Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tập học kỳ Luật doanh nghiệp: Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2014 so với Luật Doanh nghiệp 2005 về thành lập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.2 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ kế hoạch hóa tập trung- bao cấp
sang nền kinh tế thị trường với chế độ sở hữu hàng hóa nhiều thành phần, đã
có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập, tạo nên môi trường kinh doanh
năng động. Đi cùng với sự đổi mới ngày càng phát triển hơn của nền kinh tế,
các quy chế pháp lý về thành lập doanh nghiệp mạ cụ thể là trong Luật Doanh
nghiệp cũng có những chuyển biến, thay đổi nhất định để tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho những nhà đầu tư, thương nhân dễ dàng tham gia hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Chính vì lí do đó, bài tiểu luận xin được lựa chọn và phân
tích đề số 02: “Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Doanh
nghiệp 2014 so với Luật Doanh nghiệp 2005 về thành lập doanh nghiệp
(tối thiểu là ba điểm mới)”1

B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thành lập doanh nghiệp
1.1. Khái niệm thành lập doanh nghiệp
Thành lập doanh nghiệp hiểu một cách đơn giản là việc nhà đầu tư hình
thành, khởi tạo một doanh nghiệp mới trong nền kinh tế trên cơ sở các quy
1 Bộ bài tập Luật Thương mại của Bộ môn Luật thương mại – ĐH Luật Hà Nội

1


định của pháp luật về hình thức doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, tổ
chức quản lý, quyền và nghĩa vụ,...
Dưới góc độ kinh tế, đây là hoạt động của chủ đầu tư chuẩn bị những
điều kiện, cơ sở vật chất cần thiết để doanh nghiệp có thể tiến hành được hoạt
động kinh doanh của mình như vốn, văn phòng, kho xưởng, máy móc thiết bị
kĩ thuật,...


Dưới góc độ pháp lý, thành lập doanh nghiệp được hiểu là một thủ tục
hành chính do các thành viên sáng lập của doanh nghiệp hoặc đại diện của họ
tiến hành tại cơ quan đăng kí kinh doanh, nhằm “khai sinh” hợp pháp cho
doanh nghiệp.2 Thủ tục này có tính chất bắt buộc chung đối với tất cả chủ thể
khi tiến hành hoạt động kinh doanh, nếu không hoặc chưa đăng kí sẽ bị coi là
vi phạm pháp luật, kết thúc khi bên đăng kí được cơ quan có thẩm quyền cấp
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
1.2. Ý nghĩa của hoạt động thành lập doanh nghiệp
Hoạt động thành lập doanh nghiệp qua việc đăng ký thành lập có ý
nghĩa nhất định không chỉ đối với các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh
mà còn đối với Nhà nước.
Thứ nhất, đối với các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh, việc
thành lập doanh nghiệp một cách hợp pháp sẽ giúp doanh nghiệp có tư cách
pháp lý, có những quyền và nghĩa vụ được nhà nước và pháp luật công nhận,
bảo hộ.
Thứ hai, đối với Nhà nước, thông qua hoạt động thành lập doanh
nghiệp bằng cách đăng ký theo quy định pháp luật, “Nhà nước sẽ quản lý
được số lượng, hình thức, ngành nghề kinh doanh dựa trên địa bàn. Trên cơ sở
đó, Nhà nước sẽ nắm bắt được thực trạng kinh tế của địa phương, điều chỉnh
cơ cấu ngành nghề, cơ cấu đầu tư kinh doanh để tìm ra các biện pháp quản lý
thích hợp, đồng thời giám sát chủ thể kinh doanh hoạt động theo đúng pháp
2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam Tập I, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, tr. 378.

