nói chung là rất cấp thiết.
Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

10

1.2.   TÌNH   HÌNH  NGHIÊN   CỨU   VÀ   XÂY   DỰNG   ĐÊ   BIỂN   TRONG   VÀ  
NGOÀI NƯỚC
1.2.1. Tình hình xây dựng đê biển trên thế giới
Tổ hợp đê và các hạng mục khác trong hệ thống công trình phòng chống các 
hiểm họa do thiên tai gây ra từ biển được các quốc gia trên thế  giới, đặc biệt là 
các quốc gia có biển quan tâm. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm tự  nhiên, khí 
hậu, địa hình và trình độ phát triển của mỗi quốc gia mà các hệ thống này được 
phát triển ở mức độ khác nhau.
Hà Lan là một đất nước có đến 2/3 diện tích thấp hơn mực nước biển, vì  
vậy sự bền vững của các hệ thống đê biển là vấn đề sống còn đối với người Hà 
Lan. Chính vì lẽ  đó họ  đã bằng mọi cách bảo vệ  vững chắc hệ thống đê trước  
tác động  của thiên nhiên. Sau thảm họa đê biển năm 1953, chính phủ Hà Lan đã 
có những chính sách quan tâm đặc biệt tới hệ thống này như  đê là công trình có  

cấp đặc biệt cao; Với đê sông thông thường, tần suất thiết kế  là (1:1.250); hệ 
thống đê biển được thiết kế với tần suất thấp hơn (1:10.000), thậm chí thấp hơn  
nữa. 

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

11

Hình 1.2: Bản đồ phân vùng tần suất thiết kế đê biển Hà Lan 
Đê biển được xây dựng sao cho không cho phép nước tràn dưới tác động 
của sóng bão; kết cấu của đê được đặc biệt quan tâm và được kiểm soát rất chặt 
chẽ  về  chất lượng trong quá trình xây dựng thông qua một  ủy ban riêng thuộc 
Nhà nước. Đê thường có cả  cơ  ngoài và cơ  trong kết hợp giao thông. Tùy theo  
mức   độ   quan   trọng   mà   kết   cấu 
của đê cũng khác nhau. Chẳng hạn 
đê   không   trực   diện   với   biển 
thường là đê đất với lõi đất hoặc 
lõi cát bảo vệ  bằng đất sét, ngoài 
Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

12

trồng cỏ  cả  mái trong và mái ngoài, tần suất thiết kế  cũng thấp hơn. Đối với  
những đê trực diện với biển thì lõi không khác so với những đê khác, nhưng nền  

đê được xử  lý và gia cố  rất cẩn thận, lớp bảo vệ  khá đặc biệt. Đó là các khối  
bảo vệ  có xu hướng chuyển từ  dạng “bản” như  đang được sử  dụng phổ  biến  
hiện nay sang dạng cột để  tăng  ổn định và dễ  sửa chữa khi có sự  cố. Kết cấu 
của đê có xu thế  mở  rộng với việc bố trí cơ  ngoài đủ  lớn để  chiết giảm tối đa  
năng lượng sóng leo và sóng tràn đỉnh, đồng thời đó cũng là đường giao thông kết  
hợp đường sửa chữa, bảo dưỡng đê khi cần thiết. Việc bảo vệ mái ngoài và chân 
đê cũng được xem là đặc biệt quan trọng trong xây dựng đê biển. Tại những  
vùng có tác động sóng lớn, bảo vệ  mái ngoài đê và chân đê thường được tăng  
cường bằng lớp vỏ hợp bởi các cấu kiện bê tông đúc sẵn, có thể  theo hình thức  
loại   kết   cấu   tự   chèn   hoặc   các   khối   hình   lập   phương   (ví   dụ   như:   Tetrapod,  
Accrepod, X­block hay Cube), với khối lượng từ  vài tấn đến vài chục tấn thả 
phía bãi trước để triệt tiêu bớt năng lượng sóng trước khi sóng vào đến đê. 
Hình 1.3: Đê biển kết hợp giao thông ở Hà Lan
Hệ  thống đê biển của Mỹ  đa dạng hơn do địa hình nước này không giống 
Hà Lan. Chính vì vậy chiến lược phòng chống thiên tai của Mỹ cũng khác dẫn tới 
kết cấu của đê cũng khác. Ngoài những thành phố quan trọng ven biển thì dải bờ 
biển rộng lớn của nước Mỹ  là những khu vực không quá đông dân cư, đất lại 
rộng nên chiến lược đối với các vùng này là xây dựng một cơ sở hạ tầng rất tốt  
với hệ thống đường giao thông rộng, nhiều làn, nhiều kiểu để nếu rủi ro xảy ra  
thì sơ tán ra khỏi vùng nguy hiểm rất nhanh. Vì vậy, kết cấu đê biển không quá 
kiên cố như ở Hà Lan. Xu thế “tự nhiên” tác động ít nhất tới môi trường cũng là 
quan điểm phát triển của Mỹ.
Các nước gần chúng ta thì Nhật Bản có hệ thống đê biển khá đặc biệt. Là 
quốc gia có bốn mặt là biển, thường xuyên bị  động đất, sóng thần đe dọa với  
nguy cơ phá hoại hệ thống đê điều rất lớn nên Nhật Bản cũng đặc biệt quan tâm  

