Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Đề tài: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Long Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.13 KB, 63 trang )

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT của Huyện
Long Thành

Nguyễn Thò Đáp


I./ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đạo đức và giáo dục đạo đức là một phạm trù xã hội, xuất hiện khi có xã hội loài
người, tồn tại và phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người. Đạo đức là một mặt
quan trọng trong nhân cách của mỗi con người, nói lên mối quan hệ giữa con người vớiï nhau
trong xã hội. Đạo đức là kết quảû của một quá trình giáo dục, là kết quả của sự tu dưỡng, rèn
luyện của bản thân.
Ngày 21 tháng10 năm 1964 Bác Hồ khi về thăm trường ĐHSP Hà Nội, đã nói :“công
tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của
giáo dục trong nhà trường XHCN. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài. Đức
là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng”. Nhiệm vụ của nhà trường là phải làm
sao tìm những biện pháp có hiệu quả trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Hội nghò lần II của BCH TW khoá VIII đã khẳng đònh “ Muốn tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ
bản của sự phát triển nhanh và bền vững để thực hiện mục đích dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh”. Phát triển nguồn lực con người là phát triển đức và tài, hai mặt
của nhân cách mà nhà trường giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành nhân cách.
Qua hơn 15 năm đổi mới về cơ chế thò trường, nước ta đã đạt được những thành tựu về
mặt kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên nhưng bên cạnh đó
những tiêu cực của cơ chế thò trường đã tác động đến đại đa số thanh niên và học sinh như :
có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ và hoài bão,lập thân, lập nghiệp, mặt khác những tiêu
cực trong thi cử, bằng cấp,chạy theo thành tích đã làm cho một số trường nặng về dạy chữ
hơn là dạy người, những tiêu cực trong dạy thêm và học thêm làm cho tình cảm thầy và trò
bò tổn thương, truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc bò mai một dần.
Bên cạnh đó những tệ nạn xã hội và ma tuý đã và đang xâm nhập học đường và có xu


thế gia tăng, tệ nạn sử dụng ma tuý trong học sinh sinh viên sẽ làm huỷ hoại thể lực, trí tuệ,
đạo đức của thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước. Và điều này đã gây ra nhiều khó khăn
phức tạp trong công tác giáo dục của nhà trường. Tại hội nghò phòng chống ma tuý trong
thanh niên ở Hà Nội Thượng tướng Lê Minh Hương đã nhấn mạnh “ Cần nhận thức sâu sắc
tệ nạn ma tuý đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt trong giới trẻ gây nguy hại tới
cấu trúc cơ cấu xã hội và làm xói mòn các giá trò gia đình, gây nguy hại tới phẩm giá và ước
vọng của hàng triệu người dân và người thân của họ. (Báo SG-GP 27-11-98)
Mặt khác do cơ chế thò trường, sự du nhập văn hoá phẩm đồi tr, phim ảnh, mạng
Internet… làm ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn, tình yêu, tình dục trong lứa tuổi
thanh thiếu niên học sinh… mà nhất là các em chưa được trang bò và thiếu kiến thức về
những vấn đề này .
Học sinh THPT là lứa tuổi có sự thay đổi về cơ thể, về sinh lý, tâm lý, đặc biệt sự phát
triển về “con người sinh lý” lại nhanh hơn “con người xã hội” nếu không được giáo dục sẽ


dẫn đến có những hành vi tự phát thiếu văn hoá, phi đạo đức, do ý thức không kiềm chế
được bản năng. Vì vậy trong những năm gần đây có một số học sinh nữ phải bỏ học vì có
thai.
Hội nghò BCH TW Đảng cộng sản Việt Nam lần II khoá VIII, khi đánh giá về công tác
giáo dục đào tạo trong thời gian qua đã nêu “Đặc biệt đáng lo ngại trong một bộ phận học
sinh, sinh viên có trình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, theo lối sống thực dụng,
thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước”. Trong những
năm tới cần “tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng đạo đức, lòng yêu nước, chủ
nghóa Mác Lê Nin…tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao
phù hợp vớiï lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Long Thành là một huyện của tỉnh Đồng Nai (có thể nói đây là một trong những trung
tâm văn hoá và giáo dục lớn của khu vực miền Nam), cách TP.Hồ Chí Minh khoảng 60Km.
Huyện Long Thành dễ dàng và nhanh chóng tiếp thu ảnh hưởng những mặt tích cực cũng
như tiêu cực đã xảy ra trong cơ chế thò trường và quá trình hội nhập của thành phố này đặc
biệt là lối sống thành thò với những nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần rất cao. Những

