Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm
của cuộc đấu tranh giai cấp, Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có
quyền lực công cộng để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ về nhiều mặt
như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn áp và các nhiệm vụ
xã hội.
Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình Nhà nước cần phải có
nguồn lực tài chính – Ngân sách Nhà nước, đó chính là cơ sở vật chất cho Nhà
nước tồn tại và hoạt động.
Ngày nay kinh tế thị trường càng phát triển thì vị trí, vai trò của tài chính
Nhà nước ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, xây
dựng nền tài chính tự chủ vững mạnh là yêu cầu cơ bản cấp bách trong thời kỳ
công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, trong đó Ngân sách Nhà nước đóng vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia.
Ngân sách Nhà nước là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất trong nền kinh
tế, có mối quan hệ chặt chẽ với tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
cùng mối quan hệ khăng khít với tất cả các khâu của hệ thống tài chính. Ngân
sách Nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đmả bảo cho các chi tiêu
của Nhà nước, và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho sự ổn
định, phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế, và đảm bảo thu nhập cho người
dân.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của Ngân sách Nhà nước,
nhóm 6 – Lớp CH K7.1 TCNH đã thảo luận và cùng phân tích về vai trò của
Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế và thực tiễn tại Việt Nam
hiện nay..
1
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm NSNN
Trong hệ thống tài chính thống nhất, ngân sách nhà nước (NSNN) là khâu
tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo. NSNN cũng là khâu tài chính được hình
thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ
thống quản lý nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Song
quan niệm về NSNN thì lại chưa được thống nhất.
Theo quan niệm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, NSNN là một
văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi cuả chính phủ, được thiết lập
hàng năm.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa. Các nhà kinh tế
Nga cho rằng: NSNN là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai
đoạn nhất định của Nhà nước.
Luật NSNN đã được nước CHXHCN Việt Nam khoá XI, thông qua tháng
12 năm 2002 ghi: NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
2. Thu ngân sách Nhà nước
a. Khái niệm thu NSNN
Để có kinh phí chi cho mọi hoạt động của mình, nhà nước đã đặt ra các
khoản thu (các khoản thuế khóa) do mọi công dân đóng góp để hình thành nên
quỹ tiền tệ của mình. Thực chất, thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước dùng
quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành
quỹ ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Ở Việt Nam, đứng trên phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm những
khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước.
Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính
để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm đáp ứng các nhu
cầu chi tiêu của mình.
Thu NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân
sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp. Theo Luật NSNN hiện hành, nội dung các khoản thu NSNN bao gồm:
2
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
luật;
Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp
Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
Các khoản viện trợ;
Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Cần lưu ý là không tính vào thu NSNN các khoản thu mang tính chất hoàn
trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật
NSNN (Nghị định 60/2003/NĐCP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư
59/2003/TTBTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu NSNN các
khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là
các khoản vay ưu đãi không được tính vào thu NSNN.
b. Đặc điểm thu NSNN
Thu ngân sách nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị
và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Mọi khoản thu của nhà
nước đều được thể chế hóa bởi các chính sách, chế độ và pháp luật của nhà
nước;
Thu ngân sách nhà nước phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh
tế; biểu hiển ở các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả, thu nhập, lãi
suất…
Thu ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không
trực tiếp là chủ yếu.
c. Nội dung thu NSNN
Thu từ thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật quy định đối
với các pháp nhân và thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Thuế phản ánh các quá trình phân phối lại thu nhập trong xã hội,thể hiện các
mối quan hệ tài chính giữa nhà nước với các pháp nhân và thể nhân trong phân
phối các nguồn tài chính và là công cụ cơ bản thực hiện phân phối tài chính.
Phí và lệ phí
Phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, nhưng mang tính đối giá,
nghĩa là phí và lệ phí thực chất là khoản tiền mà mọi công dân trả cho nhà nước
khi họ hưởng thụ các dịch vụ do nhà nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý
của phí và lệ phí thấp hơn nhiều. Phí gắn liền với vấn đề thu hồi một phần hay
toàn bộ chi phí đầu tư đối với hàng hóa dịch vụ công cộng hữu hình. Lệ phí gắn
liền với việc thụ hưởng những lợi ích do việc cung cấp các dịch vụ hành chính,
pháp lý cho các thể nhân và pháp nhân.
Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước
Các khoản thu này bao gồm:
3
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
+ Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế có vốn góp
thuộc sở hữu nhà nước;
+ Tiền thu hồi vốn tại các cơ sở của nhà nước;
+ Thu hồi tiền cho vay của nhà nước.
Thu từ hoạt động sự nghiệp
Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các hoạt động của các cơ sở sự
nghiệp có thu của nhà nước.
Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước: Khoản
thu này mang tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính chất phân phối lại,
vừa có tính chất phân phối lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài
sản quốc gia vừa tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các nguồn thu từ bán
hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên, thiên nhiên; thu về bán tài sản thuộc sở hữu
nhà nước.
Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản: Các khoản thu này cũng là một phần
thu quan trọng của thu ngân sách nhà nước và được pháp luật quy định…
d. Yếu tố ảnh hưởng đến thu NSNN
Tổng thu nhập quốc nội ( GDP ) :đây là nhân tố quyết định đến mức động
viên của NSNN;
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế: đây là chi tiêu phản ánh hiểu quả của
đầu tư phát triển kinh tế, tỉ suất này càng lớn thì nguồn tài chính càng lớn,do đó
thu NSNN phụ thuộc vào mức độ trang trải các khoản chi phí của nhà nước;
Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên:đây là yếu tố làm tăng thu NSNN, ảnh
hưởng đến việc năng cao tỉ suất thu;
Tổ chức bộ máy thu NS: nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu.
3. Chi ngân sách Nhà nước
a. Khái niệm chi NSNN
Chi ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc
nhất định.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã
được tập trung vào ngân sách nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do
đó, Chi ngân sách nhà nước là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các
định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công
việc thuộc chức năng của nhà nước.
b. Đặc điểm chi NSNN
Chi ngân sách nhà nước gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh
tế, chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ;
4
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
Chi ngân sách nhà nước gắn với quyền lực nhà nước, mang tích chất pháp
lí cao;
Các khoản chi của ngân sách nhà nước được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ
mô;
Các khoản chi của ngân sách nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực
tiếp là chủ yếu;
Các khoản chi của ngân sách nhà nước gắn chặt với sự vận động của các
phạm trù giá trị khác như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền lương, tín dụng, ...
(các phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ).
c. Nội dung chi NSNN
Căn cứ vào mục đích, nội dung
Nhóm 1: Chi tích lũy của ngân sách nhà nước là những khoản chi làm tăng
cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế; là những khoản
chi đầu tư phát triển và các khoản tích lũy khác.
Nhóm 2: Chi tiêu dùng của ngân sách nhà nước là các khoản chi không tạo
ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai; bao gồm chi cho hoạt động
sự nghiệp, quản lý hành chính, quốc phòng, an ninh...
