Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tiểu luận: Phát triển nguồn nhân lực nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.05 KB, 56 trang )

KHOA KINH TẾ ­ QUẢN TRỊ
BỘ MÔN QUẢN TRỊ
­­­­­­­­­­­

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: NGUỒN NHÂN LỰC
Đề tài:
Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn

1


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ...........4
1.1. Khái niệm, phân loại và vai trò của Nguồn nhân lực...................................................4
1.2. Nội dung của phát triển Nguồn nhân lực nông thôn....................................................10
1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực theo hướng CNH­HĐH...........15
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂNNGUỒN NHÂN LỰC Ở 
NÔNG THÔN PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH­HĐH Ở NƯỚC TA..............................17
2.1. Những đặc điểm của nông thôn Việt Nam ảnh hưởng đến quá trình phát triển nguồn 
nhân lực............................................................................................................................... 17
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực nông thôn Việt Nam khi bước vào thời kỳ CNH­HĐH..18
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG 
THÔN PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH­HĐH ĐẤT NƯỚC............................................37
3.1. Định hướng phát triển kinh tế ­ xã hội của nước ta trong những năm tới..................37
3.2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ CNH­HĐH ở bước ta
............................................................................................................................................. 39
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................51


2


LỜI NÓI ĐẦU
Từ  nửa sau thế  kỷ  thứ  XVIII, công nghiệp hoá với tư  cách là một phương thức  
phát triển bắt đầu xuất hiện trên thế giới và ngày càng được phổ biến. Nhìn lại 200 năm 
về trước, tính từ giữa thập kỷ 90, ta có thể thấy, công nghiệp hoá được coi như một nấc 
thang tất yếu mà bất cứ một nước chậm phát triển nào cũng phải đi qua để trở  nên giàu 
có và hùng mạnh. Việt Nam ­ một đất nước nông nghiệp, kém phát triển ­ cũng không  
nằm ngoài quy luật đó. Mỗi người con đất Việt khi xa quê hương vẫn luôn mang trong 
mình một kỷ niệm thời ấu thơ trong trẻo, bình yên với những vùng nông thôn trù phú, bao  
quanh là những cánh đồng lúa xanh mướt, rộng lớn và thanh bình. Tuy nhiên, ngày nay 
Việt Nam đã vươn vai trở thành một đất nước giàu mạnh hơn. Nông thôn Việt Nam đã 
đổi mới, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng 
hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, phù hợp với nhu cầu thị  trường và điều kiện 
sinh thái của từng vùng, chyển dịch cơ  cấu ngành nghề, cơ  cấu lao động, tạo việc làm 
thu hót nhiều lao động  ở  nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ  vào sản  
xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và thu nhập trên  
một đơn vị diện tích, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của 
sản phẩm. 
Như  vậy, nông thôn Việt Nam đang hoà mình vào sự  nghiệp đổi mới và công 
nghiệp  hoá, hiện đại hoá của đất nước. Song, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông  
thôn thì một trong những yếu tố mang tính quyết định là nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực 
có phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng thì mới có thể công nghiệp hoá  
3


­ hiện đại hoá nông thôn được. Công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá tuy là phương thức chung 
đối với các nước nhưng trên thực tế, thời điểm xuất phát và nhịp độ  tiến hành công  
nghiệp hoá  ở  từng nước lại không giống nhau. Tuy vậy, vượt qua được nấc thang  ấy, 

hầu như quốc gia nào cũng coi quá trình làm giàu kho tàng trí tuệ  của mình như  là một  
yếu tố có tính tiên quyết để từ một nước có nền kinh tế yếu kém để trở thành một nước  
hùng mạnh.

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. KHÁI NIỆM PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.1. Khái niệm Nguồn nhân lực 
Nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với dân số, đó là một bộ phận quan trọng của 
dân số, đóng vai trò tạo ra của cải vật chất và văn hoá cho xã hội. Tuỳ theo trình độ phát  
triển của mỗi quốc gia, dân tộc mà có các định nghĩa khác nhau về Nguồn nhân lực.
Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô thì:  “Nguồn nhân lực  
là toàn bộ  những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm  
tàng (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động)”.
Theo từ  điển thuật ngữ  trong lĩnh vực lao động của Pháp thì Nguồn nhân lực  ở 
phạm vi hẹp hơn. Nó không gồm những người có khả năng lao động nhưng không có nhu  
cầu làm việc. Như  vậy với quan điểm này, Nguồn nhân lực mất hẳn một lực lượng có  
khả năng lao động nhưng vì lý do nào đó mà không có nhu cầu làm việc.
Theo giáo trình môn Kinh tế  lao động của trường Đại Học Kinh tế  quốc dân thì 
Nguồn nhân lực là nguồn lực về  con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh.  

4


Trước hết với tư  cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội bao gồm toàn bộ  dân 
cư có thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hoặc dị tật bẩm sinh). 
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế ­ xã hội là khả 
năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư  trong độ 
tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này Nguồn nhân lực tương đương với 
Nguồn lao động.

Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham  
gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động  
vào quá trình lao động. Với cách hiểu này Nguồn nhân lực bao gồm những người từ giới 
hạn dưới độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi). 
Các cách hiểu trên chỉ  khác nhau về  việc xác định quy mô Nguồn nhân lực, song 
đều nhất trí với nhau đó là Nguồn nhân lực nói lên khả năng lao động của xã hội. 
1.1.2. Phân loại Nguồn nhân lực 
1.1.2.1. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành chia Nguồn nhân lực làm ba loại:
+ Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số: bao gồm những người nằm trong độ  tuổi 
lao động có khả năng lao động , không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc .  
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, khái niệm này còn gọi là dân số hoạt động, có nghĩa  
là tất cả những người có khả năng làm việc trong dân số tính theo tuổi lao động quy định 
(Luật Lao động của Việt Nam quy định tuổi lao động từ 15­55 tuổi đối với nữ, 15­60 tuổi  
đối với nam). Nguồn nhân lực này chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số, thường từ 
50% hoặc hơn nữa, tùy theo đặc điểm về dân số và nhân lực của từng nước. 
+ Nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế  (hay còn gọi là dân số  hoạt động  
kinh tế) là những người trong độ  tuổi lao động có khả  năng lao động, có công ăn việc 
làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế văn hoá xã hội. 
Như  vậy, giữa Nguồn nhân lực sẵn có trong dân số  và Nguồn nhân lực tham gia 
hoạt động kinh tế  có sự  khác nhau.Sự  khác nhau này là do một bộ  phận những người  
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau chưa 
tham gia vào hoạt động kinh tế  (thất nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm việc,  
còn đang học tập, có thu nhập khác không cần đi làm…).
5