thực trạng trên đã, đang xảy ra ở huyện Long Thành và có chiều hướng ngày càng gia tăng,
vì vậy các nhà quản lý giáo dục cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này đặc biệt là việc
nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trên đòa bàn huyện Long Thành. Cho đến
nay chưa có tác giả nào nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm để rút ra những kết luận khoa học
về việc nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT của Huyện Long Thành” với mong muốn góp phần hoàn
thiện hơn việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THPT của Huyện Long
Thành.
II./ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Tìm hiểu thực trạng về đạo đức của học sinh THPT ở Huyện Long Thành và công tác
quản lý giáo dục đạo đức ở các trường THPT huyện Long Thành và đưa ra các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức ở các trường THPT Huyện Long Thành.
III./ KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU:
1. Khách thể :
Công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các trường THPT Huyện Long Thành
( Long Thành , Tam Phước , Long Phước ,Bình Sơn, Nguyễn Đình Chiểu) .
2. Đối tượng :
Thực trạng và các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT ở huyện Long Thành


IV./ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU :
Việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh Long thành còn một số các hạn chế . Nếu
có những biện pháp quản lý hợp lý có chỉ đạo chặt chẽ , tổ chức thực hiện tốt, kiểm tra đánh
giá chính xác thì sẽ khắc phục được các tồn tại và nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh
V./ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
1. Một số cơ sở lý luận về việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THPT .
2 .Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THPT Long thành .
 Thực trạng việc xây dựng và tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo

đức.
 Việc kiểm tra đánh giá công tác giáo dục đạo đức cho học sinh .
 Một số vấn đề về hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh .
 Phân tích nguyên nhân của hiện trạng .
3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh .
VI./ HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu lý thuyết về giáo dục, giáo dục đạo đức , quản lý gíáo dục, quản lý giáo
dục đạo đức.
Nghiên cứu tài liệu về hoạt động của cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm, Đoàn
thanh niên, nghò quyết Chi Bộ. Phân tích tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá thông tin.
2 Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò : chúng tôi sử dụng 4 loại phiếu:
Xin ý kiến của 92 cha mẹ học sinh của 5 trường. Nội dung các câu hỏi nhằm tìm hiểu
về sự quan tâm của cha mẹ đến việc học tập và giáo dục đạo đức con mình, sự phối hợp
giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục đạo đức .
Xin ý kiến của 95 giáo viên chủ nhiệm ở 5 trường. Nội dung các câu hỏi nhằm tìm
hiểu về sự quản lý giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng, về công tác quản lý giáo dục đạo đức
ở lớp chủ nhiệm.
Xin ý kiến của CBQL của 5 trường( 13 Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng và 37 tổ trưởng
chuyên môn ). Nội dung tìm hiểu về công tác quản lý giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng..
Trưng cầu ý kiến của 341 học sinh của 5 trường. Nội dung tìm hiểu về các hoạt động
của giáo viên chủ nhiệm trong lớp, ý kiến về các hoạt động do Đoàn TN tổ chức, động cơ
học tập…


3. Phương pháp quan sát:
Quan sát các hoạt động nhà trường : Họp hội đồng giáo dục,sinh hoạt dưới cờ,sinh hoạt
Đoàn thanh niên, sinh hoạt lớp chủ nhiệm.
4.Phương pháp phỏng vấn:

Phỏng vấn các CBQL của năm trường , đặc biệt là :
Bí Thư Đoàn thanh niên của năm trường. Nội dung tìm hiểu các hoạt động của Đoàn
TN, sự tạo điều kiện của Hiệu trưởng, sự phối hợp với các lực lượng giáo dục trong trường
Hiệu trưởng năm trường về một số vấn đề liên quan đến công tác quản lý giáo dục
đạo đức.
5. Xử lý số liệu :
Sử dụng phương pháp xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 10.0 .
 Đối với các câu hỏi có đánh giá mức độ khác nhau thì tính độ trung bình. Cách cho
điểm từ thấp nhất 1 điểm đến cao nhất 4 điểm.
 Đối với các câu hỏi được khảo sát ở 2 khách thể khác nhau thì tính độ lệch chuẩn để
so sánh sự đồng nhất của hai dãy số liệu, dãy nào có độ lệch chuẩn nhỏ hơn được xem là
đồng nhất hơn.
 Đối với các câu hỏi có sự lựa chọn thì tính tỉ lệ phần trăm.