Căn cứ theo yếu tố thời hạn và phương thức quản lý
Nhóm chi thường xuyên bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của nhà nước;
Nhóm chi đầu tư phát triển là các khoản chi dài hạn nhằm làm tăng cơ sở
vật chất của đất nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
Nhóm chi trả nợ và viện trợ bao gồm các khoản chi để nhà nước thực
hiện nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước, vay nước ngoài khi đến hạn
và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế;
Nhóm chi dự trữ là những khoản chi ngân sách nhà nước để bổ sung quỹ
dự trữ nhà nước và quỹ dự trữ tài chính.
d. Yếu tố ảnh hưởng đến chi NSNN
Chế độ xã hội là nhân tố cơ bản;
Sự phát triển của lực lượng sản xuất;
Khả năng tích lũy của nền kinh tế;
Mô hình tổ chức bộ máy của nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, xã hội
của nhà nước trong từng thời kỳ, sự biến động của các phạm trù giá trị (giá cả,
tỷ giá hối đoái, tiền lương,....)
4. Đặc điểm của NSNN
Ngân sách nhà nước là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia.
Nó bao gồm những quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài
chính quốc gia, cụ thể:
5
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
Quan hệ tài chính giữa nhà nước và công dân;
Quan hệ tài chính giữa nhà nước với doanh nghiệp;
Quan hệ tài chính giữa nhà nước với tổ chức xã hội;
Quan hệ tài chính giữa nhà nước với quốc tế.
Đặc điểm của ngân sách nhà nước
+ Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực
kinh tế chính trị của nhà nước, và việc thực hiện các chức năng của nhà nước,
được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định;
+ Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài
chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực thu và chi của nhà nước;
+ Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng
những lợi ích chung, lợi ích công cộng;
+ Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác.
Nét khác biệt của ngân sách nhà nước với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó mới
được chi dùng cho những mục đích đã định;
+ Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên
tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
5. Vai trò của NSNN
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu rằng, vai
trò của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai
đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước đảm nhận
vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội.
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời
sống xã hội.
a.
Huy động các nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của
NSNN
Mức động viên các nguồn tài chính từ các chủ thể trong nguồn kinh tế đòi
hỏi phải hợp lí nếu mức động viên quá cao hoặc quá thấp thì sẽ ảnh hưởng đến
sự phát triển của nền kinh tế, vì vậy cần phải xác định mức huy động vào ngân
sách nhà nước một cách phù hợp với khả năng đóng góp tài chính của các chủ
thể trong nền kinh tế.
b. Quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới,
kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
6
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh
tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối
ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư
cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then
chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát
triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm
quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của
các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà
nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị
trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều
kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ
trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu
hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt
động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà
nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế
sản xuất kinh doanh.
c. Về mặt kinh tế
Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo sự định hướng phát triển kinh tế xã
hội thông qua các công cụ thuế và thuế suất của nhà nước sẽ góp phần kích
thích sản xuất phát triển thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp.ngoài ra nhà
nước còn dùng ngân sách nhà nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng tạo điều kiện và
môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động
d. Về mặt xã hội
Vai trò điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.Trợ giúp
trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như
chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng
thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm,
chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
e. Về mặt thị trường
Nhà nước sẽ sử dụng ngân sách nhà nước như một công cụ để góp phần
bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát. Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng
quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông
qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị
trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính
phủ. Kiềm chế lạm phát: Cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ
thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của
chính phủ.
7
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012 – 2014
A.Thu Ngân sách Nhà nước
1. Tình hình thu NSNN 20122014
ĐVT: Tỷ đồng
BIỂU ĐỒ: CƠ CẤUTHU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
NĂM 20122014
Dựa vào biểu đồ ta thấy nguồn thu chủ yếu của NSNN là nguồn thu từ
nội địa sản xuất kinh doanh, chủ yếu là nguồn thu thuế từ các doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
Đứng thứ 2 là thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, thứ 3 là thu từ dầu thô và
cuối cùng là thu từ các khoản viện trợ không hoàn lại.
Quan sát biểu đồ chúng ta dễ dàng nhận thấy xu hướng tăng của các
nguồn thu NSNN qua các năm. Tuy nhiên, nguồn thu từ viện trợ không hoàn lại
lại có xu hướng giảm qua các năm qua và giảm mạnh vào năm 2014.
Trong thời gian qua, thu ngân sách ở nước ta đã góp phần củng cố và gia
tăng tiềm lực tài chính cho Nhà nước.
a.
Tình hình thu từ nội địa
Thu từ nội địa bao gồm các nguồn thu chính như: thu từ doanh nghiệp nhà
nước; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; thu từ khu vực sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ ngoài quốc doanh.
8
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
STT
Nội dung
NĂM
2012
NĂM
2013
NĂM
2014
I
Thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh
422,870
513,090
526,994
1
Thu từ doanh nghiệp nhà nước
142,838
189,076
196,031
2
Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(không kể thu từ dầu thô)
82,546
111,241
125,562
3
Thu từ khu vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
ngoài quốc doanh
92,086
105,456
108,544
4
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
69
69
48
5
Thuế thu nhập cá nhân
44,959
46,548
46,991
6
Lệ phí trước bạ
11,816
13,595
12,034
7
Thuế bảo vệ môi trường
12,676
11,849
14,127
8
Các loại phí, lệ phí
11,281
14,283
12,028
9
Thu khác ngân sách
22,052
18,542
10,554
10
Thu quỹ đất công ích, hoa lợi công sản tại xã
2,548
2,431
1,075
Bảng 1: Tình hình thu từ nội địa ĐVT: Tỷ đồng
Nguồn: Bộ tài chính
Biểu đồ Thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh
Theo biểu đồ trên, ta thấy thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh có xu hướng
tăng qua các năm và đây cũng là khoản thu bền vững nhất trong cơ cấu thu
NSNN. Năm 2012, khoản thu này đạt 422.870 nghìn tỷ đạt 85,5% dự; đến năm
2013 thu từ nội địa tiếp tục tăng thêm 90,220 nghìn tỷ, tương đương 21,34%,
9
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
đạt được mức tăng này cũng do các chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh đã
bắt đầu phát huy tác dụng, và lãi suất hạ nhiệt góp phần thúc đẩy hoạt động tín
dụng cho vay doanh nghiệp; đến năm 2014 thu nội địa tiếp tục tăng nhẹ, ước
thực hiện đạt 526,994 nghìn tỷ.
b. Tình hình thu từ dầu thô
Việt Nam là một quốc gia xuất khẩu dầu thô, việc giá nguyên liệu thế giới
biến động sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu ngân sách và tăng trưởng
kinh tế ở nước ta.
2012
2013
2014
Nội dung
STT
Thu từ dầu thô
140,106
120,436 107,000
II
Bảng 2: Tình hình thu từ dầu thô ĐVT: Tỷ đồng
Nguồn: Bộ tài chính
Biểu đồ Thu từ dầu thô
Qua biểu đồ trên ta thấy thu từ dầu thô có xu hướng giảm, năm 2012 đạt
140,106 nghìn tỷ đồng đến năm 2013 giảm 19,670 nghìn tỷ còn 120,436 nghìn
tỷ. Năm 2014 ước thực hiện thu đạt 107 nghìn tỷ, như vậy, thu từ dầu thô vẫn
tiếp tục giảm ở năm 2014.