+ Nguồn nhân lực dự trữ  là những người nằm trong độ  tuổi lao động nhưng vì lý 
do nào đó chưa tham gia hoạt động kinh tế. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự 
trữ  về nhân lực. Họ gồm có: Những người làm công việc nội trợ  gia đình, những người  
đang học các trường phổ  thông và các trường trung học chuyên nghiệp, những người đã 

hoàn thành nghĩa vụ quân sự, những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có 
nghề hoặc không có nghề) muốn tìm việc làm.
1.1.2.2. Căn cứ vào vai trò của bộ phận Nguồn nhân lực chia Nguồn nhân lực  
làm 3 loại sau:
+ Nguồn nhân lực chính: gồm những người nằm trong độ  tuổi có khả  năng lao 
động.
+ Nguồn nhân lực phụ: gồm   toàn bộ  những người nằm ngoài độ  tuổi lao động  
(trên dưới độ tuổi lao động) có thể và cần tham gia vào lực lượng sản xuất.
+ Nguồn nhân lực bổ sung.
1.1.2.3. Căn cứ vào trạng thái có việc làm hay không 
Người ta chia ra: 
+ Lực lượng lao động: bao gồm những người trong độ  tuổi lao động có khả  năng 
lao động đang làm việc trong nền kinh tế  quốc dân và những người thất nghiệp song  
đang có nhu cầu tìm việc làm.
+ Nguồn lao động: bao gồm những người thuộc lực lưượng lao động và những 
người thất nghiệp song không có nhu cầu tìm việc làm (tức là bao gồm những người đang 
làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp).
Như  vậy, với bất kỳ quốc gia nào thì Nguồn nhân lực cũng luôn là một bộ  phận  
quan trọng của dân số. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế  xã 
hội. 
Giữa kinh tế và Nguồn nhân lực luôn có mối quan hệ  chặt chẽ, chịu sự tác động  
lẫn nhau. Thường người ta quan sát thấy: những nước kinh tế chậm phát triển có tốc độ 
tăng Nguồn nhân lực cao hơn cả. Các nhà kinh tế học cho rằng, tốc độ tăng Nguồn nhân 
6


lực hàng năm quá cao tại các nước chậm phát triển là thách thức lớn cho họ  trong quá  
trình phát triển, đặc biệt ở giai đoạn đầu.
Số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực phản ánh sự phát triển của nền kinh tế xã  
hội. Khi một quốc gia có Nguồn nhân lực có chất lượng cao thì quốc gia đó có một nền 

kinh tế xã hội phát triển. Ngược lại, khi chất lượng đội ngò nhân lực ở mức thấp thì nền  
kinh tế xã hội không thể phát triển cao. Qui mô Nguồn nhân lực phản ánh qui mô cơ cấu 
dân số. Nguồn nhân lực đông dồi dào là biểu hiện của một dân số  với qui mô lớn và cơ 
cấu trẻ là tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Mặt khác, chính sự  phát triển kinh tế  xã hội lại tạo tiền đề  cho sự  hình thành và 
phát triển một Nguồn nhân lực có trình độ cao. Thực tế trên thế giới, các nước chậm phát  
triển và đang phát triển thường có một Nguồn nhân lực với qui mô lớn nhưng chất lượng  
không cao. Còn các nước đã phát triển thì có một Nguồn nhân lực không mấy dồi dào 
nhưng có một trình độ cao.
Những năm 50 và 60, tăng trưởng kinh tế  chủ  yếu là do công nghiệp hoá; thiếu  
vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là không chủ  yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh 
tế. Các nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ  một phần nhỏ  của sự tăng trưởng  
kinh tế có thể được giải thích bởi khía cạnh đầu vào và nguồn vốn. Phần rất quan trọng  
của sản phẩm thặng dư gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động (giáo dục, sức  
khoẻ và mức sống).
Lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được  
tỷ  lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức phổ  cập phổ  thông. Cách thức để 
thúc đẩy sản xuất, đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả của giáo dục.  
Các nước và các lãnh thổ  công nghiệp hoá mới thành công nhất như  Singapo, Hồng  
Kông… có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỷ 70 và 80 thường đạt 
mức phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu 
cũng cho thấy thành công của Nhật Bản trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có  
học vấn cao mà còn do các chính sách kinh tế, trình độ quản lý hiện đại của họ. Kết quả 
của đào tạo cùng với sự cạnh tranh trong đào tạo sẽ thúc đẩy các ngành công nghiệp và  
kinh doanh của các nước phát triển thu hót những nhà khoa học sáng giá nhất của họ và 
7


của nước ngoài. Khi cân bằng về  sức mạnh khoa học kỹ thuật trên từng khu vực được  
thiết  lập, những  ước vọng và ý đồ đổi mới kỹ thuật công nghệ  của các nước đang phát 

triển sẽ được thực hiện ngay trên đất nước của mình. Gần đây, nhiều sản phẩm của các 
nước châu á sản xuất ra không cần phải theo giấy phép và mang nhãn của công ty nước  
ngoài, hàng hoá do châu Á sản xuất đã tràn ngập khắp thị trường thế giới.
Con người hay nói chính xác hơn là Nguồn nhân lực đã tạo ra sự phát triển nhanh 
chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Con người trong quá trình lao động sản xuất 
và nghiên cứu đã tìm ra phát minh khoa học. Đồng thời, cũng chính họ đã áp dụng những  
thành tựu khoa học đó vào trong sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh  
hoạt đủ khả năng làm thay đổi nhanh chóng qui trình sản xuất, tăng năng suất lao động và 
hiệu quả sản xuất. Như vậy, con người với trí tuệ của mình trở thành động lực cho toàn  
bộ tương lai của nhân loại, thúc đẩy sự  tiến vừa rộng vừa sâu của xã hội trên nền tảng 
khoa học ­ công nghệ để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới.
Cách mạng khoa học ­ kỹ thuật ­ công nghệ làm thay đổi tính chất và nội dung lao 
động nghề nghiệp của người lao động; đấy là việc sử dụng những công cụ, phương tiện  
hiện đại, phức tạp nên lao động trí óc đã dần dần thay thế  lao động chân tay. Sự  phát 
triển của khoa học ­ kỹ  thuật ­ công nghệ  đã làm xuất hiện những ngành nghề  mới có  
hàm lượng khoa học cao; trong nội dung lao động của mỗi nghề  đòi hỏi người lao động 
phải có tri thức, kỹ năng và kỹ xảo nghề nghiệp. Và đến một bước phát triển cao hơn thì 
người công nhân cần phải được trang bị  kiến thức và chức năng mà trước đây chỉ  có  
chuyên gia mới cần.
Tiến bộ  khoa học ­ công nghệ  làm  ảnh hưởng sâu sắc đến các ngành sản xuất  
nông, lâm nghiệp và tiểu thủ  công nghiệp truyền thống đặc biệt là tiến bộ  công nghệ 
sinh học. Người nông dân, người thợ  thủ  công, các nhà chuyên môn và cán bộ  quản lý  
cũng phải luôn đổi mới, bổ sung kiến thức mới tiến kịp sự thay đổi nhanh chóng của kỹ 
thuật canh tác, cây trồng, vật nuôi…
Cùng với tiến bộ của công nghệ, tỷ lệ giữa các thành phần cần cho sản xuất cũng  
thường xuyên thay đổi: các nhà phát minh và đổi mới công nghệ, các nhà quản lý, các nhà  
kỹ thuật và công nghệ, công nhân lành nghề, công nhân bán lành nghề, lao động giản đơn. 
8