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      


13

tới đê cửa sông và đê biển mặc dầu đất đai của Nhật Bản hầu hết cao hơn mực  
nước biển.  Ở  đất nước này, qui định thiết kế  với từng loại đê theo cấp công  
trình được giám sát chặt chẽ. Đê cũng là một công trình đa mục tiêu, trong đó vấn  
đề  giao thông được  ưu tiên hàng đầu, chính vì vậy đê biển của Nhật Bản cũng 
rất chỉnh thể.
Một đặc điểm quan trọng của hệ thống đê biển của các nước phát triển là 
công nghệ xây dựng rất tiên tiến; qui trình công nghệ  được đảm bảo. Máy móc 
được áp dụng trong mọi khâu của quá trình từ  khảo sát, thiết kế, xây dựng, vận 
hành và bảo dưỡng nên những hỏng hóc nhỏ  trong điều kiện bình thường rất ít  
xảy ra, trừ những sự cố thiên tai lớn mà thôi.
Ở  những nước như: Hà Lan, Đức, Bỉ, Anh, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản.  
Ngoài việc tăng cường hệ thống đê biển thì việc duy trì bãi trước như  một giải 
pháp không chỉ  giúp tăng an toàn cho đê mà còn là chiến lược phát triển du lịch  
biển, vì vậy, người ta quan tâm đến những giải pháp mềm như: nuôi bãi, trồng 
rừng ngập mặn v.v... Các đội tàu hút cát hoạt động thường xuyên làm rộng các 
bãi tắm, tạo thêm cảnh quan, dải đất ven biển được trồng cây chắn sóng, bài 
toán phát triển bền vững môi trường sinh thái biển luôn được đặt ra trong các dự 
án phát triển.
1.2.2. Tình hình xây dựng đê biển trong nước
Đường bờ biển nước ta trải dài từ  Bắc tới Nam đi qua nhiều vùng với các  
điều kiện địa chất, thủy văn và khí hậu khác nhau, chính vì vậy mà hệ thống đê  
biển  ở  mỗi vùng đều có đặc thù riêng về  quy mô, kiến trúc, cũng như  mức độ 
quan trọng. Đê biển Việt Nam bao gồm các hệ thống chính như sau:
1.2.2.1. Hệ thống đê biển và đê cửa sông vùng đồng bằng Bắc Bộ (từ Quảng  
Ninh  đến Ninh Bình)

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ



                                                      

14

Được xây dựng bồi trúc, phát triển theo thời gian và do rất nhiều thế  hệ 
thực hiện. Đê chủ  yếu là đê đất, vật liệu lấy tại chỗ  và người địa phương tự 
đắp bằng những phương pháp thủ công. 

Hình 1.4: Thi công đê biển Hải Hậu
Hệ thống đê biển hình thành từ kinh nghiệm của cha ông chúng ta khi thấy 
rằng điều kiện mở đất có thể bắt đầu được là tiến hành. Chính vì vậy, đê không  
thành tuyến rõ ràng mà là các đoạn nằm giữa các cửa sông. Có những địa phương  
chỉ  trong vòng một thế  kỷ  đã có nhiều 
lần lấn đê phát triển ra ngoài, mà cho 
đến nay vẫn còn tồn tại những tuyến 
đó như  đê huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo 
(Hải Phòng); đê Thái Thụy, Tiền Hải 
(Thái Bình),  đê  Kim  Sơn  (Ninh Bình) 
v.v...
Hình 1.5: Đê biển Hải Hậu – Nam Định bị tàn phá do bão

