Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo: Điều tra và đánh giá hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong vùng đê bao trồng lúa tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.74 KB, 7 trang )

ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT 
TRONG VÙNG ĐÊ BAO TRỒNG LÚA TỈNH AN GIANG
Lê Quốc Tuấn, Đỗ Xuân Hồng, Huỳnh Tấn Nhựt
Khoa Môi trường và Tài nguyên, Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM
1. Đặt vấn đề
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn của cả nước với sự vượt trội cả về chất  
lượng và sản lượng sản xuất. Chỉ  tính riêng 6 tháng đầu năm 2012, sản lượng sản xuất 
của khu vực đã ước đạt 13 triệu tấn [1]. Kết quả trên có được là nhờ  việc áp dụng nhiều  
cải tiến trong kỹ thuật trồng trọt tại khu vực, trong đó kỹ thuật canh tác lúa 3 vụ trong đê  
bao, mà An Giang là một trong những tỉnh tiên phong áp dụng, đóng vai trò đáng kể. Tuy 
nhiên, việc thâm canh tăng vụ và mong muốn nâng cao sản lượng lúa đã va đang d
̀
ẫn đến 
tình trạng sâu bệnh tăng cao, dẫn đến tình trạng người nông dân gia tăng sử  dụng thuốc 
bảo vệ thực vật (BVTV), đôi khi còn lạm dụng quá mức, có nguy cơ  tạo ra những rủi ro  
cho con người và môi trường khu vực canh tác [2].
Vấn đề  xác định rủi ro cũng như  đánh giá tác động của thuốc BVTV đối với môi 
trường và sức khỏe cộng đồng không chỉ là vấn đề đặt ra cho riêng các tỉnh miền Tây Nam 
Bộ  mà còn là một trong những nội dung được quan tâm trên toàn lãnh thổ  Việt Nam với 
nhiều nghiên cứu được triển khai trên các đối tượng khác nhau như  rau xanh, súp lơ, cây 
chè [3], [4], [5].
Cũng từ  nhận định trên, nhóm nghiên cứu đã triển khai đề  tài “Đánh giá tác động 
của việc sử dụng nhóm thuốc bảo vệ thực vật thông dụng khi canh tác lúa 3 vụ trong vùng 
đê bao đến môi trường đất, nước và sản phẩm gạo” từ  tháng 9/2011 tại một số  khu vực  
chuyên canh cây lúa của tỉnh An Giang. Trong khuôn khổ  của đề  tài, một cuộc điều tra  
nhanh trên cộng đồng dân cư đã được triển khai với mục đích đánh giá sơ bộ về  tình hình 
sử dụng thuốc BVTV cũng như nhận định của người dân về tác động của thuốc BVTV lên  
môi trường và sức khỏe của con người. 
2. Phương pháp nghiên cứu
Những kết quả  được trình bày trong báo cáo này dựa trên kết quả  điều tra bằng  
bảng câu hỏi kết hợp với phỏng vấn 150 nông hộ chuyên canh lúa tại các huyện Phú Tân,  


Chợ  Mới, Thoại Sơn thuộc tỉnh An Giang. Nội dung điều tra, phỏng vấn nông dân tập 
trung vào hai vấn đề: 
(1) Tình hình sử  dụng thuốc BVTV của nông dân: nội dung này tập trung vào tìm 
hiểu các thương phẩm thuốc BVTV được dùng phổ biến, cách thức sử dụng thuốc BVTV  
của người dân (về  liều lượng, kỹ  thuật phun thuốc, xử  lý thuốc BVTV khi còn dư...) và  
cách thức tiếp cận với những thông tin về thuốc BVTV của người dân;
(2) Đánh giá của người dân về  tác động của thuốc BVTV đối với môi trường và  
sức khỏe cộng đồng dựa trên tìm hiểu những vấn đề  môi trường được quan tâm tại địa 
phương và xác định mối liên hệ giữa những vấn đề đó với việc sử dụng thuốc BVTV. 