Bởi vậy cơ cấu, chất lượng Nguồn nhân lực cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp với sự 
thay đổi của công nghệ.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ  là nguồn để  xuất khẩu lao động sang các  
khu vực, các quốc gia phát triển hơn. Lao động xuất khẩu đem lại một khối lượng lớn 
ngoại tệ; đồng thời, thực hiện sự phân công lao động giữa các khu vực, các quốc gia. 
Tóm lại, Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội. 
Nó là một nhân tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là chủ  thể  vận hành 
sản xuất và các hoạt động xã hội. Một sự  phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong  
tương lai được quyết định bởi sự phát triển của chính Nguồn nhân lực cuả quốc gia đó. 
1.1.3. Vai trò của phát triển Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công 
nghiệp hoá ­ hiện đại hoá của nước ta.
1.1.3.1. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ  tận dụng được tối đa nguồn  
lao động dồi dào và ngày một gia tăng, phát huy vai trò của tiềm năng con người  ở  
nông thôn (cả về số lượng và chất lượng).
Quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội nông thôn phải hướng tới việc khắc phục tình  
trạng thiếu việc làm đang diễn ra bức xúc hiện nay ở nông thôn, nhất là vùng đồng bằng 
Sông Hồng, đồng bằng Sông Cửu Long. Quyền và nghĩa vụ của người lao động sẽ được  
thực hiện nhằm khai thác tiềm năng lợi thế  của vùng, từng địa phương về  lao động. 
Người lao động sẽ có cơ hội, điều kiện để phát huy tính năng động, sáng tạo, cống hiến 
được nhiều hơn giá trị cho xã hội.
Thực tiễn trong những năm qua đã cho thấy, bất cứ   ở  đâu, khi nào nếu các địa  
phương có biện pháp tích cực để tận dụng nguồn lao động dư  thừa ở  nông thôn vào quá 
trình sản xuất như mở mang ngành nghề, dịch vụ, đầu tư  cho thâm canh tăng năng suất, 
nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đẩy mạnh chăn nuôi, bố trí sắp xếp con người hợp lý…  
thì GDP sẽ tăng lên, nền kinh tế sẽ phát triển và địa phương đó đời sống người lao động  
được nâng cao lên một bước, bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới. 
1.1.3.2. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ  khai thác được tối đa những  
nguồn lực quan trọng còn tiềm ẩn trong khu vực kinh tế nông nghiệp ở nông thôn.
9



Ở  nước ta hiện nay, những tiềm năng về  nguồn lực nông thôn còn rất lớn cả  về 
nhiên liệu, năng lực, khoáng sản, đất đai, rừng, biển, cảnh quan địa lý, vốn nhàn rỗi,  
ngành nghề  truyền thống… các tiềm năng  ấy vẫn mãi mãi là tiềm năng nếu con người 
không hướng vào khai thác và sử  dụng phát huy nguồn nhân lực nông thôn là nhân tố 
quyết định để  biến những tiềm năng Êy thành hiện thực bằng các chính sách khuyến 
khích người lao động, nhiều địa phươngđã khai thác được các lợi thể  của mình như  tập 
trung đầu tư  khai thác có hiệu quả  toàn bộ  tiềm năng đất đai bằng thâm canh, tăng vụ,  
thay đổi cơ  cấu cây trồng vật nuôi hợp lý, đầu tư  khai hoang, phục hoá, mở  rộng diện 
tích tại chỗ… Sử dụng, phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ đảm bảo cho mọi người  
có việc làm, thu nhập, đời sống ổn định, cũng từ  đó mà các phong trào khác có cơ  sở để 
phát triển.
1.1.3.3. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ thúc đẩy được phát triển nông  
nghiệp và thực hiện được vấn đề cơ bản của nông thôn, nông nghiệp là chuyển dịch  
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá tạo ra những điều kiện và tiền đề  cần thiết để 
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và ngược lại quá trình chuyển  
dịch cơ  cấu kinh tế  nông thôn vừa là nội dung, vừa là  mục tiêu của công nghiệp hoá ­  
hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế  nông thôn nhằm công nghiệp hoá­ hiện đại hoá nông 
thôn là quá trình nhằm thay đổi hẳn cơ  cấu kinh tế  nông thôn từ  độc canh cây lúa đơn 
ngành sang đa ngành. Đó là quá trình biến đổi từ  kiểu kinh tế  nông nghiệp thủ  công 
nghiệp sang kiểu kinh tế  công nghiệp và dịch vụ, làm cho tỷ  trọng GDP trong nông  
nghiệp ngày càng giảm và tăng nhanh tỷ  trọng GDP trong công nghiệp và dịch vụ  trong  
tổng số GDP của đất nước.
Việc phân công lại lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế  nông thôn phụ  thuộc  
vào nhiều yếu tố, trong đó con người giữ  vai trò quyết định. Phát triển Nguồn nhân lực 
nông thôn là cơ  sở  điều kiện để  phân bố  lại cơ  cấu Nguồn nhân lực, phân công lại lao 
động xã hội ở nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
10



1.1.3.4. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ  thúc đẩy quá trình phân công  
và hợp tác lao động ngày càng tốt hơn với quy mô lớn hơn.
Sự  phân công và hợp tác lao động sẽ  mang lại năng suất lao động cao hơn và là 
một đặc trưng  ưu việt của sản xuất lớn so với sản xuất nhỏ. Thực tế  sản xuất nông 
nghiệp cho thấy, tổ chức tốt việc phân công và hợp tác lao động sẽ  tạo ra một năng lực 
sản xuất mới và tạo ra năng suất lao động cao. Nó không những thúc đẩy nhanh quá trình 
chuyên môn hoá, hợp tác hoá lao động  ở trình độ cao mà còn tạo điều kiện để  nâng cao  
trình độ mọi mặt của người lao động.
1.1.3.5. Sử  dụng hợp lý và phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ giải quyết  
được những vấn đề bức xúc của chính sách xã hội ở nông thôn hiện nay.
Ở nông thôn hiện nay do năng suất lao động thấp, diện tích đất canh tác ngày càng 
giảm do nhiều nguyên nhân, điều kiện cơ sở hạ tầng thấp, đời sống dân cư nông thôn và 
nông dân còn thấp xa so với thành thị, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn tiềm  
tàng ở nông thôn đặc biệt là các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào 
dân tộc ít người dẫn đến tình trạng đói nghèo khá phổ biến ở khu vực nông thôn. Một bộ 
phận dân cư  nông thôn di chuyển từ  nông thôn ra thành thị  làm thuê, gây sức ép rất lớn  
cho khu vực thành thị, làm nảy sinh nhiều tiêu cực xã hội. Do vậy, phát triển Nguồn nhân  
lực nông thôn, phát triển toàn diện nền kinh tế nông thôn không chỉ  là vấn đề  trọng tâm 
của chiến lược phát triển kinh tế mà còn là giải pháp kinh tế ­ xã hội đem lại sự thay đổi 
cho số  đông dân cư  để  thu hót họ  vào sản xuất nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp và  
dịch vụ nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng Nguồn nhân lực.
1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Phát triển Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ  phát triển về  số  lượng và 
chất lượng Nguồn nhân lực. Số lượng Nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ 
tiêu quy mô và tốc độ tăng Nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ 
tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ  tăng dân số càng cao 
thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng Nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, mối  
quan hệ  dân số  và Nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian nhất định (vì đến 