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

15


1.2.2.2. Vùng ven biển Bắc Trung Bộ (Từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh)
Theo thống kê chiều dài các tuyến đê biển, đê cửa sông khu vực Bắc Trung  
Bộ khoảng 406 km. Mặc dù đã được quan tâm đầu tư khôi phục, nâng cấp thông 
qua dự  án PAM 4617, OXFAM, EC, CARE, ADB, tuy nhiên quy mô tuyến đê 
biển vùng này nhìn chung là thấp nhỏ, khi có bão lớn thường xảy ra hiện tượng 
tràn và vỡ đê.
Một số tồn tại chính của tuyến đê biển Bắc Trung Bộ như sau:
­ Còn khoảng 223km/406km đê biển, đê cửa sông thấp nhỏ, chưa đủ  cao 
trình chống lũ, nước tràn thường xuyên khi có bão hoặc gió mùa duy trì dài ngày.
­ Chiều rộng mặt  đê khoảng 2 ÷ 2,5m, số  đoạn có chiều rộng trên 3m 
khoảng 200km gây khó khăn trong việc duy tu bảo dưỡng, đặc biệt trong những 
trận bão gây sạt lở  hay vỡ đê. Mặt khác, nếu coi đê là một tuyến giao thông thì  
cũng chưa đạt được mục đích. Đây cũng là một vấn đề  được đặt ra trong việc  
phát triển kinh tế vùng biển. Một khi cơ sở hạ tầng giao thông đủ mạnh thì mới  
có cơ hội phát triển kinh tế và là điều kiện đầu tư trở lại cho nâng cấp, củng cố 
hệ thống đê biển sẵn có.
­ Lõi đê gồm phần lớn là đất cát, phần gia cố  bằng lớp đất sét bao bên 
ngoài lại không đủ  dày, không đảm bảo các chỉ  tiêu cơ  lý đất đắp, nên chỉ  cần 
một hư hỏng cục bộ sẽ dẫn tới hậu quả sẽ phá hỏng cả một đoạn đê lớn. Thực 
tế cho thấy rằng, khi gặp bão có nước tràn là đê bị vỡ nhiều đoạn.
­ Mặt đê mới được gia cố  cứng hóa một phần, về  mùa mưa bão mặt đê 
thường bị sạt lở, lầy lội nhiều đoạn không thể đi lại được.
­ Mái phía biển nhiều nơi chưa được bảo 
vệ, vẫn thường xuyên có nguy cơ  sạt lở 
đe dọa đến an toàn của đê, đặc biệt trong 

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      


16

mùa mưa bão. Mái đê phía đồng chưa được bảo vệ nên nhiều đoạn bị xói, sạt khi 
mưa lớn hoặc sóng tràn qua.
Hình 1.6: Tuyến đê biển Hậu Lộc
­ Dải cây chắn sóng trước đê biển tuy đã được quan tâm bảo vệ, nhưng do  
đặc điểm khu vực có độ phì kém, cây khó phát triển, thêm vào đó ý thức bảo vệ 
của dân địa phương chưa tốt dẫn đến hiệu quả  bảo vệ  của lớp đệm bãi trước 
chưa cao trong khi bãi biển ở một số đoạn có xu hướng bào mòn, hạ thấp gây sạt 
lở  chân kè, đe dọa đến an toàn của đê biển như  đoạn Ninh Phú, Hậu Lộc (tỉnh  
Thanh Hóa), đoạn kè Cẩm Nhượng, đê Hội Thống (tỉnh Hà Tĩnh).
­ Một vấn đề tồn tại lớn đối với tuyến đê biển Bắc Trung Bộ là hệ  thống  
cống dưới đê rất nhiều về  số  lượng, hầu hết được xây dựng từ  vài chục năm 
trước đây với kết cấu tạm bợ  và đang bị  xuống cấp nghiêm trọng. Cần có quy  
hoạch lại, sửa chữa và xây dựng mới để  đảm bảo an toàn cho đê, phù hợp với 
quy hoạch chung về phát triển sản xuất.
1.2.2.3. Vùng ven biển Trung Trung Bộ (Từ Quảng Bình đến Quảng Nam) 
Nằm kẹp giữa các cửa sông mà lưu vực chủ  yếu nằm gọn trong lãnh thổ 
nước ta. Đất liền được bảo vệ bởi hệ thống đê khá nhỏ xung quanh các cửa sông  
và một phần bờ biển. Phần lớn dải bờ biển được bảo vệ bởi các đụn cát, có nơi  
cao đến 30 ÷ 50 m như  ở Quảng Bình, Quảng Trị, Bắc Thừa Thiên ­ Huế, rộng  
tới hàng vài trăm mét, hoặc với cả  cây số  như   ở  Quảng Bình, Quảng Trị. Đê 
thông thường chỉ có cao trình tới 3 ÷ 3.5 m và cho phép nước tràn. Đê biển ngắn,  
bị chia cắt bởi các sông, rạch, địa hình đồi cát ven biển và bảo vệ một diện tích  
canh tác nhỏ hẹp dọc theo đầm phá. Đê biển, đê cửa sông khu vực Trung Trung  
Bộ có tổng chiều dài khoảng 560 km với nhiệm vụ ngăn mặn, giữ ngọt, chống lũ 
tiểu mãn hoặc lũ sớm bảo vệ sản xuất hai vụ lúa đông xuân và hè thu, đồng thời  
phải đảm bảo tiêu thoát nhanh lũ chính vụ. Một số tuyến đê bảo vệ các khu nuôi 
trồng thủy sản. Đa số các tuyến đê biển bảo vệ diện tích canh tác nhỏ dưới 3000  