2


luật.”3
II. Phân tích, đánh giá những điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2014 so với
Luật Doanh nghiệp 2005

Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời đã đánh dấu một bước thay đổi lớn
trong hoạt động thành lập doanh nghiệp với nhiều thay đổi so với Luật Doanh
nghiệp 2005 trước đây. Do giới hạn dung lượng nên bài tiểu luận xin được
trình bày những điểm mới theo 4 phương diện cơ bản nhất, đó là: về chủ thể
thuộc đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp; về trình tự, thủ tục thành lập
doanh nghiệp; về các điều kiện tiền kiểm; về nội dung giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh. Ở mỗi phương diện bài viết sẽ phân tích và đánh giá cụ thể về
từng điểm mới.
2.1. Về chủ thể thuộc đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp 2014 đã mở rộng hơn đối tượng bị cấm thành lập và
quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam bằng việc bổ sung thêm viên chức (theo
quy định của pháp luật về viên chức) và người đang bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Cơ sở pháp lý là Điểm b) và Điểm e) thuộc Khoản 2 Điều 18:
“Điều 18. Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp
và quản lý doanh nghiệp
2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý
doanh nghiệp tại Việt Nam:
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức, viên chức;
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù
[...]”
 Đối với việc bổ sung thêm viên chức, điều này được lý giải là do
trước đây chưa có Luật Viên chức, dẫn đến quyền và nghĩa vụ của chủ thể này
chưa được quy định rõ ràng nên Luật Doanh nghiệp 2005 không liệt kê viên
chức vào đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp như cán bộ và công chức
3 Vũ Thị Thùy Dung (2015), Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm
2014, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 09.

3



(thời điểm đó đã được điều chỉnh bởi Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2000
sửa đổi, bổ sung 2003). Cho đến năm 2010 Quốc hội đã ban hành Luật Viên
chức 2010, tại Khoản 3 Điều 14 Luật này quy định viên chức “được góp vốn
nhưng không tham gia quản lý, điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ
chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy
định khác.” Vì vậy Luật Doanh nghiệp 2014 đã dựa vào quy định này để cấm
viên chức thành lập doanh nghiệp.
Đánh giá: Việc bổ sung thêm viên chức là hoàn toàn hợp lý, bởi viên
chức là những người đảm nhận công việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập, vì
lợi ích xã hội, có tính chất thường xuyên và lâu dài, hưởng lương từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập nên có nghĩa vụ phải tận tâm, hết mình
phục vụ nhân dân. Nếu cho phép họ thành lập doanh nghiệp như trước đây thì
không đảm bảo được thời gian và công sức họ dành cho công việc chính của
mình tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc cùng lúc đảm nhận nhiều công
việc dễ làm ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, làm phân tâm,... Hơn
nữa, cũng giống như cán bộ và công chức thì viên chức nếu được thành lập
doanh nghiệp cũng có nhiều khả năng lạm quyền để phục vụ cho lợi ích của
riêng của công ti mình.
 Đối với việc bổ sung thêm đối tượng đang bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, trước đây trong Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định. Cần hiểu
khái niệm “người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự” là “người đang bị cơ
quan tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động điều tra kể từ khi có quyết
định khởi tố bị can cho đến trước khi có bản án kết tội của Tòa án hoặc có
quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra.” 4 Việc cấm các chủ thể này thành
lập doanh nghiệp là để đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp khác
trước nguy cơ làm ăn với một doanh nghiệp mà chủ sở hữu đang bị vướng
4 Trần Thị Thu Trang (2015), Quyền tự do thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 32.