11


lúc đó con người mới phát triển đầy đủ, mới có khả  năng lao động). Về  chất lượng,  
Nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: trình độ sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ 
chuyên môn, năng lực phẩm chất…
Cũng giống như  các nguồn lực khác, số  lượng và đặc biệt là chất lượng Nguồn 
nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần 
cho xã hội.
1.2.1. Số lượng Nguồn nhân lực 
Quy mô Nguồn nhân lực phản ánh quy mô cơ  cấu dân số, phát triển Nguồn nhân  
lực cũng có nghĩa là làm tăng số  lượng Nguồn nhân lực lên một cách phù hợp. Nguồn  
nhân lực đông, dồi dào biểu hiện của một dân số với quy mô lớn và cơ cấu trẻ. Là tiềm 
năng to lớn cho sự phát triển kinh tế ­ xã hội. Về mặt số lượng cần xem xét các quan hệ 
của nguồn nhân lực với hệ thống các nhân tố  sau: tình hình dân số, tốc độ  tăng tự  nhiên  
của dân số, của lao động số lượng cơ cấu dân số, lao động theo lứa tuổi, theo giới, theo  
ngành nghề, theo thành phần kinh tế, theo khu vực (thành thị  ­ nông thôn) có việc làm và  
không có việc làm, cuối cùng là nhân tố di dân, đây là nhân tố có ảnh hưởng phức tạp hơn  
cả  do tính chất tự  phát, năng động, linh hoạt, không kiểm soát được của nó. Khi các  
ngành công nghiệp dịch vụ, các thành phố ở nước ta chưa phát triển, một tỷ lệ lớn về dân  
số lao động còn nằm ở nông thôn thì sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị trong 
cơ chế kinh tế thị trường sẽ là tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá. 
Giữa kinh tế và Nguồn nhân lực luôn có mối quan hệ  chặt chẽ, chịu sự tác động  
lẫn nhau. Tuy nhiên, người ta quan sát thấy: những nước kinh tế chậm phát triển có tốc  
độ  tăng Nguồn nhân lực cao hơn cả. Các nhà kinh tế  học cho rằng, tốc độ  tăng Nguồn 
nhân lực hàng năm quá cao tại các nước chậm phát triển là thách thức lớn cho họ  trong  
quá trình phát triển, đặc biệt ở giai đoạn đầu.
1.2.2. Chất lượng Nguồn nhân lực
Phân tích về sự phát triển chất lượng Nguồn nhân lực trước hết phải xem xét trình  
độ dân trí, trình độ học vấn của dân số nói chung và của lực lượng  lao động, cơ cấu trình 

độ  chuyên môn nghiệp vụ, trình độ  đào tạo của dân cư, lao động theo nhóm tuổi, khu  
12


vực, vùng. Khi xem xét nguồn nhân lực nói chung và cho vùng kinh tế động lực, cần xem  
xét khả năng đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của quá trình  
hội nhập khu vực và thế giới. Đó là thãi quen và phong cách công nghiệp hoá, trình độ và 
cơ cấu ngành nghề; về sự hiều biết luật pháp... của người lao động.
Hiện nay liên hợp quốc đã đưa ra cách tính (HDI) “chỉ  số  phát triển con người”  
nhằm phản ánh trình độ phát triển của các nước. Đây là một khái niệm tổng hợp bao hàm  
nhiều mặt: kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường đồng thời thể  hiện sự  phân phối công 
bằng thành quả của sự phát triển. Chỉ số này liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến chất 
lượng cuộc sống của người lao động và đến mặt thể  lực của nguồn nhân lực.. quan hệ 
giữa chỉ số này và dân số là: để tăng được chỉ tiêu GDP trên đầu người thì tổng sản phẩm  
quốc nội phải tăng nhanh hơn tỷ lệ gia tăng dân số; hoặc việc hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân  
số (nếu không làm GDP giảm sút) cũng sẽ làm tăng GDP trên đầu người.
Do ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tích luỹ và tiêu dùng của dân số nói chung và 
người lao động nói riêng, quan hệ  giữa chỉ số này với nguồn nhân lực được cụ  thể  hoá 
trong một loại các chỉ  số  như: điều kiện dinh dưỡng (số  lượng thực phẩm/người; số 
clo/người/ngày; số  protêin/người/ngày…); Điều kiện nhà  ở  (diện tích bình quân/người, 
chất lượng nhà…) mức tiêu dùng điện năng v.v... Đây là những chỉ tiêu liên quan và phản  
ánh trực tiếp tình trạng thể lực, trình độ phát triển, mức độ tiêu dùng của nguồn nhân lực.
+ Nguồn nhân lực và chỉ số trình độ dân trí:
Đây là chỉ tiêu phản ánh và liên quan trực tiếp đến mặt trí lực của nguồn nhân lực. 
Chỉ  tiêu này được tính thông qua 2 chỉ  tiêu: tỷ  lệ  người biết chữ  (thường chỉ  tính từ  15 
tuổi trở lên) và số năm đi học bình quân. Tuy nhiên, để phân tích được đầy đủ hơn quan 
hệ  của nguồn nhân lực với chỉ  số trình độ  dân trí này, cần xem xét thêm các chỉ  tiêu cụ 
thể sau: tỷ lệ biết chữ hoặc trình độ học vấn theo nhóm tuổi, giới tính; tình hình giáo dục  
phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng đại học và đào tạo công nhân kỹ thuật.
Trình độ  dân trí của nguồn nhân lực của mỗi vùng, mỗi quốc gia chịu tác động 

của các chỉ tiêu trên, mặt khác phụ thuộc rất lớn vào chính sách của Nhà nước. Trong giai 
đoạn hiện nay để phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hoá ­ Hiện đại hoá đất nước, cần 
thiết phải tạo ra những động lực mạnh mẽ  nhằm phát huy sức mạnh nội sinh của dân  
13


téc. Khai thác mọi tiềm năng của đất nước; Điều đó càng cho thấy ý nghĩa cấp bách của 
việc nâng cao trình độ  dân trí đối với việc phát triển trí lực của nguồn nhân lực. Trong 
giao đoạn tới, nguồn nhân lực phải đáp  ứng được đòi hỏi ngày càng cao về  tay nghề, 
trình độ chuyên môn, ssự phát triển của từng ngành, sự đổi mới, thay đổi cơ cấu của các  
ngành, nghề.
Nâng cao chất lượng nguồn lao động có thể đạt được nhờ  hệ thống giáo dục và  
đào tạo đáp ứng yêu cầi về số lượng, chất lượng và cơ cấu trình độ hợp lý. Những nước  
đang phát triển thường có số  lao động lớn, nhưng có thể  chất lượng lao động thấp,  ở 
những nước này thường thiếu những lao động lỹ thuật, có kỹ năng đặc biệt… đây là một  
trong những nguyên nhân làm đình trệ  sản xuất và hạn chế  khả  năng mở  rộng của nền  
kinh tế.
+ Nguồn nhân lực và chỉ số về tuổi thọ bình quân:
Chỉ  tiêu tuổi thọ  bình quân chịu  ảnh hưởng của các chỉ  số  liên quan  đến vấn đề 
sức khoẻ, Y tế, dịch vụ, vệ sinh như: số người được phục vụ / một thầy thuốc, tình hình  
cung cấp nước sạch; khả  năng sử  dụng các dịch vụ  chăm sóc sức khoẻ, chữa bệnh của  
dân cư... ngày nay, các yếu tố  y tế, dịch vụ, vệ sinh can thiệp trực tiếp vào toàn bộ  quá  
trình tái sản xuất dân số. Mối quan hệ giữa dân số, nguồn nhân lực và các điều kiện y tế,  
vệ  sinh có tính chất tương hỗ: y tế tác động đến toàn bộ  quá trình tái sản xuất dân số;  
mặt khác sự bùng nổ dân số cũng đang tạo nên sức Ðp mạnh mẽ với ngành y tế.
Tóm lại, Số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực phản ánh sự phát triển của nền  
kinh tế xã hội. Khi một quốc gia có Nguồn nhân lực có chất lượng cao thì quốc gia đó có  
một nền kinh tế  xã hội phát triển. Ngược lại, khi chất lượng đội ngò nhân lực  ở  mức 
thấp thì nền kinh tế xã hội không thể phát triển cao.
Mặt khác, chính sự  phát triển kinh tế  xã hội lại tạo tiền đề  cho sự  hình thành và 

phát triển một Nguồn nhân lực có trình độ cao. Thực tế trên thế giới, các nước chậm phát  
triển và đang phát triển thường có một Nguồn nhân lực với qui mô lớn nhưng chất lượng  
không cao. Còn các nước đã phát triển thì có một Nguồn nhân lực không mấy dồi dào 
nhưng có một trình độ cao.