1


Các sản phẩm thuốc BVTV do nông dân sử dụng được ghi nhận và phân loại theo  
danh mục thuốc BVTV được phép sử  dụng tại Việt Nam ban hành năm 2012. Kết quả 
khảo sát được phân tích bằng các bảng và biểu đồ với sự hỗ trợ của công cụ Excel.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Các thương phẩm thuốc bảo vệ thực vật phổ biến
Tại khu vực nghiên cứu, có tổng cộng 16 tên thương phẩm thuốc BVTV được nông 
dân sử dụng phổ biến (bảng 3.1). Một tín hiệu tích cực từ thói quen chọn lựa thuốc BVTV  
của nông dân là việc tất cả các thương phẩm được sử dụng đều nằm trong danh mục cho 
phép của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [6]. 
Bảng 3.1. Các thuốc BVTV sử dụng phổ biến tại khu vực nghiên cứu
STT

TÊN THƯƠNG PHẨM

CÔNG 

NẰM TRONG DANH 


DỤNG

MỤC CHO PHÉP

1

SOFIT 300 EC

Trừ cỏ



2

ABATIMEC 18EC

Trừ sâu



3

OSHIN 20 WP

Trừ rầy nâu



4


ANVIL 5SC

Trừ bệnh



5

TILT SUPER 300 EC

Trừ bệnh



6

AMISTAR TOP 325SC

Trừ bệnh



7

DIBUTA 60EC

Trừ cỏ




8

CHESS 50WG

Trừ rầy nâu



9

ABVERTIN 3.6EC

Trừ sâu



10

CHIEF 260EC

Trừ sâu



11

TAKUMI 20WG

Trừ sâu




12

FUAN 40EC

Trừ bệnh



13

FILIA 525SE

Trừ bệnh



14

SNAIL 700WP

Trừ ốc



15

NOMINEE 10SC


Trừ cỏ



16

NATIVO 750WG

Trừ bệnh



Các nguyên nhân chính tác động đến thói quen lựa chọn thuốc tại khu vực nghiên  
cứu của nông dân chủ yếu là do công tác tuyên truyền của các tổ chức hữu quan (hội nông 
dân, chính quyền xã...) thông qua tổ  chức các hội thảo tập huấn và công tác quảng bá 
thương hiệu của các nhà phân phối thuốc BVTV. 

2


5%
1%

1%
8%
Trưởng thôn
Tuyên truyền viên
Chủ tịch xã
Cán bộ phòng TN&MT

Hội - Đoàn thể
Đại lý thuốc
Trao đổi kinh nghiệm

7%
42%

36%

Biểu đồ 3.1. Địa điểm giải đáp thắc mắc cho nông dân
Một trong những điểm đáng chú ý của kết quả  phỏng vấn là tác động lan tỏa đối 
với những kinh nghiệm sử dụng thuốc từ những nông hộ canh tác hiệu quả, cả trong việc  
lựa chọn thương phẩm cũng như kỹ thuật sử dụng thuốc (biểu đồ 3.1). Điều này thể hiện  
thông qua tỉ lệ người dân không tìm đến các cơ quan chức năng để  giải đáp các thắc mắc  
về thuốc BVTV mà chủ yếu tìm biện pháp giải quyết thông qua trao đổi kinh nghiệm với 
những nông hộ khác chiếm đến 42% (với tổng số 63 người được khảo sát). Bên cạnh đó, 
cuộc khảo sát cũng cho thấy trình độ  của cán bộ  khuyến nông tại khu vực nghiên cứu 
tương đối tốt, 84/87 trường hợp nông dân tìm đến sự tư vấn và người dân hài lòng với kết 
quả  tư  vấn, hướng dẫn của cán bộ  chuyên môn (chỉ  có 3 trường hợp lựa chọn không hài  
lòng). 
3.2. Những bất cập trong quá trình sử dụng thuốc của nông dân

41%
Được hướng dẫn
Không được hướng dẫn
59%

3



Biểu đồ 3.2. Tỉ lệ người dân được hướng dẫn kỹ thuật sử dụng thuốc
Một thực tế  đáng lo ngại trong việc sử  dụng thuốc của người nông dân là tỉ  lệ 
những người không được hướng dẫn kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV rất cao (chiếm 41%),  
và cũng chính việc chưa được hướng dẫn sử dụng đầy đủ này đã dẫn đến hai vấn đề bất  
cập trong thói quen sử dụng thuốc BVTV của nông dân như sau:
3.2.1. Sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo: 
Theo kết quả khảo sát trên 150 nông hộ thể hiện tại biểu đồ 3.3, việc sử dụng quá 
liều thuốc BVTV là nội dung cần được quan tâm nhất vì có đến 62% (chiếm 97/150 nông 
dân được khảo sát) thừa nhận có sử  dụng thuốc BVTV quá liều lượng khuyến cáo. Bên 
cạnh đó, quá trình phỏng vấn nông dân cũng cho thấy hầu hết những người được khảo sát  
có xu hướng tự ý pha nhiều loại thuốc với nhau không theo hướng dẫn của tài liệu để tiết  
kiệm nhân công cho việc phun thuốc. Đây là điều không được phép trong kỹ thuật sử dụng  
thuốc BVTV vì có thể  làm giảm hiệu lực trừ  dịch hại hoặc tạo ra những hợp chất gây 
cháy lá và tác động xấu đến sức khỏe người nông dân [6].