4


vào vòng lao lí, không có khả năng chỉ đạo, góp ý kiến kinh doanh, không
thực hiện được các nghĩa vụ khác có liên quan nếu bị kết án là có tội.
Đánh giá: Việc cấm người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự thành
lập doanh nghiệp tuy xuất phát từ mục đích để bảo vệ các nhà đầu tư khác
như đã nêu trên, tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến trái chiều. Bởi một người
đang bị truy cứu trách nhiệm pháp lý thì chưa thể xác định được rằng họ có
tội hay không, và quá trình điều tra thì diễn ra trong một khoảng thời gian rất
dài. Khi kết thúc việc truy cứu, nếu họ được tuyên vô tội thì nhiều cơ hội làm
ăn đã biến mất, các điều kiện về vật chất, hoàn cảnh, thị trường cũng đã thay
đổi, khiến họ khó có thể tiếp tục thực hiện ý định thành lập doanh nghiệp ban
đầu. Như vậy quy định này phần nào cũng cản trở nhiều trường hợp nhà đầu
tư muốn thành lập doanh nghiệp.
2.2. Về trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp
So với Luật Doanh nghiệp 2005, trình tự và thủ tục thành lập doanh
nghiệp tại Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những thay đổi theo hướng đơn
giản, nhanh gọn hơn. Để tiến hành thành lập doanh nghiệp cần trải qua 3 bước
cơ bản: Một là, người thành lập doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền gửi
hồ sơ đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại Luật này cho Cơ quan đăng ký
kinh doanh. Hai là, cơ quan đăng kí kinh doanh kiểm tra tính hợp lệ và đối
chiếu các điều kiện cấp giấy đăng kí doanh nghiệp, sau đó quyết định cấp
hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp. Ba là, công khai
thông tin về doanh nghiệp được thành lập trên Cổng thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý là Điều 27 và Điều 33 Luật Doanh
nghiệp 2014. Theo đó, những điểm mới có thể kể đến là:
 Thứ nhất, đã có sự thay đổi thuật ngữ từ “đăng ký kinh doanh” tại
Luật Doanh nghiệp 2005 sang “đăng ký doanh nghiệp” tại Luật Doanh

nghiệp 2014. “Đăng ký kinh doanh” là sự ghi nhận bằng văn bản của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý đối với sự ra đời của doanh nghiệp.
5


Còn “đăng ký doanh nghiệp” bao gồm cả đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế,
đăng ký thay đổi và các nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác.
Đánh giá: Sự thay đổi này mang ý nghĩa to lớn, đánh dấu sự tiến bộ
trong tư duy lập pháp của nước ta. Điều này cũng tạo sự đơn giản cho các nhà
đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp, khi quá trình đăng ký doanh nghiệp tại
cơ quan đăng ký kinh doanh hiện đã kết hợp với rất nhiều thủ tục đăng ký
khác nữa như đăng ký thuế, đăng ký bảo hiểm, đăng ký lao động. Nhà đầu tư
sau khi có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không còn phải thực hiện
thêm các bước đăng ký khác tại nhiều cơ quan khác nhau, gây rắc rối, phức
tạp như trước đây.
 Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 2014 có đề cập đến việc đăng ký và
công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử. Mặc dù điều này
đã được đưa ra trong Nghị định 43/2010/NĐ-CP về đăng kí doanh nghiệp
nhưng việc quy định trong luật đã tạo một cơ sở pháp lý vững chắc và rõ ràng
hơn cho hoạt động này. “Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử là việc
người thành lập doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký doanh nghiệp thông qua
Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Người thành lập doanh
nghiệp kê khai thông tin, tải văn bản điện tử, ký số hoặc xác thực hồ sơ hoặc
thanh toán lệ phí qua mạng điện tử.”5 Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện việc thông báo công khai cũng trên
Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, thay vì quy định không
thống nhất như Luật Doanh nghiệp 2005 (bao gồm cả báo viết hoặc báo điện
tử trong ba số liên tiếp). Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia hiện
nay là website: dangkykinhdoanh.gov.vn.
Đánh giá: Trong thời đại công nghiệp điện tử phát triển mạnh thì việc

thêm một cách thức mới để đăng ký doanh nghiệp và công bố nội dung đăng
ký doanh nghiệp qua mạng là hoàn toàn phù hợp. Điều này giúp các nhà đầu
tư dễ dàng hơn trong việc đăng ký khi chỉ cần ngồi tại nhà hay văn phòng là
5 Vũ Thị Thùy Dung (2015), Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm
2014, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 41.