14


Những năm 50 và 60, tăng trưởng kinh tế  chủ  yếu là do công nghiệp hoá; thiếu  
vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là không chủ  yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh 
tế. Các nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ  một phần nhỏ  của sự tăng trưởng  
kinh tế có thể được giải thích bởi khía cạnh đầu vào và nguồn vốn. Phần rất quan trọng  
của sản phẩm thặng dư gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động (giáo dục, sức  
khoẻ và mức sống).
Lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được  
tỷ  lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức phổ  cập phổ  thông. Cách thức để 
thúc đẩy sản xuất, đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả của giáo dục.  
Các nước và các lãnh thổ  công nghiệp hoá mới thành công nhất như  Singapo, Hồng  
Kông… có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỷ 70 và 80 thường đạt 
mức phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu 
cũng cho thấy thành công của Nhật Bản trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có  
học vấn cao mà còn do các chính sách kinh tế, trình độ quản lý hiện đại của họ. Kết quả 
của đào tạo cùng với sự cạnh tranh trong đào tạo sẽ thúc đẩy các ngành công nghiệp và  
kinh doanh của các nước phát triển thu hót những nhà khoa học sáng giá nhất của họ và 
của nước ngoài. Khi cân bằng về  sức mạnh khoa học kỹ thuật trên từng khu vực được  
thiết  lập, những  ước vọng và ý đồ đổi mới kỹ thuật công nghệ  của các nước đang phát 
triển sẽ được thực hiện ngay trên đất nước của mình. Gần đây, nhiều sản phẩm của các 
nước châu á sản xuất ra không cần phải theo giấy phép và mang nhãn của công ty nước  
ngoài, hàng hoá do châu Á sản xuất đã tràn ngập khắp thị trường thế giới.
Con người hay nói chính xác hơn là Nguồn nhân lực đã tạo ra sự phát triển nhanh 

chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Con người trong quá trình lao động sản xuất 
và nghiên cứu đã tìm ra phát minh khoa học. Đồng thời, cũng chính họ đã áp dụng những  
thành tựu khoa học đó vào trong sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh  
hoạt đủ khả năng làm thay đổi nhanh chóng qui trình sản xuất, tăng năng suất lao động và 
hiệu quả sản xuất. Như vậy, con người với trí tuệ của mình trở thành động lực cho toàn  
bộ tương lai của nhân loại, thúc đẩy sự  tiến vừa rộng vừa sâu của xã hội trên nền tảng 
khoa học ­ công nghệ để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới.
15


Cách mạng khoa học ­ kỹ thuật ­ công nghệ làm thay đổi tính chất và nội dung lao 
động nghề nghiệp của người lao động; đấy là việc sử dụng những công cụ, phương tiện  
hiện đại, phức tạp nên lao động trí óc đã dần dần thay thế  lao động chân tay. Sự  phát 
triển của khoa học ­ kỹ  thuật ­ công nghệ  đã làm xuất hiện những ngành nghề  mới có  
hàm lượng khoa học cao; trong nội dung lao động của mỗi nghề  đòi hỏi người lao động 
phải có tri thức, kỹ năng và kỹ xảo nghề nghiệp. Và đến một bước phát triển cao hơn thì 
người công nhân cần phải được trang bị  kiến thức và chức năng mà trước đây chỉ  có  
chuyên gia mới cần.
Tiến bộ  khoa học ­ công nghệ  làm  ảnh hưởng sâu sắc đến các ngành sản xuất  
nông, lâm nghiệp và tiểu thủ  công nghiệp truyền thống đặc biệt là tiến bộ  công nghệ 
sinh học. Người nông dân, người thợ  thủ  công, các nhà chuyên môn và cán bộ  quản lý  
cũng phải luôn đổi mới, bổ sung kiến thức mới tiến kịp sự thay đổi nhanh chóng của kỹ 
thuật canh tác, cây trồng, vật nuôi…
Cùng với tiến bộ của công nghệ, tỷ lệ giữa các thành phần cần cho sản xuất cũng  
thường xuyên thay đổi: các nhà phát minh và đổi mới công nghệ, các nhà quản lý, các nhà  
kỹ thuật và công nghệ, công nhân lành nghề, công nhân bán lành nghề, lao động giản đơn. 
Bởi vậy cơ cấu, chất lượng Nguồn nhân lực cũng cần có sự thay đổi  cho phù hợp với sự 
thay đổi của công nghệ.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ  là nguồn để  xuất khẩu lao động sang các  
khu vực, các quốc gia phát triển hơn. Lao động xuất khẩu đem lại một khối lượng lớn 

ngoại tệ; đồng thời, thực hiện sự phân công lao động giữa các khu vực, các quốc gia. 
Nh vậy, Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự  phát triển kinh tế xã hội.  
Nó là một nhân tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là chủ  thể  vận hành 
sản xuất và các hoạt động xã hội. Một sự  phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong  
tương lai được quyết định bởi sự phát triển của chính Nguồn nhân lực cuả quốc gia đó
1.3. CÁC NHÂN TỐ  TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ 
1.3.1. Đường lối công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá của Đảng
16


Sự  nghiệp đổi mới của dân tộc ta đang đứng trước một giai đoạn có tính chất  
bước ngoặt quyết định sự phát triển của đất nước để bước vào thế  kỷ XXI một cách tự 
tin. Bởi vậy cần có một cách nhìn, một sự nhận thức đúng đắn về những động lực cho sự 
phát triển kinh tế xã hội nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá­ hiện đại hoá nói riêng.
Công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá  ở  nước ta hiện nay đòi hỏi tiếp thu một cách có  
hiệu quả những tri thức hiện đại của thế giới. Đồng thời phải phát huy được sức mạnh  
nội sinh của dân téc, phát huy được mọi tiềm năng của đất nước, tiềm năng của các vùng  
từ miền xuôi đến miền núi… nhằm bảo đảm cho nền kinh tế nước ta phát triển cân đối 
và vững chắc, từng bước giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh.
1.3.2. Thực trạng tình hình kinh tế xã hội 
Nguồn nhân lực (số lượng, chất lượng, cơ cấu quản lý, sử dụng) của địa phương, 
vùng.
Thực trạng tình hình kinh tế xã hội và tình hình Nguồn nhân lực giúp cho việc nắm  
được những thông số về tình hình thực tế, nhằm bảo đảm tính khoa học cho quy hoạch  
Nguồn nhân lực, từ đó phát triển Nguồn nhân lực một cách toàn diện.
1.3.3. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, vùng
Quá trình phát triển Nguồn nhân lực phải căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế 
xã hội của địa phương, vùng vì Nguồn nhân lực là một yếu tố sản xuất của nền kinh tế.  
Hơn nữa đây cũng là cơ  sở  để  quá trình phát triển Nguồn nhân lực bảo đảm tính khoa 

học, tính hệ thống của nó.
1.3.4. Quan hệ cung cầu về lao động 
Hình thành một thị trường lao động là quá trình tất yếu đi liền với nền kinh tế thị 
trường. Muốn phát triển Nguồn nhân lực cần thấy được xu hướng phát triển của quá 
trình này, nghiên cứu nắm bắt những biến động của quan hệ cung cầu về lao động phục 
vụ kịp thời nhu cầu phát triển của vùng.
Đặc điểm chung của nước ta nguồn lao động trong độ  tuổi khá dồi dào, song lao 
động có thể sử dụng lại rất nghèo nàn, đặc biệt là các thành phố các khu công nghiệp tập  
17


trung, các vùng kinh tế động lực lại đang rất thiếu lao động, bởi ở đó đòi hỏi lao động có 
chuyên môn kỹ thuật, lao động đã được đào tạo. Đây là một yếu tố quá trình khi tính toán  
quan hệ cung cầu về lao động.

