Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Chuyên đề: Nâng cao chất lượng luận tội của kiểm sát viên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.44 KB, 20 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK

 

CHUYÊN ĐỀ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LUẬN TỘI
CỦA KIỂM SÁT VIÊN,
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

            ­ Chỉ đạo thực hiện: Trần Đình Sơn, Viện trưởng;
            ­ Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Thị Kim Liên, Phó Viện 
trưởng;
            ­ Trực tiếp biên soạn: Lê Văn Minh, Trưởng Phòng 3.

1


Đắk Lắk, tháng 7 năm 2015
CHUYÊN ĐỀ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN 
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
                                                 

                                                    *             *
   
                                                                     *


Chuyên đề gồm 04 phần
         1. Khái niệm về luận tội; ý nghĩa của luận tội;
                   2. Kỹ năng xây dựng luận tôi;
                   3. Một số vấn đề rút kinh nghiệm trong việc xây dựng luận  
tội;
                   4. Thay lời kết.
2


PHẦN I
KHÁI NIỆM VỀ LUẬN TỘI; Ý NGHĨA CỦA LUẬN TỘI.

I.1. Khái niệm về luận tội:
            Điều 18 Luật tổ  chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: 
“Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền 
công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
           1. Công bố  cáo trạng hoặc quyết định truy tố  theo thủ  tục rút gọn, 
quyết định khác về buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa.
          2. Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết 
vụ án tại phiên tòa.
           3. Kháng nghị  bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát  
hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
          4. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy  
định của Bộ luật tố tụng hình sự”.
Điều 2 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử 
hình sự năm 2007 quy định:
“Khi thực hành quyền công tố tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, 
Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn:
…Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm…”
Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định rõ: “1.  

Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận  
tội…”
Với các quy định trên, chúng ta thấy, hoạt động luận tội của Kiểm sát 
viên (KSV) chỉ  có trong giai đoạn xét xử  các vụ  án hình sự  sơ  thẩm, hoạt 
động này là biểu hiện cụ  thể  việc thực hiện chức năng công tố  của Viện  
3


kiểm sát nhân dân (VKSND)  tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.  
Khi thực hành quyền công tố  (THQCT) tại phiên tòa xét xử  sơ  thẩm các vụ 
án hình sự, việc luận tội của KSV vừa là nhiệm vụ vừa là quyền hạn. Điểm 
khác biệt giữa phiên tòa phúc thẩm với phiên tòa sơ  thẩm ở chỗ, trong phần 
tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, KSV không trình bày luận tội mà phát 
biểu quan điểm của mình về  tính hợp pháp và tính có căn cứ  của bản án sơ 
thẩm trên cơ sở  đánh giá những chứng cứ cụ thể, chứng cứ mới và kết quả 
điều tra tại phiên tòa phúc thẩm.
Tranh luận là một thủ tục quan trọng của phiên tòa xét xử hình sự. Để 
bắt đầu cho việc tranh luận, sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa sơ 
thẩm, KSV trình bày lời luận tội. Lời luận tội thể hiện quan điểm của KSV,  
đại diện VKSND THQCT về  xử  lý vụ  án sau khi đã tham gia xét hỏi công 
khai tại phiên tòa.
Về  mặt hình thức, bản luận tội của KSV được chuẩn bị  trước bằng  
văn bản để trình bày tại phiên tòa. Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do 
KSV thực hiện và là một văn bản bắt buộc phải có trong hồ sơ kiểm sát xét  
xử. Tại khoản 1 Điều 23 Quy chế  kiểm sát xét xử  hình sự  (KSXXHS) quy  
định: “Trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải viết bản dự  thảo  
luận tội theo mẫu hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với  
vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử lưu động, bản dự thảo luận tội của 
Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện duyệt và cho ý kiến”.
Vậy, bản luận tội là gì ? 

Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do KSV trình bày tại phiên tòa 
hình sự  sơ  thẩm sau khi kết thúc phần xét hỏi, mở  đầu cho việc tranh luận 
công khai, thể hiện rõ quan điểm của KSV đại diện cho VKSND kết luận về 
tội phạm, người phạm tội, vai trò của bị  cáo, nhân thân bị  cáo, các tình tiết  
tăng năng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với bị cáo, nguyên 
nhân và điều kiện phạm tội … nhằm buộc tội bị cáo và đưa ra các đề  xuất  
về loại và mức hình phạt, về các biện pháp tư pháp và việc giải quết vấn đề 
dân sự  trong vụ  án hình sự  và đề  xuất về  các biện pháp đấu tranh phòng 
ngừa tội phạm.
I.2. Ý nghĩa của luận tội.
Như trên đã đề cập, hoạt động luận tội của KSV tại phiên tòa hình sự 
sơ  thẩm là loại hoạt động thực hiện chức năng công tố, nó thể  hiện quyền  
lực của Nhà nước. Do vậy hoạt động luận tội mang ý nghĩa pháp lý, chính trị 
­ xã hội sâu sắc, bởi lẽ:
I.2.1.  Lời luận tội của KSV tại phiên tòa thể  hiện quan điểm của  
VKSND trong việc xử lý đối với tội phạm và người thực hiện hành vi phạm 
tội.
4


I.2.2. Lời luận tội của KSV sau khi kết thúc việc xét hỏi đã mở  đầu 
giai đoạn tranh luận giữa người tiến hành tố  tụng (Kiểm sát viên) và những 
người tham gia tố  tụng. Tranh luận tại phiên tòa là một thủ  tục bắt buộc  
được quy định tại Chương XXI Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), thể hiện 
nguyên tắc tranh tụng của các bên trong tố  tụng hình sự. Trên cơ  sở  tranh  
tụng dân chủ  và bình đẳng của các bên tham gia tại phiên tòa cùng những 
phân tích và kết luận của KSV khi luận tội, Hội đồng xét xử  (HĐXX) cân 
nhắc khi nghị án và ra bản án, quyết định có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng 
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan  
người vô tội. Như vậy, ngoài ý nghĩa pháp lý. Luận tội của KSV còn mang ý 

nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc, phù hợp với các yêu cầu của cải cách tư pháp  
được nêu tại Nghị quyết 08­NQ/TW và Nghị quyết 49­NQ/TW của Bộ Chính 
trị về cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp 
quyền hiện nay.
I.2.3. Thông qua lời luận tội, KSV phân tích làm sáng tỏ  các nguyên 
nhân và điều kiện của tội phạm và kiến nghị đến các cơ quan, tổ chức để có 
những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế, sơ hở trong công tác quản  
lý… có tác dụng lớn trong công tác phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp  
luật.
I.2.4. Cũng thông qua lời luận tội, với những phân tích sâu sắc, khách 
quan, toàn diện và mang tính thuyết phục, quần chúng nhân dân sẽ hiểu biết  
thêm về  pháp luật, nhận thức sâu sắc hơn về  sự  công minh của pháp luật  
hình sự  và chính sách của Nhà nước ta, từ  đó họ  nâng cao ý thức tuân thủ 
pháp luật và nâng cao trách nhiệm trong việc phòng, chống tội phạm.
Với ý nghĩa pháp lý, chính trị ­ xã hội của bản luận tội như trên, việc 
chuẩn bị dự thảo luận tội và trình bày luận tội tại phiên tòa của KSV phải có 
căn cứ và có tính thuyết phục cao.
Làm tốt việc luận tội cũng chính là làm tốt chức năng THQCT tại 
phiên tòa sơ thẩm hình sự; vị trí, vai trò của KSV tại phiên tòa sẽ được nâng  
cao.
PHẦN II. 
     KỸ NĂNG VIẾT DỰ THẢO LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN

II.1. Yêu cầu của luận tội
Luận tội phải đạt các yêu cầu sau đây:
II.1.1. Luận tội phải có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể.
Đây là yêu cầu cơ bản đầu tiên của luận tội. Luận tội là sự  buộc tội  
chính thức cuối cùng tại phiên tòa sơ thẩm của VKSND đối với bị cáo; là căn 
cứ  để  bị  cáo, người bào chữa và những người tham gia tố  tụng khác tự  bào 
chữa hoặc bào chữa, là căn cứ để  HĐXX xác định giới hạn xét xử và ra bản 

5


án đúng pháp luật. Vì vậy luận tội phải có căn cứ, chính xác, khách quan và  
cụ thể.
Trong luận tội, các kết luận về  hành vi phạm tội của bị  cáo phải  
được viện dẫn chứng cứ chứng minh. Các chứng cứ nêu trong luận tội phải 
là các chứng cứ  đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa trong giai đoạn xét  
hỏi. Việc đánh giá tính chất, mức độ  phạm tội, vai trò, trách nhiệm của bị 
cáo trong vụ án; việc viện dẫn các căn cứ pháp luật (điểm, khoản, Điều luật  
áp dụng…) phải bảo đảm chính xác. Nếu trong quá trình xét hỏi bị  cáo tại  
phiên tòa mà xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi quyết định truy tố  đã ghi 
trong cáo trạng, thì trong lời luận tội, KSV phải phân tích, đánh giá tình tiết  
mới đó và trong những trường hợp được pháp luật cho phép, KSV đề  nghị 
kết tội bị  cáo theo toàn bộ  hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận 
về  tội danh nhẹ  hơn; nếu thấy không có căn cứ  để  kết tội thì rút toàn bộ 
quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bị cáo không có tội.
Khi đề xuất quan điểm, đường lối giải quyết vụ án, KSV phải nêu cụ 
thể  về  hình phạt chính, hình phạt bổ  sung và các biện pháp tư  pháp cần áp 
dụng.
           II.1.2. luận tội phải có tính thuyết phục, giáo dục và phòng ngừa 
tội phạm.
Khi một bản luận tội bảo đảm được tính có căn cứ, chính xác, khách  
quan và cụ thể thì bản thân nó đã có tính thuyết phục rồi. Thuyết phục ở đây 
trước hết là thuyết phục đối với Tòa án (HĐXX) rằng những yêu cầu buộc  
tội đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Tiếp theo là thuyết  
phục với bên bào chữa và đối với tất cả những người có mặt tại phiên tòa.
Thông qua việc trích dẫn và phân tích Điều luật mà hành vi phạm tội 
của bị cáo đã vi phạm, luận tội có tác dụng tuyên truyền, giáo dục pháp luật, 
giúp cho bị cáo và những người tham dự phiên tòa hiểu rõ những hành vi nào 

bị  pháp luật ngăn cấm. Từ đó họ  tự  điều chỉnh hành vi của mình theo đúng 
quy định của pháp luật.
Trong bản luận tội vụ án Nguyễn Văn Đô phạm tội “Trốn tránh nghĩa  
vụ  quân sự”, KSV đã viết: “Tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Văn Đô đã khai 
nại ra nhiều lý do và nguyên nhân dẫn đến hành vi không chấp hành luật  
nghĩa vụ  quân sự  của mình, nhưng bất luận là vì lý do gì đi nữa thì hành vi 
trốn tránh nghĩa vụ quân sự của Nguyễn Văn Đô cũng đã phạm vào khoản 1  
Điều 259 BLHS. Điều luật quy định “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự.
1. Người nào không chấp hành đúng quy định của pháp luật về  đăng  
ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung  
huấn luyện, đã bị  xử  lý hành chính về  hành vi này hoặc đã bị  kết án về  tội 
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị  phạt cải tạo không giam  
giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
6


            Như vậy, tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi phạm 
tội của Nguyễn Văn Đô đã được luật hình định rõ. Song để  có cơ  sở  cá thể 
hóa trách nhiệm hình sự, áp dụng một mức hình phạt thỏa đáng đối với bản 
thân bị cáo, chúng ta cần thấy rằng:
Để   phải   đứng  trước   vành móng  ngựa  hôm  nay và  phải chịu  phán 
quyết của pháp luật hình sự  trước hết nguyên nhân và trách nhiệm thuộc về 
bị  cáo. Bị  cáo sinh ra và lớn lên trên một quê hương có truyền thống cách 
mạng, đã có biết bao thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu, cuộc đời để giải 
phóng quê hương, đất nước, giành lấy độc lập dân tộc, vững bước tiến lên 
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,  
xã hội công bằng, dân chủ  và văn minh. Quyền cao quý và nghĩa vụ  thiêng  
liêng của mỗi một thanh niên là phải tự  giác lên đường thi hành nghĩa vụ 
quân sự, góp phần gìn giữ độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng của  
cha ông ta để  lại. Song bị  cáo đã đi ngược lại tất cả, tự chọn cho mình con  

đường phạm tội “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”.
Đoạn văn dưới  đây là của một KSV VKSND thành phố  Buôn Ma 
Thuột viết trong bản luận tội vụ án “Cố ý gây thương tích”:
“Điều đáng lên án hơn trong vụ  án này là bị  cáo đã gây thương tích 
cho chính mẹ  ruột của mình, là người đã sinh và nuôi dưỡng bị  cáo hơn 36  
năm. Đáp lại công  ơn  ấy, đáng lẽ  ra bị  cáo phải học hành, tu dưỡng, rèn 
luyện bản thân để trở thành người tốt, có ích cho xã hội, có hiếu với cha mẹ. 
Nhưng ở đây, bị cáo lại bỏ bê học hành, đàn đúm nhậu nhẹt để rồi trở thành 
một người lười lao động, ăn bám gia đình. Khi được cha mẹ  khuyên can thì 
không tỉnh ngộ  mà vẫn mê muội ngày ngày làm bạn với rượu chè. Sau mỗi 
chầu nhậu thì lại về  chửi mắng, cãi lời cha mẹ. Ngày 13/11/2014, ngủ  dậy  
sau cơn say rượu, do không tìm thấy thức ăn nên Y Sai lớn tiếng hỏi mẹ. Khi 
bà H’Băm Ênuôl nói “thức ăn hết rồi ! mày lớn rồi không lo đi làm kiếm tiền 
về  mà mua thức ăn !” thì đáng lẽ  ra bị  cáo phải cảm thấy hổ  thẹn về  bản  
thân, một người đàn ông đã 36 tuổi đời mà vẫn ăn bám gia đình, nhưng ở đây, 
bị cáo lại tỏ thái độ  bực tức và dùng cây đánh liên tiếp vào người bà H’Băm 
Ênuôl gây nên thương tích”.
Một KSV của Phòng 2 VKSND tỉnh đã có đoạn viết trong bản luận  
tội vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” là: “Như chúng ta đã biết, ma túy là  
chất gây nghiện rất độc hại, khi con người đã sử dụng ma túy thì sẽ rất khó 
từ bỏ; sử dụng ma túy trái phép sẽ làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe,  
làm băng hoại nhân cách con người, suy giảm nguồn nhân lực,  ảnh hưởng  
đến sự  phát triển nòi giống, là nguyên nhân gây ra căn bệnh thế  kỷ  HIV,  
AIDS…; Và, loại tội phạm về  ma túy này cũng gây mất trật tự  an toàn xã 
hội, làm phát sinh các tội phạm khác như  trộm cắp, cướp của, giết người  
v.v…, bỡi lẽ, khi người nghiện lên cơn khát thuốc, họ sẽ bất chấp tất cả để 
có ma túy sử dụng… Tệ nạn ma túy đã làm cho nhiều gia đình lâm vào cảnh  
7



bần cùng, tan cửa nát nhà, gây ra những hậu quả và hệ lụy to lớn cho xã hội. 
Chính vì vậy Nhà nước độc quyền quản lý loại chất độc hại này, mọi hành 
vi trồng, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt; tổ  chức sử 
dụng; chứa chấp việc sử  dụng; lôi kéo, cưỡng bức người khác sử  dụng trái  
phép chất ma túy đều bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc; các tội phạm về ma 
túy và những người thực hiện tội phạm đều bị xã hội lên án”.
 