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

17

ha. Chính vì vậy, đê không cao, nhưng cần phải gia cố ba mặt để chống hư hỏng  
khi lũ tràn.
Phần lớn các tuyến đê được đắp bằng đất thịt nhẹ  pha cát, một số  tuyến 
nằm sâu so với cửa sông và đầm phá đất thân đê là đất sét pha cát như  đê Tả 
Gianh (Quảng Bình) đê Vĩnh Thái (Quảng Trị),... một số đoạn đê đã được bảo vệ 
3 mặt hoặc 2 mặt bằng tấm bê tông để  cho lũ tràn qua như  tấm đê phá Tam  
Giang (Thừa Thiên Huế), đê hữu Nhật Lệ  (Quảng Bình),... ngoài các đoạn đê 
trực tiếp chịu tác động của sóng, gió được xây dựng kè bảo vệ, hầu hết mái đê  
được bảo vệ  bằng cỏ, đê vùng cửa sông được bảo vệ  bằng cây chắn sóng với  
các loại cây sú, vẹt, đước. Một số  tồn tại chính của các tuyến đê biển Trung 
Trung Bộ như sau:
­ Còn 240 km/ 560 km đê biển, đê cửa sông chưa được đầu tư  tu bổ  nâng 
cấp nên còn thấp nhỏ, chưa đảm bảo cao độ phong lũ yêu cầu.
­ Trừ  đoạn đê thuộc thuộc thành phố  Đà Nẵng có chiều rộng mặt đê trên  
4,0m, còn lại hầu hết bề rộng mặt đê nhỏ hơn 3.5m, thậm chí có đến 272km mặt 
đê chỉ rộng 1.5 ÷ 2.0m. Chiều rộng mặt đê nhỏ  gây khó khăn rất lớn trong việc  
kết hợp giao thông bộ cũng như cứu hộ đê.
­ Toàn bộ  mặt đê chưa được gia cố  cứng hóa, về  mùa mưa bão mặt đê 
thường bị lầy lội nhiều đoạn không thể đi lại được.
­ Đến nay mới có khoảng 165km/560km có kè bảo vệ mái, phần lớn mái đê 
phía biển chưa được bảo vệ, hoặc lớp bảo vệ chưa đủ  kiên cố nên vẫn thường 
bị sạt lở đe dọa đến an toàn của các tuyến đê biển. Một số đoạn đê thuộc Thừa  
Thiên ­ Huế, Quảng Nam được gia cố  3 mặt trong các dự  án đầu tư  nâng cấp 

trong những năm qua.
­ Cũng như  vùng Bắc Trung Bộ, số  lượng cống dưới đê rất lớn và được  
xây dựng từ vài chục năm trước với kết cấu tạm bợ, nhiều cống kiên cố  không 
có tường cánh mà đắp bằng đất. Nhiều cống không còn phù hợp với quy hoạch 
Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