CHƯƠNG I :
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được hình thành và phát triển theo sự phát triển
của xã hội loài người. Việc giáo dục đạo đức luôn là vấn đề được đặt ra từ xa xưa và luôn
thay đổi theo sự thay đổi của xã hội.
Việc giáo dục đạo đức của học sinh trong nhà trường được xem là vấn đề quan trọng
góp phần trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, vì thế đây là vấn đề
được nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo dục trong và ngoài nước quan tâm.
1/ Tác giả phương Đông :
Từ thời cổ đại : Khổng Tử (551-479-TCN )trong các tác phẩm: “Dòch, Thi, Thư, Lễ,
Nhạc Xuân Thu” rất xem trọng việc giáo dục đạo đức.trong các lời giáo huấn của ông đều
nhấn mạnh đến “lý” đó là cách ứng xử thích hợp, đúng mức.
Ông khuyến khích việc thờ cúng tổ tiên coi đó là hình thức thể hiện đạo hiếu của con
cái đối với cha mẹ. Ông coi đạo hiếu là đức tính cao quý nhất , là nền tảng của gia đình và
nước nhà. Gia đình là hạt nhân của nước và “ngũ thường” tức là 5 mối quan hệ: quân

thần(giữa vua và bầy tôi), phu thê(giữa chồng và vợ), huynh đệ(giữa anh và em) bằng
hữu(giữa bạn bè với nhau) được xác đònh bởi 3 đức tính: hữu ái, chính trực và biết tôn trọng.
2/ Tác giả phương Tây:
- Ở phương Tây có nhà triết học Socrat (470-399-TCN)đã cho rằng đạo đức là tôn
trọng những quy đònh chung và lợi ích chung của mọi người và ông đã hướng triết học vào
mục đích giáo dục con người.
- Aristoste (384-322-TCN) cho rằng đạo đức là cái thiện của cá nhân, chính trò là cái
thiện của xã hội.
- Comenki(1592-1670) đã đưa ra phương pháp giáo dục đạo đức trong đó chú trọng đến
hành vi là động cơ đạo đức.
- Sang thế kỷ 20 có nhiều nhà tâm lý học,giáo dục nổi tiếng của Liên Xô(cũ) như:
- A-X Makarenko:Trong tác phẩm bài ca sư phạm,các vấn đề giáo dục người công dân
(giáo dục trẻ em phạm pháp và không gia đình) đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của giáo
dục đạo đức và các biện pháp giáo dục đúng đắn như sự nêu gương, nguyên tắc giáo dục
tập thể và thông qua tập thể.
- V-A Xukhomlinki với kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục ở trường nông thôn Pavlush
ông cho rằng: dạy học trước hết là sự giao tiếp về tâm hồn giữa thầy và trò “Dạy trẻ phải
hiểu trẻ, thương trẻ, và tôn trọng trẻ…”


- V-A Khuchetxki cho rằng : “Quá trình lónh hội những khái niệm đạo đức là quá trình
rất phức tạp và nó đòi hỏi phải có sự chỉ đạo đặc biệt.”
3/ Ở Việt Nam :
Năm 938 dân tộc Việt Nam khôi phục nền độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia xây
dựng nhà nước phong kiến. Nền giáo dục phong kiến do nhà nước chỉ đạo được hình và phát
triển qua 10 thế kỷ. Căn bản là giống nhau về cơ cấu, nội dung, cách tổ chức việc dạy và
học.
Qua 1000 năm lòch sử nền giáo dục phong kiến coi trọng việc giáo dục luân lý lễ nghóa
góp phần cơ bản xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm chiếm nước ta nền giáo dục phong kiến bò thay