Tính phòng ngừa tội phạm của luận tội thể  hiện  ở  việc phân tích 
những nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội. Trong  
đó có việc phân tích những sơ  hở, thiếu sót, vi phạm trong quản lý kinh tế, 
quản lý xã hội, quản lý con người. Từ đó kiến nghị với các cơ quan, tổ chức,  
đơn vị rút kinh nghiệm, đề  ra biện pháp khắc phục vi phạm, “bịt” các sơ  hở 
thiếu sót.
            II.1.3. Về văn phong
Luận tội phải được viết với văn phong trong sáng, mạch lạc, dễ hiểu; 
bố cục phải chặt chẽ và có logic; từ ngữ phải chuẩn xác, không dùng những  
từ  ngữ có tính miệt thị bị cáo như gọi bị cáo là “thị”, “y”, không “đao to búa 
lớn”, phân tích tính chất mức độ phạm tội thì rất nghiêm trọng song đề  nghị 
xử  lý vụ  án lại quá nhẹ  (cho bị  cáo hưởng án treo) làm cho người nghe hụt 
hẫng. Luận tội là một bài văn, nhưng lại không được “văn” quá làm cho 
người nghe cảm thấy “sáo rỗng”.
II.2. Cơ cấu và nội dung của bản dự thảo luận tội
Khoản 1 Điều 23 Quy chế  KSXXHS quy định: “Trước khi tham gia  
phiên tòa, Kiểm sát viên phải viết dự thảo luận tội theo mẫu hướng dẫn của  
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc xét  
xử  lưu động bản dự thảo luận tội của Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo  
Viện duyệt và cho ý kiến”. Để thống nhất chung cho toàn ngành, VKSND tối 
cao đã có mẫu hướng dẫn số  136 kèm theo Quy chế  KSXXHS về viết luận  
tội với cơ cấu gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
II.2.1. Phần mở đầu

Phần này mang tính chất mở  đề  và được bắt đầu bằng câu: “Thưa  
Hội đồng xét xử !” tiếp đó, KSV tự giới thiệu về mình là đại diện VKSND… 
THQCT và KSXX tại phiên tòa sơ thẩm xét xử về hình sự đối với vụ án (nêu  
tên vụ án). Sau đó nêu mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, tầm quan trọng của việc 
xét xử vụ án.
  
Trong phần mở đầu bản luận tội vụ án Nguyễn Đức Hiệp cùng đồng 
bọn phạm tội “Cướp tài sản” ở huyện Krông Năng, KSV đã viết:
“Thưa Hội đồng xét xử !

8


Phần xét hỏi công khai tại phiên tòa đến đây kết thúc. Tôi, đại diện 
VKSND huyện Krông Năng THQCT và KSXX tại phiên tòa hôm nay, phát 
biểu quan điểm của VKS về vụ án này như sau:
Đạo đức, lối sống của thanh niên luôn luôn là vấn đề quan tâm của xã 
hội. Đa số thanh niên nước ta hiện nay có phẩm chất tốt, tôn trọng các chuẩn 
mực đạo đức xã hội, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, có ý thức công 
dân, sống có nghĩa tình, luôn biết quan tâm, giúp đỡ người khác, có đời sống  
văn hóa, tinh thần phong phú, nhu cầu giải trí lành mạnh… Tuy nhiên, hiện  
nay cũng còn không ít thanh niên không có chí hướng rõ ràng, lười lao động, 
lười học tập, ngại khó, ngại khổ, chưa làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của  
mình ở gia đình và xã hội; đề cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, đua đòi, 
thờ   ơ, vô cảm trước nỗi đau của người khác, thiếu trách nhiệm với cộng  
đồng. Một số  thanh thiếu niên mắc tệ  nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Rất  
nhiều vụ án hình sự xảy ra mà đối tượng phạm tội đang ở độ tuổi thanh niên.  
Tính trên địa bàn huyện Krông Năng từ  đầu năm tới nay, TAND huyện đã 
đưa ra xét xử  180 bị  cáo thì trong đó có tới 150 bị  cáo đang  ở  độ  tuổi thanh  
niên. Một con số đáng báo động, nhưng chưa dừng lại ở đó. Hôm nay, TAND 

huyện Krông Năng lại tiếp tục đưa 04 bị  cáo đang  ở  độ  tuổi thanh niên là: 
Nguyễn Đức Hiệp, Phạm Ngọc Thành, Dương Hoàng và Trần Văn Tình, 
phạm tội “Cướp tài sản” ra xét xử. Đây là việc làm nhanh chóng, kịp thời của  
các cơ  quan chức năng, không những nhằm mục đích trừng trị  những đối 
tượng có hành vi phạm tội, mà qua đây, những người tới dự  phiên tòa biết  
được sự  nghiêm minh của pháp luật, không khoan nhượng đối với người có  
hành vi phạm tội, từ đó cùng chung tay, góp sức nhằm góp phần giáo dục thế 
hệ trẻ trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội”.
Một KSV của VKSND huyện Ea H’leo đã viết  ở  phần mở  đầu của 
bản luận tội trong vụ án “Hủy hoại rừng” như sau:
“Thưa Hội đồng xét xử !
Phần xét hỏi công khai tại phiên tòa đến đây đã kết thúc, trước khi 
chuyển sang phần tranh luận, tôi đại diện VKSND huyện Ea H’leo thực hành 
quyền công tố  nhà nước và kiểm sát hoạt động xét xử  hình sự  tại phiên tòa 
phát biểu quan điểm của VKSND huyện Ea H’leo về vụ án như sau:
Như chúng ta đã biết, rừng là tài nguyên vô cùng quý giá của quốc gia 
và nhân loại. Rừng không chỉ  có ý nghĩa về  mặt kinh tế  và quốc phòng mà 
còn là yếu tố  quan trọng trong việc duy trì sự   ổn định về  môi trường sinh 
thái, gắn liền với đời sống của cộng đồng. Với ý nghĩa quan trọng đó, Đảng, 
nhà nước và các cấp, các ngành cũng đã ra sức tuyên truyền và có nhiều văn 
bản quy định về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng; nghiêm cấm các hành 
vi hủy hoại rừng. Thế nhưng, trong những năm qua, đặc biệt trong thời gian 
gần đây, tình hình vi phạm và tội phạm  ở  lĩnh vực quản lý và bảo vệ  rừng 
vẫn diễn biến phức tạp; số vụ vi phạm không những không giảm mà còn có 
9