9%

Quá liều

29%

Đúng liều lượng
Không quan tâm
62%

Biểu đồ 3.3. Tình hình sử dụng thuốc BVTV của nông dân
3.2.2. Chưa đảm bảo an toàn sau khi sử dụng thuốc: 
Việc đảm bảo an toàn trước, trong và sau khi sử dụng thuốc BVTV là hết sức quan 
trọng để tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra. Tuy nhiên, nông dân tại địa phương chưa làm 
tốt công tác này đối với thuốc chưa sử dụng hết, lẫn bao bì, chai lọ và các dụng cụ sau khi  

phun thuốc. Qua bảng 3.2, có thể  thấy rõ tình hình này khi thuốc BVTV còn dư  sau khi  
phun hết diện tích ruộng đều được người nông dân xử  lý theo hai cách (1) phun tiếp cho  
đến khi hết thuốc (77%) hoặc (2) để  nguyên trong bình và chờ  đến đợt phun thuốc tiếp  
theo (23%). Cả hai cách làm trên đều tiềm ẩn những nguy cơ cho môi trường và sức khỏe 
con người vì nếu tiếp tục phun cho hết lượng thuốc còn dư, vô tình người nông dân lại  
tiếp tục nâng cao liều lượng sử dụng vốn đã vượt mức khuyến cáo; còn nếu giữ  nguyên 

4


lượng thuốc còn dư trong bình xịt và chờ đến đợt phun tiếp theo thì có khả  năng làm thay  
đổi hoạt tính của thuốc trong thời gian lưu trữ, dẫn đến những tác động tiêu cực chưa 
lường trước được [2]. Tình trạng bất cập trên kết hợp việc chỉ có 49% nông hộ có khu vực 
lưu trữ  cách ly dành cho thuốc BVTV và các dụng cụ  phục vụ  cho việc phun thuốc lại  
càng nâng cao nguy cơ phát sinh những rủi ro do thuốc bảo vệ thực vật gây ra, đặc biệt là  
việc ngộ độc thuốc đối với trẻ em [8].
Bên cạnh sự thiếu quan tâm trong việc đảm bảo an toàn sử  dụng thuốc, nông dân  
tại địa phương cũng có những biểu hiện của việc chưa có ý thức bảo vệ  môi trường sau 
khi sử dụng thuốc. Nông dân thường xuyên súc rửa dụng cụ phun thuốc và đổ  nước thải  
ngay tại ruộng lúa (chiếm 71%); và thải bỏ bao bì của các loại thuốc tại ruộng (47%). Hai 
thói quen trên đã góp phần gây ô nhiễm nguồn nước, làm tăng dư lượng thuốc BVTV trong 
cây lúa cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe của chính những người tham gia canh tác.
Bảng 3.2. Cách thức xử lý thuốc và dụng cụ sau khi sử dụng thuốc BVTV của nông  
dân
 Nội dung khảo sát

Cách xử lý thuốc còn dư

Nơi bảo quản thuốc


Cách xử lý dụng cụ

Cách xử lý bao bì (chai, lọ)

Cách xử lý của nông dân

Tỉ lệ lựa 
chọn

Phun tiếp đến hết thuốc

77%

Để lại đến lần sau

23%

Có khu vực bảo quản cách ly

49%

Không có khu vực bảo quản cách ly

51%

Không súc rửa 

29%

Súc rửa ngay sau khi phun (nước sau khi 

súc được xả ra ruộng)

71%

Thu gom

53%

Bỏ lại tại ruộng

47%

Thông qua những bất cập trong việc sử dụng thuốc BVTV của người nông dân địa  
phương, nhóm nghiên cứu đã xác định được những nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động nông 
nghiệp (mà cụ  thể  là trồng lúa) tại địa phương bao gồm: (1) tăng dư  lượng thuốc BVTV 
trong lúa, (2) tăng nguy cơ ngộ  độc thuốc và (3) gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi 
trường nước và đất. 
3.2.3. Nhận định của nông dân về tác động của thuốc BVTV đến môi trường và sức  
khỏe
Nhìn chung, người nông dân cũng nhận thấy những vấn đề môi trường phát sinh từ 
việc sử dụng thuốc BVTV trong canh tác cây lúa tại đây. Mối quan tâm này được thể hiện 