CHƯƠNG 2:
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở 
NÔNG THÔN PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH­HĐH Ở NƯỚC TA
2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NÔNG THÔN VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG ĐẾN 
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Nông thôn Việt Nam gồm nhiều vùng rộng lớn và trãi rộng khắp ba miền Bắc  
Trung Nam của đất nước. Vùng có tỷ  lệ  dân số  nông thôn lớn nhất là Bắc Trung Bộ 
(89,2%), tiếp đến là miền núi và trung du Bắc Bộ  (85,7%, đồng bằng sông Cửu Long 
(83,4%), đồng bằng sông Hồng (80,1%), thấp hơn khá nhiều là Tây Nguyên (76,6%),  
Duyên hải miền trung (75,8%) và thấp nhất là Đông Nam Bộ (51,6%).  Hoạt động kinh tế 
chủ  yếu  ở  nông thôn là sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp chiếm 35% trong tổng sản 
phẩm quốc nội của cả  nước và thu hót trên 72% lực lượng lao động  ở  nông thôn.Trong 
nông nghiệp, giá trị sản lượng chiếm 75,7% tổng sản lượng (chủ yếu là cây lương thực). 
Sản lượng lương thực chủ yếu là lúa. Ngoài cây lúa, cây công nghiệp có: cao su, cà phê,  
18



chè, quế, điều, thuốc lá, tơ tằm… Tiềm năng về lâm nghiệp cũng rất lớn. Trong tổng số 
9 triệu héc ta đất rừng khoảng 6 triệu ha được coi là rừng có giá trị thơng mại. Mặc dù có  
nguồn lao động dồi dào và nhiều tiềm năng phát triển phong phú đa dạng, nhưng trước  
yêu cầu đổi mới và phát triển nông thôn Việt Nam cũng đang nảy sinh nhiều vấn đề kinh 
tế xã hội vĩ mô rất đáng quan tâm. Trong đó nổi bật nhất là: mức tích luỹ và đầu tư  còn  
rất thấp, cơ sở hạ tầng cơ bản chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển, hệ 
thống y tế  đang xuống cấp nhanh chóng, chất lượng phục vụ  y tế  giảm sút rõ rệt,tình  
trạng suy dinh dưỡng  ở  trẻ  em ngày càng tăng. Cũng như  hệ  thống y tế, hệ  thống giáo  
dục ở nông thôn Việt Nam còng kém phát triển và có nhiều bất cập. Trung bình hàng năm  
có khoảng 10% số học sinh bỏ học, trong đó có hơn 50% là do kinh tế  gia đình quá khó  
khăn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến trình độ học vấn của Nguồn nhân lực trong khu 
vực nông thôn thấp, ngoài lý do thu nhập thấp, đa số  các hộ  gia đình đều đông con nên  
người nông dân chỉ đủ chi phí trang trãi cho con em mình đi học trong những năm đầu còn  
sau đó tình nguyện cho con mình nghĩ học. Vì vậy hiện tượng mù chẽ và tái mù chữ  trở 
nên khá phổ biến. Nhà nước chưa có chính sách giáo dục phù hợp với mức sống của dân  
cư nông thôn, kinh phí của Nhà nước cho việc giáo dục, đào tạo còn eo hẹp, phân tán. Số 
lượng các trường học  ở  khu vực nông thôn đều rất thấp, hầu hết cơ  sở trường lớp quá  
thiếu thốn, chất lượng xấu,  lớp học đa số  là nhà cấp 4 đã xuống cấp, bàn ghế  hư  hại  
nhiều nhưng không được bổ  sung sửa chữa hàng năm, sách vở, đồ  dùng học tập, các 
dụng cụ thí nghiệm… cho học sinh tham khảo thêm gần như không có. Hiện nay do đời  
sống của phần đông cán bộ giáo viên còn khó khăn, chế độ đãi ngộ  với tri thức còn kém 
hấp dẫn, đa số giáo viên phải lo chạy theo yêu cầu đảm bảo cuộc sống của bản thân họ 
nên chưa chú tâm nhiều vào công tác giảng dạy. Tâm lý họ  chỉ  muốn  ở  lại giảng dạy  
trong các thành phố hoặc đồng bằng, nơi điều kiện sinh hoạt và làm việc tốt hơn nên xảy 
ra hiện tượng thừa giáo viên ở thành thị và đồng bằng, song ở vùng sâu, vùng xa lại thiếu  
giáo viên trầm trọng . Một nguyên nhân nữa là do tư  tưởng của người nông dân. Họ 
thường quan niệm rằng, học chẳng để  làm gì vì trước sau họ  cũng quay lại với nghề 
nông thuần tuý. Vì thế họ chỉ cần học đủ biết đọc, biết viết, và làm tính đơn giản là đủ,  

còn học lên cấp II, cấp III, là điều không cần thiết và hoang phí tiền bạc. Mặt khác, cơ sở 
19


hạ  tầng  ở  nông thôn còn rất yếu kém, hiện nay  ở  nông thôn, đặc biệt một số  vùng như 
Đồng bằng sông Cửu Long, vùng núi, việc đi lại gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến  
việc học hành, khả  năng giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các vùng, đến khả  năng tiếp thu 
những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Như vậy, nông thôn Việt Nam đang tồn 
tại rất nhiều yếu kém, làm cản trở và giật lùi quá trình công nghiệp ho á­ hiện đại hoá ở 
nước ta. Muốn phát triển nông thôn, công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá nông thôn việc trước 
tiên cần phải làm là giải phóng và phát triển Nguồn nhân lực, đây chính là mấu chốt của  
vấn đề. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn tức là sử dụng có hiệu quả nguồn lao động  
dồi dào  ở nông thôn, làm đòn bẩy để phát triển kinh tế ­ xã hội nông thôn, thúc đẩy quá  
trình công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá ở nông thôn.
2.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN NƯỚC  
TA KHI BƯỚC VÀO THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ ­ HIỆN ĐẠI HOÁ
Nông thôn nước ta chiếm 80% dân số, 72% nguồn lao động xã hội. Tuy nhiên, tổng  
hợp các chỉ tiêu kinh tế ­ xã hội ­ văn hoá (bình quân GDP đầu người, GDP tính theo sức 
mua (PPP), số calo hấp thụ bình quân ngày/người, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỉ lệ người 
dùng nước sạch..) thì sự phát triển của nông thôn Việt Nam chậm hơn gấp nhiều so với  
các quốc gia châu Á, chưa kể tới các quốc gia phát triển ở Âu, Mỹ. Theo số liệu thống kê  
trên tạp chí Cộng Sản số  15 (8­2001) nông thôn mới tạo ra khoảng 1/3 tổng sản phẩm 
quốc   dân.   Tỉ   trọng   công   nghiệp   mới   chiếm   13,8%,   dịch   vụ   14,7%,   còn   nông   nghiệp 
71,45% trong tổng giá trị  sản xuất. Tỷ  trọng công nghiệp và dịch vụ  trong cơ  cấu thu  
nhập của nông dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long là 5,18% và 14,13%; đồng bằng Sông 
Hồng 7,65% và 9,05%, chênh lệch thu nhập giữa thành thị  và nông thôn trên 2 lần và có 
khả  năng tăng. Hộ  giàu Ýt, 90% hộ  nghèo của cả  nước là nông thôn. Trong khi đó, khả 
năng mở  rộng diện tích đất nông nghiệp có hạn. Tỷ  lệ  tăng dân số  còn khá cao. Tình  
trạng thiếu việc làm  ở nông thôn chiếm tới 35% tổng quỹ thời gian lao động. Lao động  
dư  thừa nhiều nhưng tốc độ  giải phóng lao động nông nghiệp còn chậm, sức hót của 