chiều hướng gia tăng. Hậu quả  từ  việc phá rừng ngày càng nghiêm trọng. 
Việc chặt phá rừng tự  nhiên để  lấy gỗ  và đất làm nương rẩy xảy ra ngày  
càng nhiều và diễn biến phức tạp. Vì vậy, việc TAND huyện Ea H’leo đưa  

ra xét xử công khai đối với bị cáo Nông Văn Sình phạm tội “Hủy hoại rừng”  
không chỉ  nhằm trừng trị  kẻ  phạm tội, mà còn góp phần tuyên truyền, giáo 
dục pháp luật để  nhân dân nêu cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ 
rừng”.
Trong luận tội vụ  án Lê Văn Việt và Nguyễn Công Trước phạm tội  
“Hiếp dâm trẻ em”  một KSV của VKSND tỉnh Quảng Nam đã viết:
“Thưa Hội đồng xét xử !
Phần xét hỏi công khai tại phiên tòa hôm nay đến đây đã kết thúc. Tôi,  
đại diện VKSND tỉnh Quảng Nam THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp 
luật trong hoạt động xét xử  tại phiên tòa phát biểu quan điểm của VKSND  
trong việc đánh giá tính chất, mức độ  hành vi phạm tội của các bị  cáo; các  
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, trên cơ sở đó đề nghị mức hình phạt để 
HĐXX tuyên một mức án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Như chúng ta đã biết, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của 
con người là vô giá, thiêng liêng, bất khả  xâm phạm. Trẻ  em là hạnh phúc  
của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế  tục sự  nghiệp xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì thế luật pháp Quốc tế cũng như  pháp luật Nhà 
nước ta luôn luôn bảo vệ  trẻ  em, vì đây là đối tượng đặc biệt. Liên hiệp  
quốc đã có Công  ước về  quyền trẻ  em năm 1989, Việt Nam là một trong  
những nước đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Công ước về  quyền trẻ  em và  
năm 1999 Quốc hội nước ta thông qua luật “Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục 
trẻ  em” có hiệu lực từ  ngày 16/8/1999. Theo đó, luật pháp quốc tế  và pháp 
luật của Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến các quyền của 
trẻ  em, trong đó có các hành vi xâm phạm đến tình dục, lạm dụng tình dục 
đối với trẻ em; nghiêm trị thích đáng những đối tượng xâm phạm đến quyền  
của trẻ  em nói chung, đặc biệt là xâm phạm đến tình dục của trẻ  em nói 
riêng, nhất là trong những năm qua, tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em còn  
xảy ra nhiều. Do vậy hôm nay, TAND tỉnh Quảng Nam đưa các bị  cáo Lê 
Văn Việt và Nguyễn Công Trước ra trước vành móng ngựa để xét xử là biện  
pháp tích cực, thể  hiện quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về 

đấu tranh chống các hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em, nhằm đáp ứng 
yêu cầu của công tác đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này”.
            II.2.2. Phần nội dung
Đây là phần trọng tâm và quan trọng nhất, đòi hỏi KSV phải nghiên 
cứu kỹ  hồ  sơ  vụ  án án, phải chuẫn bị  kỹ  lưỡng, khách quan, đầy đủ  và có  
sức thuyết phục cao, nhất là khi xét xử  các vụ  án nghiêm trọng và phức tạp 
hoặc các vụ án được tổ chức xét xử lưu động có đông người tham dự.
10


II.2.2.1. Phân tích đánh giá chứng cứ
Trên cơ  sở  hồ  sơ  vụ  án và kết quả  xét hỏi tại phiên tòa, KSV cần 
đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ  để  xác định được sự  thật của vụ 
án; xác định tội phạm đã xảy ra như thế nào, nêu chứng cứ  chứng minh (lời  
khai, kết quả  giám định, các chứng từ… có nêu bút lục, nêu đúng hành vi 
phạm tội, lưu ý cả  hậu quả  của tội phạm, ý thức chủ  quan v.v…). Nếu có 
lời bào chữa của bị  cáo, người bào chữa và những người tham gia tố  tụng  
khác thì phải lập luận, bác bỏ hoặc chấp nhận và viện dẫn chứng cứ chứng 
minh. Từ đó, KSV đánh giá tổng hợp, kết luận về  sự việc phạm tội, người  
phạm tội và viện dẫn các chứng cứ  để  chứng minh tội phạm như: các biên 
bản khám nghiệm, kiểm tra, thu giữ  vật chứng, giám định pháp y, sổ  sách,  
chứng từ, lời khai bị  cáo, bị  hại, người liên quan, nhân chứng… trước Cơ 
quan điều tra và tại phiên tòa (có phân tích, đánh giá những mâu thuẫn để kết  
luận đúng, sai rõ ràng). Trên cơ sở đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án, KSV 
sẽ khẳng định nội dung truy tố của bản cáo trạng là hoàn toàn đúng hoặc có 
vấn đề  gì cần thay đổi như: rút quyết định truy tố, thay đổi tội danh, khung  
hình phạt nhẹ hơn… Đối với những vấn đề, tình tiết mới phát hiện tại phiên 
tòa có thể  làm thay đổi nội dung, tính chất của vụ  án, nếu chưa được thẩm  
tra đầy đủ, chưa có đủ  căn cứ  thì không thể kết luận mà phải đề  nghị  hoãn 
phiên tòa để điều tra xác minh.

Trong luận tội vụ án Nguyễn Đức Anh cùng đồng bọn phạm tội “Cố 
ý gây thương tích”, một KSV của VKSND huyện Krông Ana viết:
“Qua xét hỏi công khai tại phiên tòa, các bị  cáo Nguyễn Đức Anh,  
Nguyễn Minh Tuấn và Lương Mạnh Hà đã thành khẩn khai nhận về hành vi  
phạm tội của mình. Riêng bị cáo Trần Minh Quang không thừa nhận hành vi 
phạm tội của mình. Tuy nhiên căn cứ  vào lời khai của các bị  cáo khác, cha 
mẹ của bị cáo Nguyễn Đức Anh và Nguyễn Minh Tuấn, lời khai của người  
làm chứng Nguyễn Thị  Thanh Duyên và lời khai của người có quyền lợi 
nghĩa vụ  liên quan là Mã Duy Niên đều khẳng định sau khi cha của bị  cáo 
Anh bị  đánh và được đưa về  nhà thì bị  cáo Quang nói với bị  cáo Anh rằng,  
“Thằng Khoa nó đánh bố  mày như  vậy, vào chém chết mẹ  nó đi !”. Sau khi 
nói xong, bị cáo Quang còn đi lấy cây đòn gánh và nói với bị cáo Tuấn lấy xe 
chở  bị  cáo đi để  bị  cáo chỉ  nơi anh Khoa đang  ở; các lời khai của những  
người làm chứng là các anh Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Đăng Huân, Nguyễn  
Duy Anh, Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Xuân Tiến, Dương Văn Trường, Ôn 
Tấn Tủy và chị Hoàng Thị Thu đều khẳng định khi vào nhà anh Thủy, bị cáo  
Quang là người chạy vào trước và hô là “chúng mày đâu !”. Các lời khai trên 
phù  hợp với  02 Biên bản thực nghiệm  điều tra ngày 19/02/1014 và ngày 
12/6/2014, phù hợp với kết luận pháp y thương tích số  1080/PY­TgT ngày 
05/11/2013 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk. Do đó có đủ  cơ  sở  xác định 
vào khoảng 18 giờ  30 phút ngày 06/9/2013, tại nhà của bị  cáo Nguyễn Đức 
Anh, bị cáo Quang nói với bị cáo Anh việc cha của bị cáo Anh là ông Dao bị 
11