6


có thể khởi tạo một doanh nghiệp mới hợp pháp, mà không bắt buộc phải đến
tận nơi nộp hay gửi hồ sơ giấy đến cơ quan có thẩm quyền dễ gây thất lạc và
tạo ra sự chậm trễ như trước đây. Hơn nữa, đăng ký qua mạng điện tử cũng
giúp Nhà nước dễ dàng số hóa hơn nội dung thông tin của doanh nghiệp, từ
đó nắm bắt và quản lý doanh nghiệp tốt hơn.
 Thứ ba, thời hạn để cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và cấp hoặc
từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được rút ngắn xuống còn
03 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ theo Luật Doanh nghiệp 2014, thay vì 10 ngày
như Luật Doanh nghiệp 2005. Điều này xuất phát từ công cuộc cải cách thủ
tục hành chính nói chung và từ yêu cầu tinh giản thủ tục thành lập doanh
nghiệp nói riêng, nhằm giải quyết được số lượng lớn các trường hợp muốn
đăng ký trong thời đại ngày nay, rút ngắn thời gian để các nhà đầu tư tham gia
thị trường, khuyến khích sự mạnh dạn thành lập doanh nghiệp để tạo thị
trường năng động cũng như nâng cao được chất lượng bộ máy hành chính.
2.3. Về điều kiện tiền kiểm
“Chế độ ‘tiền kiểm’ có nội dung là kiểm tra các điều kiện thành lập
doanh nghiệp trước khi cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.” 6 So với
Luật Doanh nghiệp 2005 thì Luật Doanh nghiệp 2014 đã đơn giản hóa các
điều kiện “tiền kiểm” và dần chuyển sang chế độ “hậu kiểm”, nhằm thực hiện
hiệu quả cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian gia nhập thị trường
của doanh nghiệp. Nhưng đồng thời điều kiện tiền kiểm cũng được quy định

chặt chẽ hơn trong một số trường hợp. Như vậy, một số điểm mới của Luật
Doanh nghiệp 2014 về điều kiện tiền kiểm có thể kể tới là:
 Thứ nhất, bỏ văn bản xác nhận vốn pháp định đối với doanh nghiệp
kinh doanh các ngành nghề yêu cầu cần phải có vốn pháp định. Khái niệm
“vốn pháp định” theo Khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 được hiểu:
“Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để
6 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam Tập I, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, tr. 384.

7


thành lập doanh nghiệp.” Trước đây, văn bản xác nhận vốn pháp định là yêu
cầu bắt buộc phải có trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.
Đánh giá: Khi Luật Doanh nghiệp 2014 được ban hành đã có nhiều lý
do được đưa ra cho việc bãi bỏ yêu cầu này. Một là, vốn pháp định làm hạn
chế quyền tự do lựa chọn loại hình, quy mô kinh doanh của nhà đầu tư khi
Nhà nước đã bằng ý chí của mình ấn định quy mô vốn và quy mô doanh
nghiệp cho nhà đầu tư trong khi chính họ mới biết được nhu cầu về vốn của
mình là tới đâu. Có những trường hợp quy định quy mô vốn rất lớn nhưng
cuối cùng lại không sử dụng hết gây nên sự lãng phí và tạo nhiều hậu quả cho
doanh nghiệp phải gánh chịu. Không chỉ vậy, nhiều nhà đầu tư có tài, có hiểu
biết nhưng không có nhiều vốn, muốn kinh doanh “từ hai bàn tay trắng” thì
lại bị quy định về vốn pháp định gây cản trở. Hai là, quy định về vốn pháp
định không còn quá cần thiết bởi doanh nghiệp xuất phát từ mục đích tìm
kiếm lợi nhuận của mình sẽ bằng mọi cách để huy động vốn và sử dụng vốn
hiệu quả về sau này, còn tại thời điểm mới thành lập doanh nghiệp thì chưa
cần xét đến vấn đề này. Và không phải cứ có số vốn lớn theo một mức nhất
định ngay từ đầu thì doanh nghiệp đó mới hoạt động hiệu quả. Ba là, thời
điểm trước đây việc yêu cầu phải có vốn pháp định là để tránh trường hợp các