công nghiệp và dịch vụ tới lao động nông nghiệp còn yếu. Trình độ cơ giới hoá, điện khí 
hoá ở nông thôn vẫn còn thấp và cách xa các nước trong khu vực. Lao động thủ công năng 
20


suất thấp. Mức độ  đầu tư  trang bị  tài sản cố  định chậm, vốn đầu tư  trực tiếp từ  nước  
ngoài vào nông thôn và nông nghiệp ít (khoảng 3,6%), trong đó công nghiệp nông thôn lại  
càng ít hơn. 
2.2.1. Nguồn nhân lực nông thôn chiếm tỉ trọng lớn và tăng nhanh
Tại thời điểm 01/7/2001 (theo tạp chí Con Số và Sự Kiện/ tháng 12/ năm 2001) dân  
số nước ta là 78,7 triệu người, tăng 1 triệu người so với năm 2000, trong đó thành thị  là 
19.2 triệu người, chiếm khoảng 24,4%, nông thôn 59,5 triệu người chiếm 75,6%. Dân số 
thành thị già hơn thành thị nông thôn: Tỷ lệ nhân khẩu dưới tuổi lao động ở thành thị chỉ 
có 24,4% trong khi tỷ lệ này ở khu vực nông thôn tới 32,6%. Số người dưới tuổi lao động  
chiếm 30,35%, trong tuổi lao động (nam từ 15­60, nữ từ 15 ­ 55) chiếm 59,25%, trên tuổi 
lao động chiếm 10,4%. Cũng tại thời điểm này, cả nước có 39.489 nghìn người từ  đủ  15 
tuổi trở  lên hoạt động kinh tế  thường xuyên trong mười hai tháng trước thời điểm điều 
tra, trong đó nữ 19.505 nghìn người, chiếm 49,9%. Khu vực thành thị có 9.182 nghìn người 
chiếm 23,3%, khu vực nông thôn có 30.307 nghìn người chiếm 76,7%. Tỷ  lệ  tham gia  
hoạt động kinh tế của dân số từ đủ  15 tuổi trở lên thay đổi theo độ  tuổi: Các nhóm tuổi  
có tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế cao nhất là 35­39; tiếp đến là nhóm 25­29; 30­34; 40­
44 và 45­49. Các nhóm 20­24 trở xuống và 50­54 trở lên, tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế 
giảm dần. 
Sù thay đổi mạnh mẽ  cơ  cấu tuổi Nguồn nhân lực khu vực nông thôn theo chiều 
hướng tiến bộ này chứng tỏ trong những năm gần đây chúng ta đã thực hiện tốt chương  
trình dân số ­ kế hoạch hoá gia đình. Với một cơ cấu Nguồn nhân lực trẻ  thì đây là một 
lợi thế về tiềm năng lao động cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn, đồng thời cũng đặt  
ra vấn đề cho sự nghiệp đào tạo Nguồn nhân lực. Cơ cấu giới tính không có sự thay đổi  
nhiều. Tỷ lệ nữ vẫn cao hơn nam trong tổng số người hoạt động kinh tế, tỷ lệ nữ ở khu  
vực nông thôn cũng cao hơn so với nữ  khu vực thành thị  (nữ  nông thôn là 50,36%, nữ 

thành thị là 48,8%). Có xu hướng tăng tỷ trọng lao động nữ ở khu vực nông thôn và giảm  
dần tỷ trọng nữ tham gia hoạt động kinh tế ở thành thị. Điều này phản ánh sự phát triển  
chênh lệch giữa thành thị  và nông thôn. Cả  nước hiện có 22.812,9 nghìn người làm việc  
trong nhóm ngành nông lâm, ngư nghiệp… chiếm 60,54% tổng số lao động đang làm việc 
21


trong các ngành kinh tế  quốc dân; 5.428 nghìn người làm việc trong  nhóm nghành công 
nghiệp và xây dựng chiếm 14,41%; 9.436,5 nghìn người làm việc trong nhóm ngành dịch 
vụ, chiếm 25,05%. 
Biểu 1: Tình hình dân số và lao động nông thôn qua các năm (đơn vị: triệu người)
Năm
1995
Dân số cả nước
74
Dân số nông thôn
51,8
Thành thị
22,2
Dân số trong độ tuổi lao  29

1996
75,36
51,9
23,46
29,03

1997
76,71
49,9

26,81
28,96

1998
77,05
53,8
23,25
29,76

1999
76,33
52,5
23,83
29,36

2000
77,5
53,8
23,7
29,92

2001
78,7
54,2
24,5
31,5

động ở nông thôn
(Nguồn: Báo cáo về lao động , việc làm và thu nhập 2001 của viện kinh tế học ­ Hà Nội)
Sự dư thừa sức lao động ở nông thôn không phải là đặc trưng riêng của kinh tế thị 

trường mà là một thực tế tồn tại ngay từ thời kỳ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp. Tuy  
nhiên, có thể nói chưa bao giê sự  dư  thừa lao động, vấn đề  giải quyết lao động và việc  
làm trong cả  nước nói chung,  ở  nông thôn nói riêng lại bộc lé một cách gay gắt và cấp  
bách   như   hiện   nay.   Việt   Nam   là   nước   đông   dân   thứ   hai   ở   Đông   Nam   Á   (chỉ   sau  
Inđônêxia). Tốc độ  tăng dân số  bình quân khoảng 1,7% và tỷ  lệ  tăng dân số  đã giảm từ 
2,31% (năm 1991) xuống còn 1,8% (năm 1995) và 1,54% (năm 2001). Bình quân mỗi năm 
lực lượng lao động xã hội tăng thêm 1,2 triệu người, năm 2000 lực lượng lao động xã hội  
so vơi năm 1999 đã tăng thêm 1.170 nghìn người, thấp hơn số  lao động tăng bình quân  
hàng năm. Lao động xã hội chủ  yếu tập trung  ở khu vực nông thôn. Năm 1999, khu vực  
nông thôn chiếm 77,7% lực lượng lao động xã hội, năm 2000 tỷ  lệ  này đã giảm xuống  
còn 77,44%. Dân số nông thôn chiếm trung bình gần 70% dân số cả nước, trong đó dân số 
trong độ tuổi lao động ở nông thôn chiếm 56% dân số nông thôn. 
Biểu 2.1: Tỉ lệ lao động xã hội ở nông thôn (1976­1995)
                                         Năm
Tỉ   lệ   lao   động   xã   hội   nông 

1976
68

1980
69,9

1985
72,2

1990
75,6

1995
81,2


thôn 
Nguồn: Theo số liệu thống kê lao động ­ xã hội của Viện Kinh Tế Học –Hà Nội(1995)

22


Lao động xã hội chủ  yếu tập trung  ở  khu vực nông thôn, tỉ  lệ  lao động xã hội  ở 
nông thôn có xu hướng tăng lên từ  68% ( năm 1976), tăng lên 81,2% (năm 1995) rồi bắt  
đầu giảm xuống còn 77,2% (năm 2001).
Biểu 2.2: Tỷ lệ lao động xã hội ở nông thôn qua các năm 1995­2001
                                  Năm
1995
Lao động xã hội cả  nước (triệu  35,71