anh Khoa đánh và nói với bị cáo Tuấn lấy xe máy chở bị cáo Quang để bị cáo 
Quang chỉ  đường để  đánh anh Khoa. Sau đó bị  cáo anh lấy 01 con dao rựa  
đưa cho bị  cáo Hà, còn bị  cáo Anh cầm theo 01 mã tấu; bị  cáo Quang cũng 
cầm theo 01 cây đòn gành. Khi chạy xe tới nhà anh Thủy thì bị  cáo Quang 
chạy vào trước hô hào, bị  cáo Anh chạy vào sau và dùng mã tấu chém vào 

cánh tay trái, đầu gối và bàn chân trái của anh Khoa gây thương tích 47%  
thạm thời 06 tháng”.
Khi phân tích đánh giá chứng cứ đối với vụ án có bị  cáo phạm nhiều 
tội, thì phải tuân thủ  theo quy định đi từ  tội phạm nghiêm trọng đến tội ít 
nghiêm trọng. Có thể  xép thành nhóm tội phạm có liên quan chặt chẽ  với 
nhau để cùng phân tích đánh giá như: tội giết người và tội Cướp tài sản, tội  
đưa hối lộ  và tội nhận hối lộ… Cần tránh việc sao chép nội dung của bản 
cáo trạng vào nội dung luận tội.
II.2.2.2. Phân tích đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, vai trò và 
trách nhiệm của bị cáo (hoặc từng bị cáo).
+ Trên cơ sở đánh giá chứng cứ để phân tích đánh giá chung tính chất, 
mức độ của vụ án, tính chất hành vi và thủ đoạn phạm tội, xem xét mục đích 
và động cơ phạm tội, mức độ do hành vi phạm tội gây ra; phân tích các tình 
tiết tăng nặng, giảm nhẹ  trách nhiệm hình sự  theo đúng quy định của BLHS 
đối với từng bị cáo; xác định nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh… phạm tội.
+ Đánh giá, xác định vai trò, trách nhiệm của từng bị  cáo trong vụ  án 
theo trật tự  các tội nghiêm trọng trước, ít nghiêm trọng sau; sắp xếp các bị 
cáo theo thứ tự về vai trò trong vụ án như cáo trạng. Đối với từng bị cáo cũng 
phải phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng đối với họ.
Khi phân tích, xác định vai trò, trách nhiệm của bị cáo nào thì kết luận  
bị  cáo đã phạm tội gì, tội đó được quy định tại điều, khoản, điểm nào của  
BLHS.
Dưới đây là phần viết của một KSV VKSND thị  xã Buôn Hồ  trong 
bản luận tội vụ án “Hiếp dâm”:
“Trong vụ  án này có nhiều đồng phạm nên cần phải phân tích, đánh  
giá vai trò và trách nhiện hình sự  của từng bị  cáo để  cân nhắc áp dụng một  
mức hình phạt thật tương xứng với những gì mà các bị cáo đã gây ra. Bị cáo 
Lê Quang Sơn mặc dù không trực tiếp hiếp dâm chị  Hà, nhưng bị  cáo là  
người chủ  mưu, khởi xướng, rủ  rê, trực tiếp sắp xếp, giàn cảnh cùng như 
cách thức để  các bị  cáo khác thực hiện việc hiếp dâm chị  Hà (là người yêu 

của Sơn). Các bị  cáo Trần Tiến Sanh, Nguyễn Ngọc Sang, Võ Tấn Lâm và 
Lê Văn Pháp là những người thực hiện tích cực, mỗi bị  cáo đều thực hiện  
giao cấu với chị Hà 02 lần; bị cáo Lâm Duy Tiến tuy không trực tiếp tham gia  
hiếp dâm chị  Hà, nhưng Tiến đã có hành vi giúp sức tích cực bằng việc giữ 
tay chị Hà để cho bị cáo Sanh, Sang, Lâm và Pháp thực hiện hành vi hiếp dâm  
12


chị Hà. Như vậy thấy rằng vai trò trong vụ án và trách nhiệm hình sự của kẻ 
chủ mưu (bị cáo Lê Quang Sơn) và 04 bị cáo là những kẻ thực hành tích cực  
(Trần Tiến Sanh, Nguyễn Ngọc Sang, Võ Tấn Lâm và Lê Văn Pháp) là ngang 
nhau, nên cần phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc và tương xứng đối 
với 05 bị  cáo này. Riêng bị  cáo Lâm Duy Tiến với vai trò trong vụ  án thấp 
hơn, nên trách nhiệm hình sự  và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo Tiến  
cần nhẹ hơn 05 bị cáo vừa nêu trên”.
II.2.2.3. Đề nghị xử lý
+ Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hậu quả của vụ án, 
mục đích và động cơ  phạm tội, thủ  đoạn thực hiện tội phạm, các tình tiết 
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của vụ án, vai trò, trách nhiệm của  
từng bị  cáo trong vụ  án và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ  được áp  
dụng cho từng bị cáo; nguyên nhân, điều kiện phạm tội… có chú ý đến tình 
hình đấu tranh chống tội phạm nói chung, một loại tội phạm nào đó nói 
riêng; tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương… mà đề nghị xử 
lý đối với từng bị cáo.
Khi đề nghị phải theo thứ tự sau:
+ Trước tiên phải đề  nghị  tuyên bố  bị  cáo (từng hoặc các bị  cáo) 
phạm tội gì ?
+ Tiếp đến là đề nghị áp dụng pháp luật và hình phạt chính trước, đối 
với các bị  cáo chính trước (theo thứ  tự  như  đã nêu  ở  phần đánh giá vai trò, 
trách nhiệm của từng bị cáo). Bị cáo phạm nhiều tội phải đề  nghị  hình phạt  

cho từng tội riêng và tổng hợp theo quy định tại Điều 50 BLHS. Nếu bị  cáo  
đang chấp hành một bản án khác thì phải đề  nghị  tổng hợp hình phạt theo 
Điều 51 BLHS.
Ví dụ, trong một vụ  án “Trộm cắp tài sản” có đồng phạm, KSV có 
thể đề nghị như sau:
          “Từ  những phân tích và nhận định trên đây, tôi đề  nghị  hội đồng xét 
xử:
­Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn 
C phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tiêu thụ tài 
sản do người khác phạm tội mà có”.
­ Áp dụng các điểm a và b khoản 2 Điều 138; các điểm b và p khoản 
1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn A từ  03 năm 06 tháng đến  
04 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ  ngày bắt tạm giữ  là 
10/10/2014.
­ Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm b, g, h và p khoản 1 Điều 46  
Bộ  luật hình sự, xử  phạt bị  cáo Nguyễn Văn B từ  01 năm đến 01 năm 03 
13


tháng   tù.   Thời   gian   chấp   hành   hình   phạt   tù   tính   từ   ngày   bắt   tạm   giữ   là 
10/10/2014
  
­ Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm b, g, h và p khoản 1 Điều 46; 
Điều 69; khoản 1 Điều 74; các khoản 1 và 2 Điều 60 Bộ  luật hình sự, xử 
phạt bị  cáo Nguyễn Văn C từ  09 tháng đến 01 năm tù, nhưng cho hưởng án  
treo; thời gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm. Thời gian chấp hành 
tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là 15/01/2015.
­ Áp dụng khoản 1 Điều 250; các điểm h, m và p khoản 1 và khoản 2  
Điều 46; các khoản 1 và 2 Điều 60 Bộ  luật hình sự, xử  phạt bị cáo Nguyễn 
Văn Đ từ  09 tháng đến 01 năm tù, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử 

thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm. Thời gian chấp hành tính từ ngày tuyên 
án sơ thẩm là 15/01/2015”.
Trong luận tội vụ án Đặng Huy Cường, phạm tội “Cố  ý gây thương 
tích”, Cố ý làm hư hỏng tài sản” và “Chống người thi hành công vụ”, KSV đã  
viết rất rõ ràng và chặt chẽ là: “Đề nghị Hội đồng xét xử:
­ Áp dụng các điểm a và i khoản 1 Điều 104 (tội cố  ý gây thương  
tích); khoản 1 Điều 143 (tội cố  ý làm hư  hỏng tài sản); khoản 1 Điều 257  
(tội chống người thi hành công vụ); các điểm g và 0 khoản 1 Điều 48 Bộ luật  
hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Huy Cường:
. Từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”;
. Từ 24 đến 36 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”;
. Từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.
­ Áp dụng Điều 50 Bộ  luật hình sự  về  quyết định hình phạt trong 
trường hợp phạm nhiều tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho  
cả 03 tội từ 60 đến 84 tháng tù giam. Thời gian chấp hành hình phạt tù được 
tính từ ngày bắt tạm giữ là 22/11/2011”.
+ Về  hình phạt bổ  sung: Nếu tất cả  các bị  cáo bị  xét xử  về  các tội 
phạm mà theo quy định của BLHS việc áp dụng hình phạt bổ  sung là bắt 
buộc thì đều phải đề  nghị  áp dụng. Nếu đề  nghị  không áp dụng phải nêu rõ 
lý do. Đối với hình phạt bổ sung mà điều luật quy định có thể  (tùy nghi) thì 
phải cân nhắc để giải quyết tội nào, với bị  cáo nào thì áp dụng; tội nào, với  
bị cáo nào thì không áp dụng.
+ Các biện pháp tư pháp quy định tại các Điều 41, 42, 43 và 44 BLHS. 
Chú ý khi đề nghị bồi thường thiệt hại cần cụ thể, tránh nêu chung chung.
            II.2.2.4. Nêu những thiếu sót, sơ hở, vi phạm trong quản lý kinh 
tế, quản lý xã hội… và nguyên nhân, điều kiện làm cho tội phạm phát  
sinh, từ đó có kiến nghị với các cơ  quan, đơn vị  rút kinh nghiệm, đề  ra 
biện pháp xử lý, sửa chữa.
14



Trong nội dung của tiểu mục này gồm có 02 ý. Ý 1 là nêu những thiếu  
sót, sơ  hở, vi phạm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và nguyên nhân,  
điều kiện làm  cho  tội  phạm phát sinh và   ý 2 là kiến nghị  khắc  phục vị 
phạm…Thường thì 02 ý này viết chung vào tiểu mục này, nhưng nếu KSV  
thấy rằng ý 1 về  những thiếu sót, sơ  hở, vi phạm… và nguyên nhân, điều 
kiện tội phạm phát sinh nó có  ảnh hưởng rất đáng kể  đến việc phân tích, 
đánh giá tính chất, vai trò, mức độ phạm tội, trách nhiệm hình sự  và đề  nghị 
hình phạt đối với bị cáo thì nên viết xen vào  ở  phần phân tích, đánh giá tính 
chất, mức độ phạm tội, vai trò và trách nhiệm của bị cáo (tiểu mục II.2.2.2) 
để   khi   đề   nghị   về   tội   danh,   hình   phạt   và   biện   pháp   tư   pháp   (tiểu   mục 
II.2.2.3) được biện chứng, lô gic và có tính thuyết phục cao. Nhưng nếu xét  
thấy ý 1 không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến phần đề nghị 
về tội danh, hình phạt và biện pháp tư pháp, thì chỉ nêu chung trong tiểu mục  
II.2.2.4 này và đặt nó  ở  trước phần kiến nghị  phòng ngừa là phù hợp, biện  
chứng, lô gic và thuyết phục nhất (vấn đề này do KSV tự tính toán).
Xin giới thiệu một đoạn văn trong bản luận tội về vụ án “Chứa mại  
dâm” ở thành phố Buôn Ma Thuột:
“Thông qua vụ  án này cũng cho thấy nguyên nhân dẫn đến sự  việc 
phạm tội của bị cáo chính là do tham lam, tư lợi. Bị cáo chỉ biết đến lợi ích cá  
nhân là kiếm tiền bằng hành vi bất chính mà bất chấp những hậu quả  về 
nhiều mặt do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và sự nghiêm cấm, trừng trị 
của pháp luật. Bên cạnh đó còn thấy công tác tuyên truyền, giáo dục pháp 
luật, đạo đức lối sống và các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta đã 
được chính quyền và các tổ  chức đoàn thể  ngày càng quan tâm, nhưng hiệu 
quả còn hạn chế. Vì thế trước khi kết thúc bài phát biểu, Tôi đề xuất một số 
giải pháp để góp phần thực hiện tốt công tác phòng ngừa tội phạm như sau:
1. Chính quyền và các tổ  chức đoàn thể   ở  địa phương nhất là  ở  cấp 
cơ sở, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng cần phối hợp chặt chẽ để tiếp tục  
thực hiện có hiệu quả  Quyết định số  679 ngày 10/5/2011 của Thủ  tướng  

Chính phủ và Quyết định số  1628 ngày 07/7/2011 của Chủ tịch  Ủy ban nhân 
dân tỉnh Đắk Lắk về  phê duyệt Chương trình hành động phòng chống mại  
dâm giai đoạn 2011 ­ 2015. Xây dựng kế  hoạch và tổ  chức công tác tuyên 
truyền pháp luật (đặc biệt là luật hình sự) sâu rộng đến các tầng lớp nhân  
dân; tăng cường hơn nữa công tác phòng ngừa tội phạm nói chung, tệ  nạn  
mại dâm nói riêng.
2. Chính quyền địa phương và các gia đình cần phối hợp chặt chẽ 
trong việc giáo dục các thành viên trong gia đình thông qua việc ký các cam 
kết gia đình văn hóa, cam kết không vi phạm pháp luật.
3. Tăng cường công tác thanh, kiểm tra, triệt phá các tụ điểm, ổ nhóm 
hoạt động mại dâm; tuyên truyền cho người dân về  nâng cao ý thức cảnh  
giác, phòng ngừa và tích cực tố giác tội phạm.
15