Thu từ dầu thô giảm là do ảnh hưởng của việc giá dầu thế giới giảm mặc
dù sản lượng khai thác dầu thô của nước ta không giảm, điều này làm ảnh
hưởng không nhỏ đến việc thu ngân sách của nước ta.
c. Tình hình thu từ XNK
Nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới nên việc cắt
giảm thuế là một điều không tránh khỏi, tuy nhiên việc thu từ xuất nhập khẩu
vẫn tăng qua các năm là do kim ngạch xuất nhập khẩu tăng.
STT
III
1
Nội dung
2012
Thu cân đối NSNN từ hoạt động xuất khẩu,
107,404
nhập khẩu
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt 71,276
10
2013
2014
129,385
160,800
78,253
83,400
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
STT
2
Nội dung
2012
hàng nhập khẩu
Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu thu
36,128
cân đối ngân sách
125,817
Trong đó: Tổng số thu
89,689
Số hoàn thuế giá trị gia tăng
2013
2014
51,132
77,400
142,614 155,600
91,482 78,200
Bảng 3: Tình hình thu từ xuất khẩu, nhập khẩu ĐVT: Tỷ đồng
Nguồn: Bộ tài
chính
Biểu đồ Thu cân đối NSNN từ hoạt động xuất khẩu nhập khẩu
Biểu đồ trên cho ta thấy thu từ hoạt động xuất nhập khẩu có xu hướng
tăng qua các năm, năm 2013 đạt 129,385 nghìn tỷ tăng 21,981 nghìn tỷ, đến năm
2014, ước thực hiện đạt 160,800 nghìn tỷ tăng 31,415 nghìn tỷ so với năm 2013.
d. Tình hình thu từ viện trợ không hoàn lại
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và nhận được viện trợ
từ các nước trong tổ chức quốc tế Liên hiệp quốc như Nhật Bản, Pháp, Hàn
Quốc, Đan Mạch…
2012
10,267
STT Nội dung
IV Thu viện trợ không hoàn lại
Bảng 4: Tình hình thu từ viện trợ không hoàn lại
11
2013
11,124
2014
4,500
ĐVT: Tỷ đồng
Nguồn: Bộ tài chính
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
Biểu đồ Thu viện trợ không hoàn lại
Viện trợ không hoàn lại của các nước vào nước ta tăng qua các năm có xu
hướng tăng, tuy nhiên năm 2014 giảm còn 4,500 nghìn tỷ tương đương giảm
59,55% là do Việt Nam từ một nước nghèo đã phát triển thành một nước có thu
nhập trung bình thấp nên theo thông lệ quốc tế thì nguồn ODA này sẽ giảm để
dành cho các nước khác.
2.
Vai trò của thu NSNN
NSNN là một khâu then chốt trong hệ thống tài chính. Có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế thị trường. Vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở các
chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn đảm bảo cho Nhà
nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và duy trì quyền lực nhà nước.
Vai trò của thu NSNN được thể hiện qua các mặt sau:
a. NSNN là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước
Đây là vai trò lịch sử mà trong bất kỳ cơ chế nào, thời đại nào ngân sách
nhà nước cũng cần thực hiện, gắn chặt với sự tồn tại của bộ máy Nhà nước,
giúp cho Nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Vai trò này
được xác định trên cơ sở bản chất kinh tế của ngân sách nhà nước trong mọi
hoạt động, mọi lĩnh vực của nhà nước để thực hiện mục tiêu xác định đều cần
đến nguồn tài chính từ việc thu thuế và các hình thức thu ngoài thuế. Hay nói
cách khác, Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn
thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức thu khác như:
vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác..vv.. Song
thực tế các hình thức thu ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi
nhiều điều kiện. Do đó thuế được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu
này mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này
càng tăng. Ở nước ta, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách
Nhà nước.
NSNN được xem là quỹ tiền tệ tập trung quan trọng nhất của Nhà nước
được dùng để giải quyết những nhu cầu chung của Nhà nước về kinh tế, văn
12
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
hóa, giáo dục, y tế, xã hội, hành chính, an ninh và quốc phòng. Tuy nhiên, việc
huy động nguồn tài chính này cần phải quan tâm đến ba vấn đề cơ bản. Đó là:
Một, mức động viên vào ngân sách nhà nước đối với các thành viên trong xã
hội bằng hình thức thu thuế và ngoài thuế cần phải hợp lý. Mức thu cao hay
thấp đều có tác động tiêu cực.
Hai, tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước đối với GDP vừa đảm bảo
hợp lý với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vừa đảm bảo cho đơn vị cơ sở
có điều kiện tích tụ vốn để mở rộng, tái sản xuất.
Ba, các công cụ kinh tế được sử dụng để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước và thực hiện các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
b.
NSNN là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội
nhằm khắc phục những khuyết điểm của kinh tế thị trường, giúp
cho nền kinh tế phát triển cân đối và hợp lý.
Là công cụ định hướng hình thành cơ cấu nền kinh tế mới, kích thích sự
tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm:
NSNN được sử dụng như là công cụ tác động vào cơ cấu kinh tế nhằm
đảm bảo cân đối hợp lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ kinh
doanh. Để thực hiện vai trò này, một trong những công cụ quan trọng mà nhà
nước sử dụng là chính sách thuế. Trước xu thế phát triển mất cân đối của các
ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm
mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp
phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và
khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành
phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực
vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Nội dung điều tiết của thuế gồm hai mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà nước
đã sử dụng chính sách thuế một cách linh hoạt trong từng thời kỳ nhất định,
bằng việc tác động vào cungcầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh – một đặc
trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và tiêu
dùng đều giảm thì nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và khuyến khích
tiêu dùng.
Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với hàng sản
xuất ra để khuyến khích tạo lợi nhuận, kích thích việc đầu tư vào sản xuất.
Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích tiêu dùng.
Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa vào đầu tư,
có thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu nhập về tài sản
dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc đưa vốn vào đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Chính phủ có thể áp dụng các chính sách ưu đãi,giảm nhẹ hoặc miễn
thuế nhằm khuyến khích phát triển những ngành nghề hoặc vùng cần ưu tiên
13
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
phát triển, ví dụ các ngành kinh tế mới (công nghệ sinh học, tin học), các ngành
trọng điểm (sản xuất hàng xuất khẩu), các vùng kinh tế ở vùng sâu vùng xa cần
hỗ trợ phát triển để đảm bảo đời sống người dân ở đó.
Thực hiện miễn thuế cho các doanh nghiệp mới thành lập đi vào hoạt
động nhằm hỗ trợ, kích thích nền kinh tế phát triển.
Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh tế “nóng”
phát triển dẫn đến lạm phát và khủng hoảng thừa thì nhà nước dùng thuế để
giảm tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng của xã hội.