“công ti ma” xuất hiện- những công ty chỉ xuất hiện trên giấy tờ được thành
lập để nhằm mục đích vụ lợi bất hợp pháp. Tuy nhiên thực tế thì quy định này
đã không tạo được hiệu quả khi vẫn còn rất nhiều công ti ma được hình thành.
Vì vậy, việc Luật Doanh nghiệp năm 2014 bỏ đi quy định về văn bản xác
nhận vốn pháp định là hoàn toàn hợp lý, không chỉ có ý nghĩa dưới góc độ thủ
tục hành chính mà còn dưới góc độ về quyền kinh doanh và bảo đảm hiệu quả
thực hiện pháp luật.
 Thứ hai, bỏ quy định về chứng chỉ hành nghề trong hồ sơ đăng ký
doanh nghiệp đối với một số cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh mà theo
quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. “Chứng chỉ hành nghề”
là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp cấp cho
8


cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp theo quy
định của pháp luật để hoạt động trong một ngành nghề nào đó. 7 Ví dụ một số
ngành kinh doanh có yêu cầu chứng chỉ hành nghề là: hoạt động y tế; sản xuất
thuốc, hóa dược và dược liệu; dịch vụ môi giới bất động sản; thiết kế kiến trúc
công trình;... Trong Luật Doanh nghiệp 2014, yêu cầu này không còn thuộc
diện “tiền kiểm”- không thuộc diện cơ quan đăng kí doanh nghiệp phải kiểm
tra trước khi cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà chuyển sang diện
“hậu kiểm”.
Đánh giá: Quy định này cũng góp phần quan trọng trong việc đơn giản
hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, đặt ra trọng trách của các thiết chế kiểm
soát xã hội và xử lý các hành vi vi phạm. Tức là sau khi được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp có nghĩa vụ phải phải có chứng chỉ
hành nghề để có thể thực hiện hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp
luật. Nếu phát hiện cá nhân thuộc doanh nghiệp nào hoạt động mà không có
chứng chỉ hành nghề thì cá nhân và doanh nghiệp đó sẽ bị xử lý vi phạm.
 Thứ ba, bên cạnh việc loại bỏ một số giấy tờ khỏi diện “tiền kiểm”

thì Luật Doanh nghiệp 2014 có bổ sung thêm Phiếu lý lịch tư pháp theo Điểm
e) Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014: “Trường hợp Cơ quan đăng ký
kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp
Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.” Tuy nhiên, đây
không phải tài liệu bắt buộc trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và chỉ phải
xuất trình khi Cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu với lý do chính đáng.
Điều này làm tăng thêm tính chặt chẽ nhằm kiểm soát một số chủ thể thuộc
đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp như bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
đang chấp hành hình phạt tù,...
2.4. Về nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chính là minh chứng rõ ràng
nhất từ hoạt động đăng ký doanh nghiệp. Như đã đề cập tại các phần trên,
7
/>
9


hiện pháp luật nước ta đã có sự thay đổi thuật ngữ từ “đăng ký kinh doanh”
sang “đăng ký doanh nghiệp” nên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo
cách gọi tại Luật Doanh nghiệp 2005 cũng chuyển thành giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý về nội dung Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp là Điều 29 Luật Doanh nghiệp 2014:
“Điều 29. Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
1. Tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp.
2. Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp.
3. Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân,
Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp
khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần; của các thành viên hợp danh đối
với công ty hợp danh; của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân;

họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng
minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của thành
viên là cá nhân; tên, mã số doanh nghiệp và địa chỉ trụ sở chính của thành
viên là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn.
4. Vốn điều lệ.”
Theo đó, khi so sánh với Luật Doanh nghiệp 2005 ta có thể thấy những
điểm mới sau trong Giấy chứng nhận đăng ký Doanh nghiệp:
 Thứ nhất, bỏ nội dung về ngành, nghề kinh doanh. Tại thời điểm
thành lập doanh nghiệp, “thông tin về ngành, nghề kinh doanh dự kiến của
doanh nghiệp do doanh nghiệp tự khai và lưu trong hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp chủ động tiến hành hoạt
động kinh doanh mới ngay khi có đủ điều kiện kinh doanh và sau đó thông
báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh để lưu vào hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp.”8
8 Vũ Thị Thùy Dung (2015), Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm
2014, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 35.