1996
35,87

1997
36,29

1998
37,41

1999
37,78

2000
38,64


2001
40,8

người)
Khu vực nông thông (triệu người)
29
Tỷ   lệ   lao   động   xã   hội   ở   nông  81,2

29,03
80,9

28,96
79,8

29,76
79,6

29,36
77,7

29,92 31,5
77,4    7,77,2

thôn (%)
Nguồn: Dân số ­ lao động ­ việc làm: Vấn đề, giải pháp và số liệu thống kê lao động ­  
xã hội, 1999 ­ Tạp chí: Con số và sự kiện (số 1,2/2002)
Sỡ dĩ có sự thay đổi về tỉ lệ lao động xã hội như vậy là vì cơ cấu lao động xã hội  
đã có sự  thay đổi theo định hướng; lao động trong ngành lao động nông nghiệp giảm  
xuống, lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng, ngành dịch vụ  tăng lên. Sự  thay 
đổi này rất tốt, làm chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển nhân lực phục vụ sự nghiệp  

công nghiệp hoá­ hiện đại hoá đất nước.
2.2.2. Nguồn nhân lực nông thôn phân bố  không đều giữa các ngành và các  
vùng
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, sản xuất nông nghiệp đã phát triển  
tương đối toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá và đạt được tốc độ  tăng trưởng bình  
quân 4,3%/ năm. Tuy nhiên, Nguồn nhân lực vẫn chủ  yếu tập trung  ở  nông nghiệp, lao 
động thuần nông chiếm phần lớn. Để đạt được các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế,  
cơ  cấu lao động, giải quyết có hiệu quả  vấn đề  việc làm, giảm tỷ  lệ  lao động nông  
nghiệp xuống còn khoảng 50% vào năm 2010 và để  đến năm 2020 nước ta cơ  bản trở 
thành một nước công nghiệp thì vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn trở thành mối 
quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội.
Biểu 3: Cơ cấu phân công lao động nông thôn theo 3 nhóm ngành chính qua các năm 
(1992­2001)
23


                                       Năm
Nông lâm nghiệp
Công nghiệp và Xây dựng
Dịch vô

1992
81,6
7,45
10,95

1996
81,64
6,83
11,53


2000
76,66
8,86
14,48

2001
60,54
14,41
25,05

Nguồn: Tổng hợp: Tạp chí Kinh Tế­ Xã Hội Nông Thôn ngày nay 9/1993; Tổng Cục  
Thống Kê 1994; Thị Trường Lao Động (10/2001)
Kết quả một số cuộc điều tra trong những năm qua cho thấy trên phạm vi cả nước, 
tỷ  trọng lao động công nghiệp và dịch vụ  tăng còn tỷ  trọng lao động nông nghiệp giảm, 
mặc dù xu thế này diễn ra chậm, tỉ lệ lao động ở nông thôn trong khu vực sản xuất nông  
lâm nghiệp tăng không đáng kể từ 81,6% năm 1992 lên 81,64% năm 1996 và giảm xuống 
còn 76,66% năm 2000,   60,4%  năm 2001. Từ năm 2000­2001, chỉ trong thời gian 1 năm tỷ 
lệ lao động trong ngành nông lâm nghiệp giảm 16,2%, trong khi từ 1996­2001 tỷ lệ trung  
bình mỗi năm giảm 2%. Tỷ lệ lao động trong khu vực sản xuất công nghiệp, xây dựng và 
dịch vụ tăng từ 18,4% năm 1992 lên 23,34% năm 2000 và lên 39,46% năm 2001, như vậy,  
trong thời kỳ 1992­2001, tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp ­ xây dựng ­ dịch vụ tăng 
lên 21,06%, trung bình mỗi năm chỉ tăng 2%,  nhưng từ năm 2000­2001, tỷ lệ này tăng lại  
lên đến 16,12% . Các chỉ tiêu về cơ cấu lao động xã hội trên phản ánh trình độ phát triển  
kinh tế  của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực. Tỷ trọng lao động trong  
nông nghiệp của Thái Lan chỉ  chiếm 49,37% trong tổng lực lượng lao động xã hội năm 
1998, tương tự chỉ tiêu này của Philippin là 36%, Mianma là 51,11% (năm 1997), Mailaixia  
15,7% và Inđônêxia 42,5% (Niên giám thống kê 1999 trang 429, 430). Cơ cấu lao động này 
cũng phản ánh trình độ công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật của 
người lao động Việt Nam còn  ở mức thấp kể từ  năm 2000 trở  về  trước, tiến trình công 

nghiệp hoá ­ hiện đại hoá còn rất chậm, riêng năm 2001 sự  chuyển dịch này tăng lên 
mạnh mẽ, báo hiệu tốc độ  công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá ở  nước ta nói chung và nông  
thôn nói riêng đang ngày càng phát triển và có lợi cho đất nước.
Biểu 4: Cơ cấu lao động nông thôn theo ngành và theo vùng kinh tế (đơn vị: %)
1996

24

2000


Vùng   kinh 
tế 

Nông lâm 

Công nghiệp 

Dịch 

Nông lâm 

Công nghiệp 

Dịch 

ngư nghiệp

và xây dựng


vụ

ngư 

và xây dựng

vụ

8,86
11,08

14,48
13,92

Toàn quốc
Đồng   Bằng 

81,64
85,21

6,83
6,29

11,53
8,5

nghiệp
76,66
75,00


Sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên   hải 

92,42
97,84
86,3
80,28

2,41
0,1
5,51
7,28

5,17
2,06
8,19
12,44

90,23
95,68
78,76
74,96

3,51
0,88
9,03
9,7


6,26
3,45
12,22
15,35

miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng   bằng 

89,65
63,43
73,21

2,99
16,32
8,19

7,36
20,25
18,6

90,24
60,50
70,01

2,08
15,94
9,36


7,68
23,56
20,63

Sông Cửu Long
Nguồn: Tổng hợp từ Tạp chí lao động và xã hội (số 12/2001) vàTạp Chí Con Số và Sự  
Kiện số 5, 6/2000
 Như vậy, sau 5 năm, cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch theo xu hướng tăng  
tỷ trọng lao động phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp. Mặc dù vậy, sự 
chuyển dịch này diễn ra với tốc độ chậm và có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng. Đồng  
bằng Sông Hồng có sự  chuyển dịch nhanh nhất, sau 5 năm tỷ  lệ  lao động nông nghiệp  
giảm hơn 10%, trung bình mỗi năm giảm 2% trong khi cả  nước chỉ  giảm khoảng 1%.  
Điều này thể hiện phần nào lợi thế của vùng trong việc khôi phục và phát triển làng, phát  
triển ngành nghề  phi nông nghiệp. Các vùng Đông Bắc và Tây Bắc có sự  chuyển biến  
chậm, ở Tây Nguyên có sự có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo chiều hướng ngược 
lại, hoặc có thể coi như không có sự thay đổi. Sau 5 năm tỷ trọng lao động nông nghiệp 
của vùng tăng từ 89,65% năm 1996 lên 90,24 năm 2000, tỷ trọng này tuy tăng không nhiều  
song đây là dấu hiệu không mấy khả quan so với xu thế chung cuả cả nước. Vùng Đông 
Nam Bộ có tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là 16,32%, dịch vụ là  
20,25% (năm 1996), tỷ lệ này tăng lên ở năm 2000 là 15,94% và 23,56%. Đây là vùng có tỷ 
lệ lao động tham gia vào các ngành công nghiệp , xây dựng, dịch vô  lớn nhất so với các  
25


×