4. Xây dựng các mô hình tại cộng đồng nhằm hỗ  trợ, giúp đỡ  những 
phụ  nữ  đã có hành vi bán dâm trong phòng chống HIV/AIDS, tái hòa nhập 
cộng đồng và có việc làm  ổn định cuộc sống. Xây dựng xã, phường lành 
mạnh, không có tệ nạn mại dâm”.
Để góp phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật và phòng ngừa các tội 
phạm về ma túy, một KSV Phòng 2 VKSND tỉnh Đắk Lắk đã viết:
         “Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm và đề  ra các chủ  trương, biện  
pháp quyết liệt để đấu tranh với loại tội phạm này, cụ thể là:
         ­ Đảng ta đã có Chỉ thị 21/CT­TW ngày 26/3/2008 của Bộ chính trị về 
“tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ  đạo công tác phòng, chống và kiểm soát 
ma túy trong tình hình mới” và hàng năm đều phát động, có tổng kết để  rút  
kinh nghiệm.
­ Pháp luật quy định hình phạt rất nghiêm khắc đối với loại tội phạm 
này, hàng năm  đều mở  các  đợt cao  điểm về  phòng chống ma túy gọi là  
“Tháng hành động phòng, chống ma túy” và lấy “ngày 26 tháng 6 – ngày Thế 

giới phòng, chống ma túy” là “ngày toàn dân phòng, chống ma túy” của nước 
ta.
Để  góp phần trong công cuộc đấu tranh phòng, chống các loại tội 
phạm cũng như các tệ nạn liên quan đến ma túy, mỗi người trong cộng đồng 
cần phải có trách nhiệm:
Thứ nhất, tự bản thân mình luôn luôn nói không với ma túy; giáo dục 
các thành viên trong gia đình, người thân cùng bà con cộng đồng về  tác hại 
của ma túy; quản lý chặt chẽ, có hành động để  ngăn chặn các thành viên 
trong gia đình cũng như mọi người không tham gia tệ nạn ma túy;
Thứ hai, kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái phép về ma túy của  
người thân và bà con cộng đồng;
Thứ ba, tham gia hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy tại các cơ sở cai 
nghiện và tại cộng đồng; theo dõi, giúp đỡ người cai nghiện ma túy hòa nhập  
cộng đồng để phòng, chống tái nghiện;
Thứ  tư, kịp thời phát hiện, cung cấp nhanh chóng các thông tin về  tệ 
nạn ma túy cho các cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp 
luật”.
II.2.3. Phần kết luận của luận tội
Phần này cần lưu ý những vấn đề sau:
­ Lưu ý HĐXX về yêu cầu, mục đích, tầm quan trọng… của việc xét 
xử vụ án để có quyết định chính xác.

16


­ Lưu ý HĐXX   về  những quan điểm mới phát sinh tại phiên tòa, 
những thay đổi quyết định truy tố  của VKSND tại phiên tòa (nếu có) để 
HĐXX lưu ý, quan tâm khi nghị án.
* Những điểm cần lưu ý khi xây dựng luận tội
a. Trước khi dự thảo luận tội:

­ Phải nghiên cứu kỹ  hồ  sơ  vụ  án (hồ  sơ  chính) để  nắm vững nội 
dung vụ án, các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ 
trách nhiệm hình sự của bị cáo, vai trò của bị cáo trong vụ án, động cơ, mục  
đích phạm tội và các đặc điểm về  nhân thân của bị  cáo, tính chất, mức độ 
hậu quả của hành vi phạm tội v.v…
­ Phải nghiên cứu các tài liệu khác có liên quan đến vụ  án như: tài  
liệu về  tình hình tội phạm trên địa bàn; các văn bản pháp luật có liên quan 
đến vụ án; ý kiến của các cơ quan Đảng, Nhà nước và dư luận nhân dân về 
vụ án v.v… để phục vụ cho việc viết luận tội được phong phú, sâu sắc.
            b. Luận tội phải được viết dự thảo bằng văn.
Không được viết dự thảo luận tội gạch đầu dòng kiểu đề cương.
Luận tội phải được lãnh đạo đơn vị  (Viện, Phòng) thông qua (Điều 
23 Quy chế công tác THQCT và KSXX hình sự).
c. Tại phiên tòa, KSV phải tập trung theo dõi diễn biến phiên tòa, ghi  
chép đầy đủ  các ý kiến của HĐXX, người bào chữa, bị  cáo và những người  
tham gia tố  tụng khác, đối chiếu với hồ  sơ  vụ  án và những chứng cứ, quan 
điểm nêu trong luận tội để sửa đổi, bổ sung luận tội cho phù hợp, tránh tình 
trạng tại phiên tòa có diễn biến khác nhưng KSV không sửa đổi, bổ sung dự 
thảo luận tội mà vẫn đọc nguyên văn như  dự  thảo (ví dụ: trong giai đoạn 
điều tra, truy tố bị can nhận tội, nhưng tại phiên tòa bị cáo chối tội và nêu lý  
do trước đây nhận tội là do bị bức cung, nhục hình .v.v…). KSV phải tích cực 
tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa để  làm rõ thêm những chứng cứ,  
quan điểm được nêu trong luận tội, bảo đảm tính có căn cứ, chính xác, khách 
quan và cụ thể của luận tội.
d. Sau khi xét xử xong, KSV phải hoàn chỉnh dự thảo luận tội, ký tên  
KSV và lưu vào hồ sơ kiểm sát án hình sự.
đ. Để  xây dựng được một bản luận tội tốt, KSV phải không ngừng  
học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ  hiểu biết về  pháp luật, chính trị, xã  
hội, kinh tế.v.v… trình độ  phân tích một vấn đề, kỹ  năng viết văn: câu văn 
phải đúng ngữ pháp, trong sáng, dễ hiểu, chữ dùng phải chính xác.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM TRONG VIỆC XÂY 
DỰNG LUẬN TỘI

III.1. Một số hạn chế, tồn tại:
17


Nhìn chung, các bản luận tội của KSV đều bám sát các nội dung trong  
mẫu hướng dẫn dự thảo luận tội số 136. Nhiều bản luận t ội được chuẩn bị 
chu đáo phản ánh đúng thực trạng của tình hình tội phạm, diễn đạt mạch lạc,  
rõ ràng, chính xác, phân tích, đánh giá chứng cứ có sức thuyết phục. Phần kết 
luận có căn cứ, đã bám sát vào đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật 
của Nhà nước, tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội 
phạm, nhiệm vụ  chính trị  địa phương v.v… có tác dụng tốt trong việc giáo 
dục người phạm tội và tuyên truyền, giáo dục nhân dân trong việc đấu tranh 
phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên, một số bản luận tội còn thể hiện 
những hạn chế, tồn tại dưới các dạng như sau:
III.1.1. Về nội dung luận tội:
­   Một   số   bản   luận   tội   vẫn   chỉ   giới   thiệu   rằng   “tôi,   đại   diện  
VKSND… thực hành quyền công tố…” mà không giới thiệu tiếp là “và kiểm  
sát hoạt động xét xử…”. Tức là không giới thiệu về chức năng thứ hai đó là 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư  pháp, được Quốc 
hội giao và yêu cầu VKSND phải thực hiện.
­ Trong một số vụ án bị cáo chối tội tại phiên tòa, luận tội không dẫn 
ra các chứng cứ cụ thể (biên bản phạm tội quả tang; các lời khai của bị cáo, 
bị hại, nhân chứng; vật chứng v.v… chẳng hạn) mà chỉ nêu chung chung; về 
lập luận để khẳng định về diễn biến nội dung vụ án mà cáo trạng đã đề cập 
và buộc tội đối với bị cáo thì cũng theo kiểu chung chung, thiếu biện chứng,  
thiếu tình thuyết phục.
­ Sau khi nêu tóm tắt về nội dung vụ án, thì chỉ  nêu “khẳng định bản  

cáo trạng số… ngày… của VKSND đã truy tố  bị  cáo… là hoàn toàn có căn 
cứ” mà quên nêu thêm rằng “vì vậy, tôi vẫn giữ  nguyên quyết định truy tố 
của VKSND… đối với bị  cáo… như  bản cáo trạng số… ngày…” hoặc “vì 
vậy, tôi giữ  nguyên quyết định truy tố  của VKSND … đối với bị  cáo… về 
tội… theo điểm… khoản… Điều…. Bộ luật hình sự”.
­ Một số bản luận tội không nêu rõ hoặc không nêu hết về tính chất, 
mức độ phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của  
bị cáo.
           ­ Mặc dù đã được rút kinh nghiệm nhiều lần, nhưng không ít bản luận  
tội thiếu hẳn nội dung “tôi đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo… phạm 
tội…”, kế trước nội dung đề nghị áp dụng pháp luật và hình phạt.
­ Về  biện pháp tư  pháp, một số  bản luận tội vẫn đề  nghị  thiếu đầy 
đủ, hoặc chung chung (ví dụ như “buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị 
hại số tiền từ… đến…đồng.v.v…”.
III.1.2. Về hình thức luận tội:

18


­ Không ít bản luận tội bố  cục “lộn xộn”, thiếu lôgic và khoa học, 
theo kiểu “gặp đâu nói đó”, không theo mẫu số 136 của VKSND tối cao (vấn  
đề  này VKSD tỉnh Đắk Lắk đã ghi rõ trong Thông báo số  52/TB­VKS­P3  
ngày 30/6/2014 và được đính kèm sau chuyên đề này).
­ Không ít bản luận tội vẫn có những đoạn văn thiếu phù hợp, theo 
kiểu “đao to, búa lớn”; dùng các cụm từ, thuật ngữ thiếu chuẩn xác và không 
phù hợp với vấn đề  cần nêu, theo kiểu “tùy hứng”, chứ  không bám sát với  
thực tế  của vụ án; có nhiều đoạn văn tối nghĩa, khó hiểu; sai nhiều về  ngữ 
pháp; một số  bản luận tội sử  dụng quá nhiều lần cụm từ  “Thưa Hội đồng 
xét xử !”, ở những vị trí không phù hợp, nghe nhàm chán .v.v…
III.2. Nguyên nhân chủ quan:

Bên cạnh một số  nguyên nhân khách quan không đề  cập  ở  đây, thì 
phải kể đến một số nguyên nhân chủ quan sau:
Một là, một số KSV nhận thức không đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan 
trọng của bản luận tội; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm với công việc,  
cho nên không quan tâm nắm chắc nội dung, các chứng cứ của vụ án và diễn  
biến phiên tòa; cá biệt có biểu hiện tư  tưởng là xây dụng dự  thảo và trình 
bản luận tội là để  cho có thủ  tục, cho xong việc nên chỉ  chú ý đến việc đề 
nghị hình phạt, các biện pháp tư pháp, chứ không quan tâm nhiều đến toàn bộ 
nội dung của bản luận tội.
Hai là, trình  độ  biên tập (thường  gọi nôm na là “viết lách”) cũng 
không ít KSV rất yếu như: các khả năng về xây dựng đề cương, bố cục, lập  
luận, dùng thuật ngữ, cụm từ, vấn đề ngữ pháp.v.v… còn yếu, thế nhưng lại 
không chịu tự học để nâng cao trình độ.
Không ít KSV do “lười” suy nghĩ nên đã “coppy” một số  nội dung 
trong luận tội của một vụ án khác, được lưu trong máy vi tính, rồi ghép vào 
bản luận tội mà mình dự  thảo, nhưng không kiểm tra và đã có hậu quả  là  
“râu ông nọ cắm cằm bà kia”.
Ba là, cũng thấy rõ rằng, một số ít đồng chí thủ trưởng ở một số đơn 
vị ngoài vấn đề  trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng biên tập có phần 
hạn chế, thì cũng chưa thật sự  sâu sát công việc, không thường xuyên giáo 
dục, quán triệt, kiểm tra, nhắc nhở KSV và điều đáng phải nêu là đã không 
“duyệt” dự thảo luận tội trước khi KSV tham gia phiên tòa; không cùng chịu 
trách nhiệm với KSV về chất lượng luận tội.
III.3. Một số đề nghị:
1. KSV được giao THQCT và KSXX cần nghiên cứu để nắm chắc vụ 
án; dự  kiến được các tình huống có thể  xảy ra tại phiên tòa, từ  đó cùng với  
việc chuẩn bị đề cương xét hỏi thì phải chuẩn bị tốt về luận tội theo các tình  
19



huống có thể  xảy ra; chủ  động, nhạy bén để  bổ  sung, sửa đổi nội dung dự 
thảo luận tội cho phù hợp với diền biến tại phiên tòa.
2.  KSV   phải   chịu   khó  nghiên   cứu,   học  hỏi  và   sáng   tạo   để   không 
ngừng nâng cao khả  năng biên tập (viết). Phải kiên quyết chống cho được 
“căn bệnh” mà lâu nay còn gặp là “coppy” luận tội sẵn có trong máy tình của 
vụ án này rồi đem ghép sang vụ án khác.
3. Lãnh đạo từng đơn vị  phải một mặt thường xuyên giáo dục về  ý 
thức trách nhiệm của KSV; quán triệt cho các KSV về  ý nghĩa, tầm quan  
trọng của bản luận tội đối với công tác THQCT và KSXX; mặt khác phải  
trực tiếp xem, chỉnh, sửa, duyệt luận tội của KSV và cùng chịu trách nhiệm 
với KSV về chất lượng bản luận tội.
IV. THAY LỜI KẾT
Nâng cao chất lượng bản luận tội của KSV để  đáp ứng yêu cầu cải 
cách tư pháp là phải nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của bản luận 
tội, điều đó rất đúng và rất cần nhưng chưa đủ, mà đi cùng với đó là những 
điều cũng hết sức  quan trọng thêm nữa đối với mỗi KSV là phải không 
ngừng rèn luyện cho mình có một khả  năng thuyết trình bản luận tội ngày 
một hấp dẫn và thuyết phục hơn; đồng thời KSV phải nghiêm túc trong việc 
sử  dụng trang phục của Ngành cũng như  phải có phong thái chững chạc, 
nghiêm túc, bình tĩnh và tự  tin trước phiên tòa. Những vấn đề  nêu trên phải 
luôn luôn được “đồng hành” với nhau trong mỗi một KSV tại mỗi một phiên 
tòa hình sự.
Nâng cao chất lượng bản luận tội của KSV không chỉ có ý nghĩa góp  
phần tích cực để nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSXX án hình sự 
của mỗi KSV nói riêng, của ngành KSND nói chung; góp phần tích cực giúp 
cho  HĐXX  ra một  bản  án   đúng  người,   đúng  tội,  đúng pháp  luật, có  sức  
thuyết phục cao, mà nó còn có ý nghĩa góp phần để nâng cao vị thế, vai trò và 
uy tín của ngành KSND trong bộ  máy nhà nước; tạo nên hình  ảnh đẹp của 
mỗi một KSV ngành KSND trong lòng công chúng; là một trong những việc 
làm quan trọng và có ý nghĩa trong công cuộc cải cách nền tư pháp nước nhà. 

Do vậy, nâng cao chất lượng bản luận tội của KSV là một trong những đòi 
hỏi mang tính tất yếu của cải cách tư  pháp, của công tác kiểm sát; nó phải  
được xem như  là một trong những việc làm quan trọng trước mắt, thường  
xuyên và lâu dài mà mỗi một KSV, mỗi một đơn vị  trong ngành KSND đều  
phải luôn luôn ý thức được và phải tích cực, quyết tâm thực hiện ngày một 
tốt hơn./.

20



×