10


Đánh giá: Việc thay đổi này xuất phát từ sự thay đổi nghĩa vụ của
doanh nghiệp. Theo Khoản 1 Điều 9 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định doanh
nghiệp có nghĩa vụ “hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi
trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh
theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện”. Tuy nhiên thực tế việc thực hiện pháp luật khi đó cho thấy có nhiều
nhà đầu tư khi muốn thay đổi ngành nghề kinh doanh thì lại phải thực hiện
thủ tục điều chỉnh, sửa đổi để cấp lại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
mới, tạo ra sự phức tạp, cứng nhắc. Điều này cũng phần nào nhằm cản trở
quyền tự do kinh doanh quy định tại Điều 33 Hiến pháp 2013. Vì vậy, tại

Khoản 1 Điều 8 Luật Doanh nghiệp 2014 đã thay đổi nghĩa vụ của doanh
nghiệp chỉ còn “đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật đầu tư và bảo đảm duy
trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh
doanh.” Bằng cách này, ta có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ doanh
nghiệp được tự chủ trong kinh doanh, tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh.
Nếu muốn thay đổi ngành, nghề kinh doanh thì chỉ cần thông báo đến Cơ
quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có thay đổi theo
quy định tại Điều 32 Luật Doanh nghiệp 2014.
 Thứ hai, thêm nội dung về mã số doanh nghiệp. Mã số doanh nghiệp
theo Điều 30 Luật Doanh nghiệp 2014 “là dãy số được tạo bởi Hệ thống
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, được cấp cho doanh nghiệp khi
thành lập và được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp... Mã số
doanh nghiệp được dùng để thực hiện các nghĩa vụ về thuế, thủ tục hành
chính và quyền, nghĩa vụ khác.”. Theo quy định của pháp luật, mã số doanh
nghiệp đồng thời là mã số thuế trong suốt quá trình hoạt động, được sử dụng
để kê khai và nộp thuế phát sinh từ hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi doanh
nghiệp có một mã số duy nhất và không được sử dụng lại để cấp cho doanh
11


nghiệp khác. Khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, mã số doanh nghiệp
cũng sẽ chấm dứt hiệu lực và không được sử dụng lại.
Đánh giá: Quy định về mã số doanh nghiệp chính là một bước quan
trọng nhằm rút ngắn thủ tục thành lập doanh nghiệp, tạo điều kiện dễ dàng
cho các nhà đầu tư sau khi nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có
thể ngay lập tức thực hiện các nghĩa vụ về kê khai thuế và các nghĩa vụ khác.
Điều này khắc phục được nhược điểm của thủ tục trước đây khi “ngày vui
đăng ký kinh doanh thì ngắn, mà những tháng ngày xin con dấu, mã số thuế,
đến chiều lòng quan chức thì dài.”9

III. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả các quy định tại
Luật Doanh nghiệp 2014 về thành lập doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời đã tháo gỡ rất nhiều khó khăn, vướng
mắc trong việc thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005 trước
đây, đặc biệt trong vấn đề về thủ tục thành lập. Những thành tựu đạt được từ
sự thay đổi trên là rất đáng ghi nhận nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những
hạn chế nhất định, đòi hỏi cần phải có biện pháp để nâng cao, cải thiện việc
thực hiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Thứ nhất, cần cải cách các dịch vụ hành chính công trực tuyến qua
Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia và khuyến khích việc đăng ký
doanh nghiệp qua mạng điện tử. Những lợi ích của việc đăng ký doanh
nghiệp qua mạng điện tử là rất lớn và cho cả hai phía là Nhà nước và nhà đầu
tư. Tuy nhiên quá trình này vẫn còn chưa được thực sự nhanh gọn, việc tạo
chữ ký điện tử còn gây khó khăn cho nhiều người; cách thức mới này cũng
chưa được đẩy mạnh tuyên truyền và phổ biến tới rộng rãi trong công chúng.
Do vậy, phải tối ưu hóa hơn nữa các thủ tục để việc đăng ký này được thực
hiện dễ dàng hơn. Nhà nước nên có những chính sách, chương trình phổ biến
nội dung và cách thức sử dụng phương pháp này cho mọi người.
9 Phạm Duy Nghĩa (2006), “Giấc mơ về nửa triệu Doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật
Doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7 (219), tr.2.

12


Thứ hai, cần phải nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ
đăng ký doanh nghiệp, bởi đây là những người có đóng góp quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả thủ tục thành lập doanh nghiệp. Mỗi địa phương nên
có những lớp tập huấn, tổ chức buổi họp mặt trao đổi kinh nghiệm,... Thời
gian qua có xảy ra trường hợp Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh có cấp
giấy phép kinh doanh nuôi gián đất cho một Doanh nghiệp, nhưng sau đó đã

bị Sở Nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh xin ý kiến của Bộ Nông nghiệp và được chỉ
đạo cấm kinh doanh nhóm sinh vật này và Bắc Ninh phải tiêu hủy hàng tấn
gián đất. Nguyên nhân là do ngành nghề kinh doanh này tuy không thuộc
trường hợp cấm tại Luật Đầu tư nhưng lại bị cấm trong các văn bản pháp luật
chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. 10 Do vậy, điều
quan trọng là người cán bộ đăng ký doanh nghiệp phải có hiểu biết đúng đắn,
đầy đủ về các quy định của pháp luật thì thủ tục thành lập doanh nghiệp mới
được diễn ra một cách thuận lợi. Bên cạnh đó, cần tăng cường kiểm tra, xử lý
nghiêm minh các trường hợp thiếu trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền đối với
người đi đăng ký doanh nghiệp.

C. KẾT LUẬN
Như vậy, qua sự phân tích và đánh giá trên có thể thấy Luật Doanh
nghiệp 2014 đã có rất nhiều điểm mới so với Luật Doanh nghiệp 2005 về
thành lập doanh nghiệp, mà cơ bản là những thay đổi trong 4 phương diện: về
các chủ thể thuộc đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp, về trình tự thủ
tục, về các điều kiện tiền kiểm và về nội dung Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Sự thay đổi này đã tạo được những kết quả tích cực trong việc
nâng cao số lượng và chất lượng của hoạt động thành lập doanh nghiệp,
hướng đến tạo nên một thị trường kinh doanh năng động tại Việt Nam. Song
bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có những giải pháp thích hợp để nâng cao
10 Xem thêm: />
13


hơn nữa hiệu quả trong việc thực hiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp tại
nước ta. Do kiến thức còn hạn hẹp nên bài viết không tránh khỏi sai sót. Em
mong sẽ nhận được góp ý của thầy cô để bài ngày càng hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn!


14


15


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Hiến pháp 2013
2. Luật Doanh nghiệp 2005
3. Luật Viên chức 2010
4. Luật Doanh nghiệp 2014
II. Giáo trình, luận văn, tạp chí, trang web
1. Vũ Thị Thùy Dung (2015), Đăng ký thành lập doanh nghiệp
theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Phạm Duy Nghĩa (2006), “Giấc mơ về nửa triệu Doanh
nghiệp và một đạo luật chung: Luật Doanh nghiệp 2005 từ
một góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7
(219).
3. Trần Thị Thu Trang (2015), Quyền tự do thành lập doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Thương
mại Việt Nam Tập I, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
5. />6. />
16




×