Ví dụ: để hạn chế nhập khẩu hàng xa xỉ, Nhà nước đánh thuế nhập khẩu
cao kèm theo thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ô tô, máy bay… hoặc với
các mặt hàng đặc biệt như: rượu, bia, thuốc lá … nhằm hạn chế sự tiêu thụ,
hạn chế các tác hại tiêu cực với người tiêu dùng. Nhờ đó không những có thể
đảm bảo sự cân đối, công bằng trong nền kinh tế mà còn góp phần quản lý các
vấn đề về an sinh xã hội. Song việc tăng thuế phải được xem xét trong một giới
hạn cho phép để đảm bảo vừa tăng nguồn thu cho NSNN vừa điều chỉnh cơ cấu
ngành nghề hợp lý.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn đến nền
kinh tế, đến việc điều tiết kinh tế thị trường của Nhà nước. Thông qua thuế,
Nhà nước thực hiện định hướng phát triển sản xuất. Chính sách thuế có định
hướng phân biệt, có thể góp phần tạo ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các
ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường xảy ra các chu kỳ kinh
doanh đó là chu kỳ dao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và tỷ lệ lạm
phát, sự ổn định nền kinh tế với tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm, lạm phát
ở mức thấp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững là hướng phấn đấu
nỗ lực của mọi chính phủ nhằm san bằng chu kỳ kinh doanh, đưa giá cả về
mức ổn định.
Điều tiết, ổn định thị trường, bình ổn giá cả, chống lạm phát.
Nhà nước thực hiện lập các quỹ dự trữ về hàng hoá, vật tư thiết yếu, các
quỹ dự phòng tài chính (kể cả bằng vàng và ngoại tệ) để ổn định kinh tế xã hội
khi có sự biến động do thiên tai, tai hoạ lớn mà Nhà nước cần can thiệp, nhằm
tăng tính chủ động cho Nhà nước trong việc cân đối quỹ tiền tệ quốc gia khi
thực hiện giải quyết các vấn đề cấp bách. Đồng thời, hạn chế tình trạng NSNN
trong một giai đoạn có thể bị thậm chi hoặc thặng dư quá lớn.
Ví dụ: như tính đến tháng 11/2012 Tổng cục Dự trữ Nhà nước đã chỉ đạo các
đơn vị nhập đủ 191.550 tấn gạo và 80.000 tấn thóc, hoàn thành 100% kế hoạch được
giao; về kết quả xuất đổi hàng, thóc được 68.019 tấn (đạt 81,2%), gạo được 86.477
tấn, đạt 62,1%; triển khai việc xuất 5.000 tấn gạo quà tặng đến nhân dân Triều Tiên;
xuất 4.000 tấn gạo viện trợ cho các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An khắc phục hậu quả
thiên tai; mua vật tư, thiết bị, đã nhập được 185.000 chiếc phao tròn tại các đơn vị;
thương thảo hợp đồng với các nhà thầu trúng thầu cung cấp thiết bị chữa cháy rừng,
nhà bạt nhẹ theo kết quả đấu thầu được Bộ phê duyệt.
14
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
Tính đến ngày 25/3/2013, Tổng cục dự trữ quốc gia đã hoàn thành việc xuất cấp
29.092 tấn gạo hỗ trợ cho các địa phương, trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt năm
2013 và 750 tấn gạo (đợt 1) cho Dự án Đầu tư và phát triển rừng, tại 4 huyện vùng
cao núi đá tỉnh Hà Giang…
Dự trữ nhà nước đóng vai trò không thể thiếu nhất là trong cơ chế thị
trường. Giá cả do thị trường quyết định, phụ thuộc và quan hệ cung – cầu và
các yếu tố khác. Để bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, kích
thích sản xuất phát triển nhà nước cần theo dõi biến động giá cả trên thị trường
và phải có nguồn dự trữ hàng hóa, tài chính để điều chỉnh kịp thời. Cơ chế điều
tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc
gia… để có thể chủ động điều chỉnh giá cả và thị trường.Những chính sách đó
có thể thắt chặt hay nới lỏng tùy thuộc vào mục đích và mức độ tác động đến
cung – cầu thị trường mà nhà nước mong muốn điều chỉnh.
Ví dụ: Bộ Công Thương ban hành văn bản số 3705/BCTCNNg triển khai thực
hiện các biện pháp bình ổn giá cả mặt hàng thép, góp phần kiềm chế lạm phát trong
năm 2010. Bình ổn giá xăng trong cuối năm 2010 để tránh việc giá cả các mặt hàng
khác tăng nhanh trong dịp tết, tranh nguy cơ lạm phát trong đầu năm 2011…
Chống lạm phát là nội dung quan trọng trong việc điểu chỉnh thị trường.
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá tăng lên
hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, ổn
định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì nhà nước dùng thuế để điều
chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để
kích thích đầu tư sản xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời
tăng thuế đối với hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí
tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào
tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế đánh
vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động.
Một nguyên nhân khác gây ra lạm phát có thể xuất phát từ lĩnh vực thu chi
ngân sách nhà nước. Nếu đồng vốn ngân sách được sử dụng hợp lý, hiệu quả
thì sẽ có tác động tích cưc, ngượi lại sẽ gây ra bất ổn trên thị trường, thúc đẩy
lạm phát tăng. Việc phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước
là nguyên nhân trực tiếp khiến lạm phát tăng. Và sự cân bằng của ngân sách nhà
nước sẽ có tác động đến sự cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế do sự cân
bằng của ngân sách tác động trực tiếp đến sự cân bằng của cán cân thương mại;
mức độ thực hiện cân bằng ngân sách nhà nước nói lên khả năng chi trả các
khoản nợ nước ngoài đến hạn.
Là công cụ tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công
bằng xã hội.
Một vai trò được coi là không kém phần quan trọng của NSNN là giải
quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo,
sự phân hoá này có những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tếxã
15
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
hội. Do vậy, cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm
hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội.
Chính phủ thường sử dụng các biện pháp tác động tới thu nhập để thiết
lập lai sự công bằng xã hội, điều chỉnh thu nhập của các nhóm dân cư khác nhau
bằng cách trợ cấp thu nhập cho những người có thu nhập thấp hoặc hoàn toàn
không có thu nhập thông qua các quỹ trợ cấp thất nghiệp, cung cấp hàng hoá
công cộng… Một cách khác, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong
lĩnh vực tiền lương và thu nhập thông qua hình thức thu thuế thu nhập cá nhân
theo phương thức lũy tiến, thuế thu nhập doanh nghiệp, Nhà nước thực hiện
điều tiết thu nhập, phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp.
Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các
khoản thuế đánh vào tiêu dùng: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng. Với
những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho người nghèo
hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại những mặt hàng
xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập
của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh
thu nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng điều tiết quá lớn làm
giảm khát vọng làm giàu của nhà kinh doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh
tế của đất nước.
Góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hòa nhập
nền kinh tế thế giới:
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc kiệt
từ bên ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể
hiện rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất trong nước
phát triển, kích thích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp
hoặc không đánh thuế vào hàng xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá
đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp
đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được và đánh thuế
nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã sản xuất được
hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ.
Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở trong khu
vực và trên thế giới. Sự ưu đãi, các hiệp định về thuế, tính thông lệ quốc tế của
chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập kinh tế giữa một số quốc gia
với khu vực và cộng đồng quốc tế.
Trước sự đổi mới mạnh mẽ của cơ chế thị trường đòi hỏi hàng loạt các
chính sách kinh tế, tài chính phải thay đổi cho phù hợp, có sức khả thi, hiệu quả
hơn trong nền kinh tế thị trường.
B. Chi Ngân sách Nhà nước
1.
Tình hình chi NSNN 20122014
16
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
3.06
DT NĂM 2015
1.92
NĂM 2014
12.92
17
66.86
Đơn vị: %
11.92
16.19
69.97
Chi khác
Chi trả nợ và viện trợ
4
NĂM 2013
8.98
11.07
NĂM 2012
0
Chi đầu tư phát triển
10.74
17.89
20
67.37
19.93
Chi thường xuyên
60.02
40
60
80
BIỂU ĐỒ: CƠ CẤU DỰ TOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
NĂM 20122014
Dựa trên bảng và biểu đồ ta có thể thấy trong cơ cấu dự toán chi ngân sách
của nước ta chi thường xuyên có tỷ trọng lớn nhất, sau đó là chi đầu tư phát
triển, chi trả nợ và viện trợ, tỷ trọng thấp nhất là chi khác như chi cải cách tiền
lương, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, chi dự phòng.
Cụ thể như sau: dự toán chi thường xuyên chiếm tỷ trọng qua các năm là
60,02% năm 2012; 67,37% năm 2013; 69,97% năm 2014 và 66,86% năm 2015;
chi cho đầu tư phát triển có cơ cấu lớn thứ 2, dự toán chi đầu tư phát triển
năm 2012 là 19,93%; năm 2013 là 17,89%; năm 2014 là 16,19%, năm 2015 là
17%. Tiếp theo là chi trả nợ và viện trợ, chiếm tỷ trọng 11,07% năm 2012;
10,74% năm 2013; 11,92% năm 2014; 13,08% năm 2015. Cuối cùng, chiếm tỷ
trọng nhỏ nhất trong dự toán chi ngân sách nhà nước là các khoản chi khác, các
khoản chi khác chiếm tỷ trọng 8,98% vào năm 2012; chiếm 4% vào năm 2013;
chiếm 1,92% vào năm 2014; chiếm 3,06% vào năm 2015.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng khoá XI, kế hoạch phát triển KTXH
và NSNN 5 năm 20112015,mục tiêu tài chính – ngân sách là kiềm chế và tiến
tới kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô để tạo điều kiện cho phát
triển kinh tế bền vững, tiếp tục thực hiện cơ cấu lại NSNN theo h ướng ưu tiên
đầu tư cho con người, cải cách tiền lương, các chính sách an sinh xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng và an ninh tài chính quốc gia, tăng cường công tác đối
ngoại. Dự toán thu chi NSNN trong những năm qua đã được điều chỉnh như số
liệu phân tích ở bảng sau:
BẢNG 5: DỰ TOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO CƠ CẤU CHI
NĂM 20122015
Đơn vị tính: Tỷ đồng
17
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
STT
A
I
1
2
II
III
1
2
IV
V
VI
B
C
Chỉ tiêu
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Chi đầu tư phát triển
Trong đó:
Chi giáo dục – đào tạo, dạy
nghề
Chi khoa học, công nghệ
Chi trả nợ và viện trợ
Chi thường xuyên
Trong đó:
Chi giáo dục – đào tạo, dạy
nghề
Chi khoa học – công nghệ
Chi thực hiện cải cách tiền
lương
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài
chính
Dự phòng
CHI TỪ CÁC KHOẢN THU
QUẢN LÝ QUA NSNN
CHI TỪ NGUỒN VAY
NGOÀI NƯỚC VỀ CHO VAY
LẠI
TỔNG SỐ (A+B+C)
(Nguồn: số liệu ngân sách nhà nước www.mof.gov.vn)
Dự toán
Dự toán
Dự toán
Dự toán
năm 2012
năm 2013
năm 2014
năm 2015
903.100
978.000
1.006.700
1.147.100
180.000
175.000
163.000
195.000
30.174
30.015
28.984
33.756
6.008
100.000
542.000
6.136
105.000
658.900
5.986
120.000
704.400
7.600
150.000
767.000
135.920
164.401
174.480
184.070
7.160
7.733
7.680
9.790
59.300
15.600
0
10.000
100
100
100
100
21.700
23.400
19.200
25.000
64.689
86.801
125.114
109.686
34.110
34.430
46.100
40.900
1.001.899
1.099.231
1.177.914
1.297.686
Dự toán chi NSNN tăng đều qua các năm về con số tuyệt đối: Năm 2012 là
903.100 tỉ đồng; 2013 là 978.000 tỉ đồng; năm 2014 là 1.006.700 tỉ đồng; năm
2014 là 1.147.100 tỉ đồng.
Trong đó dự toán chi cho đầu tư phát triển thay đổi liên tục 180.000 tỉ đồng
năm 2012; 175.000 tỉ đồng năm 2013; 163.000 tỉ đồng năm 2014 và 195.000 tỉ
đồng năm 2015.
Mặt khác dự toán chi trả nợ và viện trợ cùng chi thường xuyên tăng liên tục
từ 20122015. Dự toán chi trả nợ và viện trợ năm 2012 là 100.000 tỉ đồng; năm
2013 là 105.000 tỉ đồng; năm 2014 là 120.000 tỉ đồng; năm 2015 là 150.000 tỉ
đồng.
Như vậy từ 2012 đến 2015, dự toán chi trả nợ tăng 50.000 tỷ đồng.
Dự toán chi xuyên tăng nhanh trong giai đoạn này, con số tuyệt đối của chi
thường xuyên năm 2012 là 542.000 tỷ đồng; năm 2013 là 658.900 tỷ đồng; năm
2014 là 704.400 tỷ đồng; năm 2015 là 767.000 tỷ đồng.
18
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam
Dự toán số chi cho chi thường xuyên tăng đến 225.000 tỷ đồng trong giai
đoạn 20122015. Việc tăng mạnh của số chi thường xuyên có thể gây áp lực lớn
cho chi đầu tư và chi trả nợ.
Tuy nhiên chi thường xuyên vẫn được điều chỉnh tăng lên về số lượng
trong dự toán của ngân sách nhà nước vì trong chi thường xuyên có những lĩnh
vực quan trọng phục vụ cho sự phát triển của đất nước như chi cho giáo dục, y
tế, khoa học – công nghệ … Do vậy, việc tăng lên về số tuyệt đối của chi
thường xuyên là cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội nhưng
cũng cần xác định rõ khoản chi thường xuyên dự toán tăng lên được đưa vào
phục vụ cho những lĩnh vực cụ thể nào, có cần thiết hay không?