18

sản xuất, ngoài một số  cống được tu bổ, nâng cấp thông qua dự  án PAM 4617,  
hầu hết các cống còn lại đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Cần có quy hoạch lại,  
sửa chữa và xây dựng mới để  đảm bảo an toàn cho đê, phù hợp với quy hoạch 
chung về phát triển sản xuất.
1.2.2.4. Đê biển Nam Trung Bộ
Vùng Nam Trung Bộ đã hình thành một số tuyến đê ven biển, đê cửa sông  
khá sớm như: Đê Đông tỉnh Bình Định với chiều dài hơn 40km, được xây dựng từ 
những năm 1930;   đê Xuân Hòa, Xuân Hải được xây dựng phía trong đầm Cù  
Mông tỉnh Phú Yên được xây dựng và bồi trúc trong những năm 1956­1958; đê 
Ninh Giang, Ninh Phú huyện Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa được đắp trước năm 
1975. Còn lại các tuyến đê khác  ở  các tỉnh Nam Trung bộ  phần lớn được hình 
thành sau những năm 1975. Hệ thống đê biển, đê cửa sông ở khu vực này thường 
ngắn và bị chia cắt bởi các cửa sông, đầm phá, dãy núi hoặc đồi cát. Các tuyến đê 
được hình thành chủ  yếu do người dân tự  đắp, mang tính tự  phát, xuất phát từ 
những bức xúc bảo vệ mùa vụ, đất đai sản xuất nông nghiệp, lập thành vành đai 
dân cư  cho từng làng, xóm riêng lẻ  cũng như  lấn biển để  nuôi trồng thủy sản.  
Chính vì vậy đê biển  ở  khu vực này khá tạm bợ  và manh mún, chỉ  có một số  ít  
đoạn đê được Nhà nước đầu tư  xây dựng có kết cấu khá vững chắc, một số 
đoạn đê được lát bê tông cả 3 mặt nhằm vừa đảm bảo chống triều cường, ngăn 

mặn vừa đảm bảo yêu cầu thoát lũ. Tiêu biểu cho các tuyến đê được xây dựng 
trong giai đoạn sau 1975 là :
­ Đê Bình Chánh, Bình Dương với chiều dài gần 10km thuộc huyện Bình 
Sơn tỉnh Quảng Ngãi được xây dựng và đắp bồi trúc những năm 1993÷2002; sau 
đó năm 2005 được hoàn thiện và kiên cố hóa, đê được lát bêtông 3 mặt từ nguồn  
vốn ODA không hoàn lại do chính phủ Úc tài trợ.
­ Từ  năm 1999 ÷ 2006 các tuyến đê thuộc huyện Mộ Đức, Đức Phong tỉnh 
Quảng Ngãi được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Trung ương.
Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

19

­ Đê kè Bắc sông Đà Rằng thành phố Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, xây dựng năm 
2002, với chiều dài tuyến 3,2km. Đê được kết hợp làm đường giao thông và 
chỉnh trang đô thị.
­ Đê kè Trần Phú thành phố  Nha Trang 
tỉnh Khánh Hòa với chiều dài 1km, xây 
dựng năm 2001.
Hình 1.7: Kè Trần Phú – Nha Trang

Hiện nay toàn bộ  miền Nam Trung Bộ có: 18 tuyến đê biển với chiều dài 
101,8km; 31 tuyến đê cửa sông với chiều dài 131,35 km; 19 tuyến kè với chiều 
dài 23,26 km. Các tồn tại chính của đê biển Nam Trung Bộ:
­ Hầu hết các tuyến đê có bề  rộng mặt B < 4,0 m gây khó khăn cho việc  
bảo dưỡng cũng như cứu hộ đê nhất là trong mùa bão.
­ Cao trình đỉnh đê các tuyến đê không đồng bộ và hầu hết chưa đạt yêu cầu  
chống lại nước dâng và sóng do bão.

1.2.2.5. Đê biển Nam Bộ
­ Trước năm 1975:
Từ đầu thế kỷ XX, nhiều khu vực ven biển đã được khai thác quy mô nhỏ,  
đê tạm bợ thấp và nhỏ, qua quá trình chống trọi với thiên nhiên, ảnh hưởng triều 
biển, đê cũng được tu bổ, bồi đắp và ổn định dần.
Vào thập niên 30 để bảo vệ vùng đất ven biển tỉnh Bạc Liêu từ Thị xã đến 
cửa sông Gành Hào, tuyến đê ngăn mặn được đắp vào đầu năm 1940 dài 51km, là 
một trong những trục giao thông ven biển quan trọng.
Đầu thập niên 40, tuyến đê Tiếp Nhật – Long Phú cũng được đắp dọc sông 
Hậu, đến năm 1973 căn bản hoàn thành với tổng chiều dài 63km.
Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