đổi toàn bộ. Hệ thống giáo dục nhà trường chú trọng đến nội dung giảng dạy kiến thức
khoa học thực nghiệm, thực dụng nhằm đào tạo lớp người phục vụ cho lợi ích thực dân pháp
cho việc chinh phục thuộc đòa.
Sau CMT8(1945) và trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ:
+ 1950 TW Đảng và chính phủ quyết đònh tiến hành cải cách giáo dục “nền giáo dục
của dân, do dân, vì dân” thực hiện ba nguyên tắc “Dân tộc, khoa học, đại chúng” với
phương châm: “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn liền với thực tiễn”.
+ Mục tiêu nhà trường đào tạo người cán bộ vừa có tài vừa có đức, Bác Hồ đã thường
nhấn mạnh đến giá trò đạo đức cách mạng là nhân, nghóa, trí, dũng, liêm, và cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư…
Đến năm 1979 Bộ chính trò và TW Đảng CSVN đã ra nghò quyết về cải cách giáo dục
và UB cải cách giáo dục TW đã ra quyết đònh số 01 về cuộc vận động tăng cường giáo dục
đạo đức cách mạng trong trường học, đã ghi rõ: “ Nội dung đạo đức cần được giáo dục cho
học sinh từ mẫu giáo đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào 5 điều Bác Hồ dạy.
Tiếp sau đó đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức như :
- Thứ trưởng Võ Đình Nho viết bài “một số vấn đề lý luận và tư tưởng về giáo dục đạo
đức cách mạng trong trường học”-Báo Nghiên cứu giáo dục số 6/1980.
- Tác giả Trần Quang viết bài “ Dạy đạo đức trong trường học” - Báo Giáo Dục Thời
Đại số 18/1999.
- Tác giả Lê Châu viết bài “ Cần xác đònh đúng môn Giáo Dục Công Dân trong
trường THPT”, Báo Giáo Dục Thời Đại ngày 22/5/2001.
- G.S Đặng vũ Hoạt viết bài “ Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm với việc giáo dục
đạo đức cho học sinh” – Tạp chí Nghiên Cứu Giáo Dục số 8/1992.
- PGS-TS Hà Nhất Thăng viết bài “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trò, lối sống của
thanh niên –Học sinh - Sinh viên”-Tạp chí Nghiên Cứu Giáo Dục số 39/2002.
-Về công tác quản lý giáo dục đạo đức trong những năm qua cũng có nhiều tác giả
nghiên cứu như :
- PGS-TS Đặng Quốc Bảo có bài “Những vấn đề cơ bản về quản lý giáo dục” 1998.
- Tác giả Nguyễn Thò Mỹ Lộc “Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo” 1998.



Nghò quyết của hội nghò lần II của BCH TW Đảng khoá VIII (1996) có nêu : “Mục tiêu
chủ yếu là giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ ở tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo
dục chính trò tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành”.
Với tư tưởng này Đảng và nhà nước ta đã đặt con người vào vò trí trung tâm: con người
là mục tiêu và là động lực của sự phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta, đang trong quá trình hội nhập với quốc tế và
khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ và là mục tiêu cơ bản của
sự nghiệp giáo dục đào tạo. Giáo dục nhân cách mới mà thời đại mới yêu cầu là “ giáo dục
cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghóa xã hội, có bản lónh vững vàng,tư duy
sáng tạo, có năng lực thực hành, có khả năng thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần”.
Ở Đồng Nai ngành giáo dục- đào tạo đã quan tâm và có nhiều văn bản chỉ đạo về
việc giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh trong nhà trường và đã tổ chức nhiều
chương trình hội thảo, toạ đàm về công tác phòng chống tệ nạn xã hội và ma tuý xâm nhập
học đường.
Tuy nhiên ở Tỉnh Đồng Nai nói chung và huyện Long Thành nói riêng về lý luận và
thực tiễn vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Vì vậy chúng tôi mong
rằng với đề tài : “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT ở Huyện Long Thành” sẽ góp phần giúp cho các nhà QLGD các trường THPT
trên đòa bàn huyện Long Thành có thể tham khảo để nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo
đức cho học sinh .