Bên cạnh việc đánh giá dự toán chi ngân sách nhà nước qua các con số
tuyệt đối, việc phân tích tỷ trọng các thành phần của dự toán ngân sách nhà
nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khái quát tình hình của ngân sách
nhà nước trong giai đoạn 20122015. Tỷ trọng các thành phần của dự toán ngân
sách nhà nước được thể hiện qua bảng sau:
Chỉ tiêu
Dự toán
năm 2012
Dự toán
năm 2013
Dự toán
năm 2014
Dự toán
năm 2015
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
100.00%
100.00%
100.00%
100.00%
I
Chi đầu tư phát triển
19.93%
17.89%
16.19%
17.00%
II
Chi trả nợ và viện trợ
11.07%
10.74%
11.92%
13.08%
III
Chi thường xuyên
60.02%
67.37%
69.97%
66.86%
IV
Chi khác
8.98%
4.00%
1.92%
BẢNG 6: CƠ CẤU DỰ TOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
NĂM 20122015
3.06%
Ở Việt Nam hiện nay, cùng với sự phát triển của đất nướcnhu cầu an
sinh xã hội, y tế và giáo dục là rất lớn. Cho nên tỷ lệ chi thường xuyên là chiếm
tỷ trọng rất cao. Điều này dẫn đến áp lực cho chi đầu tư, chi trả nợ lớn, đây là
vấn đề quan tâm. Vì nếu như không tăng tỷ trọng chi đầu tư thì sẽ hạn chế tăng
trưởng và phát triển, đồng thời việc chi trả nợ cũng là cần thiết. Do vậy, cần tái
cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách nhà
nước xuống. Tuy nhiên, việc giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống, trước hết
cần ban hành các chính sách cụ thể, lĩnh vực nào cần giảm một cách quyết liệt,
lĩnh vực nào cần tăng chi để phục vụ cho sự ổn định và phát triển đất nước.
19
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
BẢNG 7: PHÂN TÍCH THỰC HIỆN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2012 – 2014
(Nguồn: Số liệu công khai ngân sách nhà nước www.mof.gov.vn)
Dự
toán
Quyết
toán
Tỉ lệ
Dự toán
978,00
0
175,00
0
105,00
0
658,90
0
1,088,15
3
111.26
%
1,006,70
0
Đơn vị: Tỷ đồng
2014
Ước
thực
Tỉ lệ
hiện
1,060,68
105.36%
1
271,680
155.25%
163,000
208,040
127.63%
112,055
106.72%
120,000
52,068
43.39%
704,165
106.87%
704,400
800,573
113.65%
2012
I
II
III
1
2
IV
IV
V
Chỉ tiêu
Dự
toán
Chi theo dự toán Quốc 903,10
hội
0
180,00
Chi đầu tư phát triển
0
100,00
Chi trả nợ và viện trợ
0
542,00
Chi thường xuyên
0
Trong đó:
Chi giáo dục – đào tạo, 135,92
dạy nghề
0
Chi khoa học – công
7,160
nghệ
Chi thực hiện cải cách
59,300
tiền lương
Chi bổ sung quỹ dự trữ
100
tài chính
Dự phòng
21,700
Quyết
toán
978,46
3
268,81
2
105,83
8
603,37
2
2013
Tỉ lệ
108.34
%
149.34%
105.84%
111.32%
127,13
6
93.54%
164,40
1
155,604
94.65%
174,480
178,689
102.41%
5,918
82.65%
7,733
6,593
85.26%
7,680
7,945
103.45%
15,600
0
0.00%
0
0
100
253
253.00%
100
0
441
441.00%
23,400
20
19,200
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
2. Vai trò của chi NSNN
Chi ngân sách, một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có tác động rất
lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Chi NSNN được quản lý, điều hành chặt
chẽ, tiết kiệm, kỷ cương tài chính được nâng cao kịp thời xử lý các nhiệm vụ cấp
thiết phát sinh về khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an
ninh, an sinh xã hội được đảm bảo.
Chi NSNN để thực hiện vai trò Nhà nước là người đảm bảo hệ thống Luật
pháp, sản xuất một phần hàng hoá dịch vụ cá nhân, cung ứng hàng hoá dịch vụ
công cộng và phân phối lại thu nhập.
Như vậy chi NSNN là công cụ để Nhà nước điều hành nền kinh tế theo mục
đích của mình, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết những vấn đề xã
hội phát sinh như giảm bớt sự chênh lệch giầu nghèo, giải quyết công bằng xã hội
và khắc phục khiếm khuyết của thị trường.
Chi NSNN chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận và không trực tiếp thu được
lợi nhuận, vì vậy không được hoàn trả trực tiếp. Việc hoàn trả được thông qua hệ
thống luật pháp về thuế và một phần được thu lại từ phí.
Chi ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của bộ
máy nhà nước vì đây là chức năng đầu tiên và là tiền đề cho các chức năng khác
bởi vì bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào, chi ngân sách trước tiên cung cấp nguồn
tài chính để đảm bảo cho bộ máy nhà nước tồn tại, hoạt động, từ đó mà thực hiện
được chức năng quản lý xã hội của mình. Nền kinh tế thị trường với sự phân công
lao động xã hội ở cấp độ cao, kinh tế phát triển, tạo ra nhu cầu hưởng thụ xã hội
trên mọi lĩnh vực đều ở mức cao, bộ máy nhà nước càng cần tăng cường cả về số
lượng và chất lượng để tương đồng với nhu cầu đòi hỏi đó.
a. Chi đầu tư phát triển
Phần chi này đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh
tế. Chi NSNN cho đầu tư phát triển năm 2014 ước khoảng 169.000 tỷ đồng, bằng
103,7% dự toán. Chi NSNN cho đầu tư phát triển đã được tập trung cho các công
trình, dự án quan trọng, đồng thời được bổ sung từ nguồn dự phòng NSNN để
thực hiện các dự án cấp bách về quốc phòng, an ninh, khắc phục sự cố đê, kè xung
yếu để chủ động phòng tránh và giảm nhẹ thảm họa thiên tai, bổ sung tăng dự trữ
quốc gia để bù lượng hàng dự trữ đã xuất cấp…
Chi đầu tư xây dựng cơ bản để chi đầu tư cho các công trình thuộc kết cấu
hạ tầng (cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng, viễn
thông…) các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công trình và dự án
phát triển văn hóa xã hội trọng điểm, phúc lợi công cộng nhằm hình thành thế cân
đối cho nền kinh tế, tạo ra tiền đề kích thích quá trình vận động vốn của doanh
nghiệp và tư nhân nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho người dân.
21
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Chi đầu tư xây dựng cơ bản có tầm quan trọng trong việc tạo ra cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế và xã hội, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý
theo định hướng của nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng
cao năng suất lao động xã hội. Như trong những năm qua, Nhà nước đã đầu tư
nguồn vốn rất lớn để xây dựng các công trình trọng điểm và các quy mô khác nhau
trên phạm vi cả nước, góp phần quan trọng vào thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, tình hình vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản xảy ra
ngày càng nhiều, với những cách thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi; gây thất thoát ở
tất cả các khâu, từ quy hoạch, kế hoạch, chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thực
hiện đầu tư, cấp phát vốn đầu tư, đến khâu nghiệm thu, bàn giao đưa công trình
vào sử dụng và quyết toán vốn đầu tư.
b.