20

Đê An Biên ­ An Minh dài 24km, được xây dựng để ngăn mặn từ biển Tây  
vào khu vực An Biên – An Minh.
­ Từ năm 1975 đến nay:
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng và Nhà nước ta đó rất quan 
tâm tới công tác trị thủy trong đó có việc tu bổ, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống  
đê biển. Nhận thức được tầm quan trọng, tính bức xúc của hệ  thống đê biển, 
Nhà nước đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế  biển, nhiều chương trình  
cấp   quốc   gia   về   điều   tra,   khảo   sát   tài   nguyên   biển   đã   được   thực   hiện,   các 
chương trình nâng cấp đê biển do Nhà nước và các tổ chức quốc tế trợ giúp thực 
sự tạo ra sự ổn định giúp cho việc phát triển kinh tế biển. Song song với các hoạt  
động tư vấn, nhiều chương trình, đề  tài nghiên cứu các cấp từ  Trung ương đến  
địa phương có biển đã được triển khai nhằm điều tra, xác định lượng bùn cát bồi  
tích  ở  các vùng được bồi và lượng bùn cát bị  xói mất  ở  các vùng biển lấn, các 

nghiên cứu về thủy triều, nước dâng, trường sóng, gió, dòng chảy,... trong điều  
kiện bình thường cũng như khi gặp bão nhằm xây dựng được các luận cứ  khoa  
học cho các giải pháp thiết kế, thi công hệ thống đê biển, phòng chống thiên tai. 
Hiện nay trên toàn khu vực Nam Bộ có 16 tuyến đê biển với chiều dài 444,36km;  
2 tuyến kè biển với tổng chiều dài 16,5 km.
Đánh giá chung về hệ thống đê biển, đê cửa sông Nam Bộ:
­ Đê biển, đê cửa sông đã phát huy tác dụng ngăn mặn xâm nhập vào đồng, 
bảo vệ đất canh tác cho những vùng ngọt hóa.
­ Nhiều nơi đê đã góp phần khai hoang lấn biển, mở rộng đất canh tác.
­ Việc xây dựng đê biển và các công trình trên đê trong các năm qua trên 
thực tế  đã góp phần quan trọng trong việc chủ động điều tiết nguồn nước góp 
phần chuyển đổi cơ  cấu sản xuất, phát triển giao thông nông thôn, củng cố  an 
ninh quốc phòng. 

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

21

­ Cao trình nhiều tuyến đê biển, đê cửa sông hiện chưa đủ  khả  năng phòng 
chống thiên tai, khi gặp triều cường và bão thường bị thiệt hại lớn.
­ Các tuyến đê biển, đê cửa sông hầu hết còn thiếu cống nên chưa chủ động  
trong tiêu úng, tiêu phèn, hạn chế  hiệu quả  ngăn mặn, giữ  ngọt, chưa đáp  ứng 
yếu cầu chuyển đổi sản xuất cho một số vùng.
­ Do được xây dựng qua nhiều thời kỳ nên đê biển Nam Bộ  thiếu tính hệ 
thống về vùng và đối tượng bảo vệ, không thống nhất về tiêu chuẩn kỹ thuật.
1.2.2.6. Những vấn đề  còn hạn chế  trong khảo sát thiết kế  và thi công đê  
biển

Trong những năm qua công tác khảo sát thiết kế và thi công đê biển đã đạt  
được nhiều thành tích đáng khích lệ và đúc rút được nhiều kinh nghiệm quý báu.  
Bước đầu đã áp dụng những giải pháp tiên tiến vào hoàn cảnh thực tế   ở  từng 
vùng, từng địa phương và đã có những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên trong công 
tác khảo sát, thiết kế, thi công và quản lý sử dụng các tuyến đê hiện nay còn tồn 
tại những bất cập như sau :
a. Về công tác khảo sát
Chạy dọc dải ven biển, các tuyến đê thường rất dài, địa chất đất nền luôn 
thay đổi trên toàn tuyến, trong khi khoảng cách các hố khoan quá xa nên khó mô 
tả  hết được đặc điểm địa chất dưới đất nền. Hiện nay, công tác khảo sát địa  
chất và thí nghiệm đất phục vụ  thiết kế thi công xây dựng đê chủ  yếu sử  dụng 
các phương pháp sau đây :
­ Khoan bằng tay, bằng máy và lấy mẫu nguyên dạng;
­ Khoan xuyên tĩnh, cắt cánh;
Do địa chất ở vùng nghiên cứu chủ yếu là đất sét bão hoà nước, công việc  
lấy mẫu nguyên dạng gặp nhiều khó khăn, mức độ  phá hoại của mẫu tăng cao 
khi độ nhạy của đất tăng lên. Các mẫu sau khi được lấy và bảo quản bằng cách 