5


cụ thể qua biểu đồ  3.4 khi hai vấn đề  được quan tâm hàng đầu lần lượt là thu gom và xử 
lý rác (với 63 lựa chọn chiếm 32%) và ô nhiễm do sản xuất nông nghiệp (44 lựa chọn  
chiếm 22%) đều ít nhiều có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp và sử dụng thuốc BVTV.  
Một điều đáng lưu tâm là có đến 77% nông dân lựa chọn kết quả  này do nhận định trên  
quan sát chứ không phải tác động bởi thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng.

Khi khảo sát sâu hơn về  nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại địa phương, có 
đến 58% người được khảo sát cho rằng nguyên nhân quan trọng nhất là thuốc BVTV, và  
tác động chủ yếu đến môi trường nước tại các ruộng canh tác dẫn đến một số bệnh ngoài 
da cho nông dân khi tiếp xúc.

18%

Ô nhiễm sản xuất nông
nghiệp
Ô nhiễm nước sinh hoạt

22%

Ô nhiễm trong nuôi trồng
4%

11%
3%
32%

5%
5%

Ô nhiễm từ cơ sở sản
xuất
Ô nhiễm không khí
Thu gom và xử lý rác
Nước xả từ các cánh
đồng
Không quan tâm


Biểu đồ 3.4. Vấn đề môi trường được quan tâm tại địa phương
Từ  kết quả  nghiên cứu, có thể  thấy mặc dù đa số  nông dân nhận định tình hình ô  
nhiễm môi trường tại địa phương là chưa cao (80% số  người được khảo sát) nhưng số 
lượng nông dân có cùng mối quan tâm đến các vấn đề  môi trường phát sinh từ  việc sử 
dụng thuốc BVTV trong canh tác lúa tại địa phương lại không nhỏ. Điều này cho thấy sự 
cần thiết của việc đầu tư  nhiều hơn cho công tác quản lý và hướng dẫn người nông dân  
sử dụng thuốc BVTV đúng kỹ thuật.
4. Kết luận
Mặc dù đã tạo được thói quen sử dụng các loại thuốc BVTV nằm trong danh mục  
cho phép lưu hành nhưng cách thức sử  dụng thuốc BVTV của nông dân hiện vẫn chưa  
đúng kỹ thuật, thể hiện qua việc (1) nhiều hộ chưa có địa điểm lưu trữ thuốc an toàn, (2) 
nông dân còn sử  dụng thuốc với liều lượng cao hơn khuyến cáo của nhà sản xuất và (3) 
xử lý sai kỹ thuật đối với thuốc BVTV còn dư và các dụng cụ sau khi sử dụng. Chính hiện 
trạng trên đã góp phần không nhỏ  vào việc gây ô nhiễm môi trường của địa phương cũng 
như  gây ra những tác động tiêu cực đến sức khỏe của chính những người sử  dụng thuốc  
BVTV.

6


Để  giảm thiểu những tác động gây ra bởi thuốc BVTV, việc quan trọng nhất là  
phải tiếp tục hướng dẫn cho người dân biết cách sử dụng thuốc đúng cách và quá trình này  
không thể tách rời khỏi công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường. Khi có nhận thức đúng 
đắn, biết được những tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng của ô nhiễm môi trường, 
nông dân mới thực sự  quan tâm đến việc bảo vệ  môi trường và sử  dụng thuốc đúng kỹ 
thuật. 
Dựa trên kết quả khảo sát về mức độ hiệu quả của các hình thức tuyên truyền đối  
với nông dân, khi xây dựng nội dung tuyên truyền tại An Giang nên tập trung tiếp cận hai  
hình thức có hiệu quả  cao nhất theo hướng (1) lồng ghép nội dung tuyên truyền vào các  

buổi tập huấn kỹ thuật canh tác, kỹ thuật sử dụng thuốc do các cơ  quan chức năng, hội –  
đoàn thể tổ chức và (2) xây dựng cơ chế tận dụng các kênh quảng cáo của các đại lý phân  
phối thuốc BVTV đang hoạt động tại địa phương./.

7



×