Chi tiêu dùng thường xuyên:
Với các khoản chi này nhà nước thể hiện sự quan tâm của mình đến nhân tố
con người trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời với các khoản chi này nhà
nước thực hiện chức năng văn hóa, giáo dục, quản lý, an ninh quốc phòng. Trong
đó, chi quản lý nhà nước bắt nguồn từ sự tồn tại và việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của nhà nưóc. Đây là khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt động của hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nưóc từ trung ương đến địa phương, hoạt động của
Đảng Cộng sản Việt Nam và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội. Chi An
ninh quốc phòng thuộc lĩnh vực tiêu dùng xã hội, là những hoạt động bảo đảm sự
tồn tại của nhà nước và cần thiết phải cấp phát tài chính cho các hoạt động này từ
ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách dành tỷ trọng thoả đáng trả lương cho đội ngũ công chức và
duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước là cần thiết. Một số quan điểm trước đây
cho rằng: trong khuôn khổ hạn hẹp của NSNN, việc chi cho bộ máy nhà nước
càng ít càng tốt, từ đó mà trong bố trí ngân sách chi hành chính thường chiếm một
tỷ trọng rất nhỏ và ít về số tuyệt đối. Kết quả là tệ quan liêu, phiền hà, sách
nhiễu… trong bộ máy nhà nước thường là phổ biến và ở mức độ cao, mà nguyên
nhân cơ bản nhất là đội ngũ công chức được hưởng quá thấp các lợi ích vật chất.
Trước thực tế ấy, ở các nước kinh tế thị trường phát triển, NSNN bao giờ cũng
đành ưu tiên trước hết thoả mãn cho nhu cầu của bộ máy Nhà nước, đảm bảo ổn
định và ràng buộc trách nhiệm của công chức bộ máy nhà nước với quyền năng
được giao, để bộ máy này cung cấp cho xã hội hàng hoá công cộng thuần tuý với
chất lượng cao nhất.
Chi thường xuyên ước đạt 101,9% dự toán đã đảm bảo nguồn lực thực hiện
các nhiệm vụ phát triển sự nghiệp y tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công
nghệ, an sinh xã hội… Trong năm 2014, để khắc phục hậu quả thiên tai, dịch
bệnh, ngành Tài chính đã xuất cấp hàng dự trữ quốc gia với tổng trị giá khoảng
1.025,5 tỷ đồng, trong đó xuất cấp trên 102,9 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để
22
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
cứu trợ cho nhân dân ở những vùng bị thiếu đói, giáp hạt và hỗ trợ học sinh khu
vực khó khăn…
Chi thường xuyên có xu hướng tăng nhanh và mạnh trong những năm gần
đây. Trong chi thường xuyên, tỷ lệ chi cho con người cũng tăng mạnh (giai đoạn
20112015 bình quân chiếm 68,2%, tăng 6% so với giai đoạn 20062010). Nguyên
nhân là do thực hiện các nghị quyết của Đảng, Nhà nước tập trung chi cho con
người và an sinh xã hội. Theo đó, giai đoạn 20112015 NSNN đã dành 474.000 tỷ
đồng để thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu 3 lần (năm 2011, 2012, 2013); 2 lần
thực hiện điều chỉnh phụ cấp công vụ. Trong khi đó, số người hưởng lương từ
NSNN không có xu hướng giảm cùng với việc gia tăng ban hành các đề án, chính
sách ở các bộ, ngành, địa phương cũng tác động làm chi ngân sách thường xuyên
tăng cao.
c. Chi trả nợ, viện trợ
Khoản chi này đạt 100% dự toán, đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời các
khoản nợ theo cam kết.
Trong khi nguồn thu NSNN tăng so với cùng kỳ thì tổng chi NSNN thực hiện
9 tháng đầu năm 2015 ước đạt 823,97 nghìn tỷ đồng, bằng 71,8% dự toán, tăng
7,8% so với cùng kỳ. Trong đó, chi cho đầu tư phát triển đạt 65,3%, chi trả nợ và
viện trợ bằng 76,5%; chi thường xuyên đạt 75% dự toán. Bội chi NSNN ước
khoảng 140,97 nghìn tỷ đồng, bằng 62,4% dự toán năm.
Bội chi NSNN và nợ công Mức bội chi NSNN năm 2015 là 226 nghìn tỷ
đồng, tương đương 5% GDP, giảm 0,3% GDP so với năm 2014. Dự kiến đến
31/12/2015, dư nợ công khoảng 64% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 48,9%GDP,
dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,6%GDP trong giới hạn cho phép, đảm
bảo an ninh tài chính quốc gia
3.
Vai trò của chi NSNN đối với cơ chế thị trường
Đối với nền kinh tế thị trường mà nước ta đang hướng tới thì vai trò của chi
Ngân sách Nhà nước là rất quan trọng
Theo quan điểm cổ điển trước đây, chi ngân sách được nhấn mạnh đến chức
năng đảm bảo nguồn lực tài chính cho bộ máy nhà nước và cai trị, điều hành xã
hội. Kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì chi NSNN cũng bộc lộ những
thất bại trong điều hành kinh tế, thì điều cần nhấn mạnh của chi NSNN là không
chỉ cung cấp tài chính cho bộ máy nhà nước hoạt động mà còn phải thực hiện
chức năng cai trị của mình.
Chi NSNN lúc này đóng vai trò quan trọng hơn với tư cách là công cụ hữu
hiệu để điều tiết thị trường, xoá đói giảm nghèo, góp phần đảm bảo công bằng xã
hội, phát triển cân đối giữa các vùng, lãnh thổ, ngành kinh tế, cung cấp hàng hoá
dịch vụ công cho xã hội một cách tốt nhất trong trường hợp khu vực tư nhân không
đảm bảo được.
23
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là cạnh tranh và hiệu quả. Một
mặt kinh tế thị trường khuyến khích cạnh tranh tự do của hãng tư nhân vì mục tiêu
lợi nhuận và đó là động lực thúc đẩy tăng trưởng, chỉ có như vậy mới tạo ra cho
xã hội một lượng hàng hoá phong phú đáp ứng mọi nhu cầu không ngừng tăng lên
của đời sống xã hội. Song nếu chỉ có hoạt động của các hãng tư nhân thì ơ một số
lĩnh vực nhất là khu vực sản xuất hàng hoá công cộng không có nhà sản xuất và
không có cạnh tranh bởi không mang lại lợi nhuận hoặc các hãng tư nhân không
đủ điều kiện để thu hồi lại chi phí bỏ ra để cung cấp một thứ hàng hoá công cộng
nào đó. Đây chính là cơ sở cho việc xuất hiện vai trò của Chính phủ mà cụ thể hơn
là vai trò của chi NSNN.