CHƯƠNG II :
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
I ./ CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ QUẢN LY:Ù
1 / Quản lý là gì?
Từ khi con người sống thành xã hội có sự phân công hợp tác trong lao động thì bắt đầu
xuất hiện sự quản lý. Tính chất của việc quản lý thay đổi và phát triển theo sự phát triển
của xã hội loài người, nhằm bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Đã có nhiều tác giả đònh nghóa về quản lý như:
Tác giả: Hà Sĩ Hồ đã đònh nghóa “quản lý là một quá trình tác động có đònh hướng, có
tổ chức lựa chọn trong số các tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng của đối
tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn đònh và làm cho nó
phát triển tới mục đích đã đònh (27/trg34)
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang : “quản lý là tác động có mục đích có kế hoạch của chủ
thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý, nhằm thực
hiện được mục tiêu dự kiến (39/trg 24).
Quản lý là chức năng của quyền lực xã hội, nên trong xã hội có giai cấp nó là chức
năng của quyền lực chính trò, quyền lực của nhà nước, và do đó quan hệ quản lý trong xã
hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Đối với công tác quản lý của người Hiệu trưởng, hệ thống đó chính là trường học.
Trường học, nói cách khác là đối tượng quản lý của Hiệu trưởng.
Trạng thái mới của hệ thống được đặc trưng bởi các mục tiêu dự kiến phát triển của
nhà trường, tức là những mục tiêu quản lý của người Hiệu trưởng. Mục tiêu đó được xác
đònh căn cứ vào nhận thức bản chất và quy luật phát triển của nhà trường phổ thông xã hội
chủ nghóa, vào hiện trạng nhà trường, hoàn cảnh chính trò kinh tế, xã hội của đất nước, đòa
phương.
Vậy các tác giả đều có sự thống nhất là :
Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội có liên quan mật thiết
với nhau. Nếu không có tổ chức thì không biết quản lý ai và ngược lại nếu không có quản
lý thì tổ chức sẽ không tồn tại và phát triển được.
Quản lý là hoạt động cần thiết trong mọi hoạt động của xã hội từ thấp đến cao từ đơn
giản đến phức tạp.
Quản lý bao gồm những công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực
hiện công việc nhằm đạt mục tiêu của tổ chức, của nhóm đề ra.
Mục đích hay mục tiêu của hoạt động quản lý là do chủ thể quản lý đề ra dựa vào mục
đích hay mục tiêu chung của xã hội hay do sự cam kết thoả thuận giữa chủ thể và khách thể
quản lý.



Bên cạnh quản lý là lãnh đạo.Hai khái niệm này có gì giống và khác nhau? Thực ra
muốn lãnh đạo và quản lý người cán bộ phải nắm được khách thể và tác động đến khách
thể, chủ thể ra quyết đònh, điều khiển khách thể trên cơ sở những đặc điểm, thuộc tính
những quy luật của khách thể nhằm thực hiện mục tiêu nhất đònh. Cán bộ lãnh đạo và cán
bộ quản lý đều phải tiến hành quá trình điều khiển.
Cán bộ lãnh đạo phải thực hiện một số chức năng quản lý và ngược lại, cán bộ quản lý
cũng phải thực hiện một số chức năng lãnh đạo.
Tuy nhiên có một số khía cạnh cần phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý: Quá trình lãnh
đạo chủ yếu là quá trình đònh hướng cho khách thể, còn quá trình quản lý chủ yếu là tổ chức
sắp xếp, bố trí để thực hiện đònh hướng của lãnh đạo. Quá trình lãnh đạo là quá trình làm
thức tỉnh hành vi của con người và đònh hướng hoạt động cho con người và xã hội là chủ
yếu. Trong lãnh đạo, con người vừa là khách thể vừa là chủ thể của mọi hoạt động, còn đối
tượng tác động của quản lý lại vừa là con người vừa có thể là công cụ, thiết bò máy
móc….Trong quản lý, người cán bộ vận hành cụ thể thông qua những thiết chế có tính pháp
lý được quy đònh trước. Như vậy, dường như chức năng của quản lý là sự tiếp tục của chức
năng lãnh đạo, là bước đi kế tiếp của lãnh đạo, là yếu tố và là khâu tất yếu để sự lãnh đạo
được thực hiện trên thực tế. Cố nhiên sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý chỉ là tương
đối, sự phân biệt này có vai trò quan trọng để tránh sự chồng chéo, trùng lập trong phân
công giữa người lãnh đạo và người quản ly.ù
2/ Quản lý giáo dục là gì?
Trong tài liệu “Tổng quan về lý luận quản lý giáo dục” của trường Cán bộ quản lý
giáo dục - đào tạo có nêu: “Quản lý giáo dục là một loại hình quản lý được hiểu là sự tác
động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của
hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất (50/trg 87).
Chủ thể quản lý giáo dục là nhà quản lý, tập thể các nhà quản lý hay là bộ máy quản
lý giáo dục. Trong trường học đó là Hiệu trưởng (cùng với bộ máy giúp việc của Hiệu
trưởng ) đến tập thể giáo viên ; các tổ chức đoàn thể.
Khách thể quản lý giáo dục bao gồm trường học hoặc là sự nghiệp giáo dục trên một
đòa bàn (cơ quan quản lý giáo dục các cấp); trong đó có bốn thành tố của một hệ thống xã