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

22

bọc sáp để  cách ly với không khí và nước bên ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình 
vận chuyển do khoảng cách từ  nơi lấy mẫu đến phòng thí nghiệm rất xa, làm 
cho mẫu bị  rung động, phá hoại kết cấu, rạn nứt lớp bọc bảo vệ dẫn đến việc  
bay hơi nước trong mẫu…. Bên cạnh đó mẫu đất lại được thí nghiệm trên những  
thiết bị cũ và lạc hậu… Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng rất nhiều, thậm  

chí làm sai lệch đến kết qủa các chỉ tiêu của mẫu đất.
b.Về công tác thiết kế thi công
Vấn đề  lún cố  kết của lớp đất đắp vẫn chưa được nghiên cứu triệt để.  
Trong nhiều trường hợp độ lún này chiếm tỷ lệ rất cao so với độ lún toàn thể;
Không kể  đến độ  sâu vùng  ảnh hưởng của khối đất đắp. Độ  sâu tính lún 
phải kể đến chiều rộng của mặt đê;
Không kể đến độ lún theo thời gian và độ lún thứ phát của nền sau cố kết;
Không đưa ra các biện pháp xử  lý nền, lựa chọn sai hoặc không hiệu quả 
các giải pháp xử lý nền đất yếu;
Không thực hiện công tác kiểm tra chất lượng trong quá trình thi công theo  
từng lớp, không tiến hành so sánh dung trọng khô tại hiện trường và dung trọng  
khô trong phòng thí nghiệm;
Thiếu các tài liệu, thiết bị quan trắc lún của công trình trên nền đất yếu;
Ở  một số tuyến đê các đơn vị  thi công không có kinh nghiệm hoặc vì một  
số  lý do nào đó không tuân thủ  đồ  án thiết kế, sử  dụng các thiết bị  thi công cơ 
giới lớn, đắp nhanh tới cao trình thiết kế làm phá hủy lớp đất mặt gây sụt lún và 
các sự cố nghiêm trọng khác.
1.2.3. Kết luận
Việc nghiên cứu, thiết kế và thi công hệ  thống đê biển đã được thực hiện  
trong nhiều năm qua. Các chương trình, đề tài nghiên cứu đã tập trung giải quyết 
các vấn đề  về  các điều kiện biên thủy lực, thủy hải văn, vấn đề  xử  lý nền đất 

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

23

yếu... Tuy nhiên, một số  nội dung sau vẫn còn chưa được nghiên cứu một cách  

triệt để:
Chưa tính toán một cách định lượng tác động của rừng ngập mặn tới việc  
giảm quy mô, kết cấu công trình;
Chưa nghiên cứu sâu về  các giải pháp thi công xây dựng, đây là một trong 
những vấn đề quan trọng góp phần cho sự thành công của chương trình củng cố, 
nâng cấp và xây dựng mới đê biển các tỉnh Nam Bộ;
Chưa đề cập đến vấn đề dâng cao mực nước biển do biến đổi khí hậu toàn 
cầu và ảnh hưởng của nó đối với hệ thống đê biển.

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

24

CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HỆ THỐNG ĐÊ BIỂN VÀ 
QUY LUẬT DIỄN BIẾN DẢI VEN BIỂN NAM BỘ
2.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÊ BIỂN NAM BỘ
Qua kết quả điều tra khảo sát thực địa dải ven biển từ Bà Rịa ­ Vũng Tàu 
đến Kiên Giang kết hợp với việc nghiên cứu tổng hợp, phân tích các tài liệu liên 
quan tới hệ thống đê biển thu thập được cho thấy:
Hiện   trên   toàn   khu   vực   Nam   Bộ   có   16   tuyến   đê   biển   với   chiều   dài  
444,36km; 2 tuyến kè biển với tổng chiều dài 16,5 km. Đê biển từ Bà Rịa ­ Vũng  
Tàu đến Kiên Giang được hình thành qua nhiều thời kỳ, giai đoạn khác nhau với  
mục đích yêu cầu nhiệm vụ  của tuyến đê không giống nhau, vì vậy thiếu sự 
đồng bộ, thiếu sự nhất quán về mục tiêu, nhiệm vụ và cũng thiếu sự thống nhất  
về  các chỉ  tiêu thiết kế, xây dựng. Thực trạng đê biển Nam Bộ  được đánh giá  
theo các tỉnh như sau:

2.1.1. Thực trạng đê biển tỉnh Bà Rịa ­ Vũng Tàu 

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

25

Hình 2.1: Bản đồ hiện trạng đê biển tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Đường bờ  biển tỉnh Bà Rịa ­ Vũng Tàu có chiều dài khoảng 120km từ 
Suối Chùa, giáp với tỉnh Bình Thuận, đến sông Cái Mép, giáp ranh với Thành phố 
Hồ Chí Minh. Toàn tỉnh có 32 km đê biển chia thành ba tuyến đó là tuyến đê biển  
Chu Hải, tuyến đê biển Phước Hòa và tuyến đê biển Hải Đăng.
2.1.1.1. Đê Chu Hải 
Được xây dựng năm 1976, nâng cấp năm 1993. Tuyến đê chạy dọc quốc lộ 
51 về phía Sông Vi thuộc địa giới các xã: Long Hưng, Hội Bài, Phước Hòa A và  
Thị  xã Bà Rịa. Đê có nhiệm vụ  ngăn mặn bảo vệ  sản xuất cho 3.900 ha. Tổng  
chiều toàn tuyến 14,6 km và có 09 cống dưới đê. Chiều rộng mặt đê từ  3 ÷ 4 m,  
cao trình mặt đê  +2,1m, hệ  số mái thượng, hạ  lưu m = 3. Đê được đắp bằng 
đất đồng chất, mái thượng hạ lưu được bảo vệ bằng đá lát khan. Các cống dưới  
đê có kết cấu bằng bê tông cốt thép, cao trình đáy cống ­1,5 m, kích thước cống 
1,4 x1,4 m, chiều dài cống L = 15 m.

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

26


Hiện tại, về cơ bản tuyến đê biển Chu Hải có chất lượng tương đối tốt, đê 
nằm cách mép bờ biển trung bình từ 6 đến 8 km, do vậy khả năng ổn định trước  
triều cường bão lớn là hoàn toàn có thể. Tuy nhiên do công trình thường xuyên 
chịu tác động của thủy triều, nắng, mưa làm xói mòn nên đã bị  xuống cấp. Bề 
rộng mặt đê chỉ  còn khoảng 2,5 ÷ 2,7m, mái đê thượng, hạ  lưu bị  sạt lở, chiều  
cao đê thấp hơn thiết kế ban đầu từ 0,2 ÷ 0,4 m.

Hình 2.2: Hiện trạng tuyến đê biển Chu Hải
Về các cống dưới đê phần đá xây bảo vệ mái thượng hạ lưu bị sạt lở. Cánh 
cửa cống bị  rò rỉ. Bê tông cốt thép thân cống bị  nước mặn xâm thực. Máy đóng 
mở  vận hành khó khăn do nước mặn làm rỉ  sét. Trong thời gian tới cần đầu tư 
nâng cấp 9 cống dưới đê để  đảm bảo hệ  thống đê biển hiện có làm việc đồng  
bộ.

Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


                                                      

27

Hình 2.3: Hiện trạng cống dưới  đê biển Chu Hải
2.1.1.2. Đê Phước Hòa 
Được xây dựng năm 2001, tuyến đê được xây dựng đi qua các xã Hội Bài, 
Phước Hòa, Huyện Tân Thành, có nhiệm vụ ngăn mặn 500 ha. Đê được thiết kế 
với cấp công trình cấp V, chiều dài toàn tuyến 9,5 km và 13 cống  dưới đê. Cao  
trình đỉnh đê  +2,6 m, chiều rộng mặt đê 3m,  hệ số mái thượng hạ lưu m = 3.
Tuyến đê được đắp bằng đất đồng chất, cống dưới đê có kết cấu bằng bê 
tông cốt thép và đá xây bảo vệ mái thượng hạ lưu. Hiện nay công trình đang hoạt  

động ổn định.
2.1.1.3. Tuyến đê ngăn mặn Hải Đăng 
Được hình thành từ  năm 1978, thuộc phường 12 thành phố  Vũng Tàu, có  
chiều dài 8 km, với nhiệm vụ  ngăn mặn, chống sạt lở  bờ  biển. Đê được đắp 
bằng   đất,   bề   rộng   mặt   đê   2m,   hệ   số   mái   đê   m   =   2,5,   cao   trình   đỉnh   đê   từ 
+1,5÷ +2,0m. Qua sự  tác động trực tiếp của sóng biển, triều cường và mưa 
lớn nhiều đoạn đê đã bị hư hỏng. Từ năm 1992 đến năm 2005, UBND thành phố 
Vũng Tàu đã đầu tư  xây dựng 1.750 m kè đá để  bảo vệ  thân đê tại những đoạn 
đê xung yếu và đặc biệt vào năm 1999 và 2003 đã tu bổ, xây mới 6.350m thân đê 
và kè đá 02 đoạn thuộc tuyến đê bị xuống cấp trầm trọng. Hiện nay cần tiếp tục  
Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ


×