Vì vậy, chúng ta thấy trên thế giới không có một nền kinh tế thị trường hoàn
hảo, hoàn toàn chỉ có hoạt động của các hãng tư nhân với mục tiêu hiệu quả. Nền
kinh tế thị trường hiện đại ngày nay bao gồm các hoạt động đan xen nhau: Một số
hoạt động kinh tế do khu vực công đảm nhận, còn các hoạt động khác do khu vực
tư thực hiện. Có thể nói đây là nền kinh tế hỗn hợp. Trong nền kinh tế đó, rất
nhiều hàng hoá dịch vụ công cộng do Chính phủ bỏ tiền ra mua hoặc trực tiếp
cung cấp thông qua bộ máy của mình để đảm bảo hoạt động của các cơ quan đơn
vị thuộc bộ máy nhà nước; cung cấp hệ thống dịch vụ công; tự cấp nhà ở, bảo
hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp người nghèo; chi để cung cấp các dịch
vụ hành chính pháp lý, đảm bảo hoà bình, trật tự an ninh quốc gia; cung cấp một
số hàng hoá dịch vụ cá nhân hoặc trợ cấp cho một số hàng hoá dịch vụ mà các
hãng tư nhân không muốn làm nhưng xã hội cần; tự cấp để thúc đẩy phát triển của
vùng sâu, vùng khó khăn…
Như vậy, vai trò của chi tiêu của Chính phủ trong kinh tế thị trường càng tỏ
ra quan trọng hơn, nhất là trong những lĩnh vực mà thị trường vận hành khó khăn,
thì Chính phủ cần can thiệp và lớn hơn nữa, hành động của Chính phủ thường là
sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng. Động lực của Chính phủ khi can thiệp
vào thị trường là nhằm hạn chế, khắc phục những khiếm khuyết, mặt trái của thị
trường. Chúng ta đều biết rằng, kinh tế thị trường vận hành theo chu kỳ. Khi có
suy thoái kinh tế, hệ quả của nó là thất nghiệp, thậm chí trong diện rộng và kéo
dài. Chu kỳ suy thoái tác động phản ứng dây chuyền đến toàn bộ nền kinh tế, hệ
thống ngân hàng, thị trường chứng khoán… Kéo theo số đông người rơi vào tình
trạng phá sản, rủi ro trầm trọng; lúc này không còn là vấn đề riêng của các hãng tư
nhân. Chính phủ phải giải quyết rất nhiều việc: vừa phải đóng vai trò tích cực,
can thiệp để ổn định kinh tế, vừa phải chi bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm tiền gửi, trợ giá nông nghiệp và hàng loạt các công việc khác. Để khắc
phục những bất công do kinh tế thị trường mang lại sự phân hoá giàu nghèo sâu
sắc, Chính phủ phải chi những khoản tiền lất lớn cho cuộc chiến chống đói
nghèo.
Ví dụ như chương trình cung cấp lương thực, thực phẩm và chăm sóc sức
khoẻ cho người nghèo, chương trình đào tạo lại cho những người thất nghiệp để
24
Vai trò của Ngân sách Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
họ có cơ hội tình việc làm mới, trợ cấp nhà ở cho những người có thu nhập
thấp…
Một cơ sở quan trọng nữa khiến Chính phủ phải tham gia vào quá trình cung
cấp hàng hoá công cộng là Chính phủ với tư cách là người được bầu ra hoặc do
người được bầu chỉ định. Tức là Chính phủđược trao quyền hợp pháp để thực
hiện một số quyền hạn nhất định là tư nhân hoặc tổ chức khác không được giao.
Chính phủ có thể bắt buộc mọi công dân nộp thuế và có bộ máy đảm bảo sự bắt
buộc buộc đó được thực hiện, hoặc có thể thu tài sản của công dân vì lợi ích công
cộng và chỉ bồi thường trong giới hạn chứ không làm hài lòng các cá nhân công dân
bằng sự thoả thuận. Chính phủ có thể bắt buộc mọi thanh niên làm nghĩa vụ quân
sự với mức tiền công thấp hơn mức họ đòi hỏi…
Như vậy, khác với nguyên tắc trao đổi của thị trường là tự nguyện, ngang giá,
Chính phủ được sử dụng quyền năng để làm những việc mà tư nhân không thể
làm được. Đó là điểm khác biệt và cũng là lý đo Nhà nước dùng tiền ngân sách
tham gia vào các hoạt động để theo đuổi mục đích của mình, cũng chính là ưu việt
của chi ngân sách trong cơ chế thị trường.
Trong cơ chế thị trường, Chính phủ như người chỉ huy dàn nhạc để đảm bảo
sự phát triển ăn khớp, đồng đều, thúc đẩy tương tác lẫn nhau cùng phát triển của
các lĩnh vực; quản lý toàn diện từ kinh tế, giáo dục, y tế, văn hoá, các lĩnh vực xã
hội yêu cầu phát triển cao của nền kinh tế thị trường tạo ra nhiều dịch vụ hết sức
phong phú trên tất cả các lĩnh vực. Theo một xu hướng mang tính phổ biến thì đối
với các nước càng phát triển thì tỷ trọng chi đầu tư hạ tầng và phát triển kinh tế
giảm, tăng chi cho giáo dục, y tế, văn hoá, trợ cấp xã hội trong đó điển hình là các
nước Bắc Âu.
Chính phủ các nước này chủ trương thoả mãn ở mức cao các nhu cầu phúc
lợi xã hội cho mọi công dân, chủ yếu là dựa vào nguồn lực từ NSNN. Do tỷ lệ
động viên từ GDP trên 40%, đã tạo nguồn lực dồi dào dành cho giáo dục, y tế, an
sinh và trợ cấp xã hội (khoảng 50 – 60% NSNN).
Nhìn chung, tỷ trọng chi cho giáo dục y tế an sinh và trợ cấp xã hội ngày càng
lớn lên cả về quy mô và tỷ trọng. Tuy nhiên, chi cho những lĩnh vực này không chỉ
từ ngân sách. Các nhà cung cấp dịch vụ đưa ra hàng hoá công cộng ở lĩnh vực giáo
dục y tế và thu lại từ NSNN và một phần là từ người được hưởng dịch vụ. Tức là
song song tồn tại hai phương thức, dịch vụ do Nhà nước trả tiền. và dịch vụ do
người được hưởng trả tiền. Người hưởng dịch vụ được lựa chọn một trong hai
phương thức và tuân thủ những yêu cầu cụ thể của từng phương thức.
Đối với việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế cơ chế thị trường thì đây là thế
mạnh của chi ngân sách trong cơ chế thị trường và được Chính phủ các quốc gia
sử dụng như những công cụ hữu hiệu và uyển chuyển. Chi ngân sách đối với thúc
đẩy tăng trưởng: Thông thường giai đoạn đầu cơ chế thị trường Chính phủ các
nước tập trung ưu tiên chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội khó có khả năng
hoàn vốn hoặc tư nhân không muốn đầu tư, như đường xá, cầu cống, bến cảng
sân bay, trường học, cơ sở y tế hiện đại, công trình văn hoá… Việc tăng chi cơ sở
25