hội : tư tưởng (quan điểm đường lối, nguyên lý chính sách chế độ, giáo dục…) con
người(giáo viên, cán bộ CNV và các hoạt động của họ …) quá trình giáo dục (diễn ra trong
không gian và thời gian) vật chất, tài chính (trường sở trang thiết bò kỹ thuật phục vụ cho
giáo dục, ngân sách, ngân quỹ…).
Chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý một cách có ý thức nhằm đạt được
mục tiêu đề ra và chính các mục tiêu quản lý lại tham gia vào sự quy đònh bản chất của
quản lý giáo dục.
Bản chất của quản lý giáo dục được biểu hiện ở các chức năng quản lý. Các công trình
nghiên cứu về khoa học quản lý trong những năm gần đây đã đưa đến một kết luận tương


đối thống nhất về 5 chức năng cơ bản của quản lý là : kế hoạch hoá; tổ chức; kích thích ;
kiểm tra; điều phối (M.I Kondakov:Những cơ sở lý luận của KH QLGD-1982 - trg 146).
-Kế hoạch hoá: lập kế hoạch, phổ biến kế hoạch.
-Tổ chức : tổ chức triển khai, tổ chức nhân sự, phân công trách nhiệm.
-Kích thích: khuyến khích, tạo động cơ.
-Kiểm tra: kiểm soát, kiểm kê, hạch toán, phân tích.
-Điều phối: phối hợp, điều chỉnh.
Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý tạo nên nội dung của quá trình quản lý, nội dung
làm việc của chủ thể quản lý, phương pháp quản lý và là cơ sở để phân công lao động quản
lý.
Trong tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý có sự tác động của người
đến người, đó là sự tác động qua lại tạo thành một loại quan hệ xã hội đặc biệt là quan hệ
quản lý. Trong nhà trường xã hội chủ nghóa quan hệ quản lý có những nét đặc trưng về mặt
chính trò -xã hội, biểu hiện bản chất ưu việt của chế độ quản lý trong xã hội chủ nghóa : hợp
tác tương trợ lẫn nhau giữa người quản lý và người được quản lý là tính nồng hậu nhân đạo,
dựa trên sự thống nhất về mục đích và nguyên tắc quản lý, dựa trên sự thống nhất về lợi ích
khi giải quyết các nhiệm vụ dựa trên sự ủng hộ tích cực và sáng kiến của chủ thể quản lý.
(7/ trg113)
Vậy có thể khái quát sự quản lý giáo dục qua sơ đồ sau:


II./ NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
1/ Giáo dục :
Con người từ khi xuất hiện, qua quá trình lao động, cải tạo tự nhiên đã phát hiện và
nhận thức được các quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của thế giới khách quan và cũng
qua quá trình này con người đã tích luỹ được kinh nghiệm sống, lao động và những hiểu biết
quá trình phát triển của xã hội.
Những tri thức và kinh nghiệm của thế hệ trước tích luỹ được thế hệ sau lónh hội kế
thừa có chọn lọc và phát triển. Đây là hiện tượng đặc thù chỉ xuất hiện ở xã hội loài người-


hiện tượng giáo dục. Hiện tượng này xuất hiện tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Là hiện tượng tất yếu và vónh hằng.
Giáo dục có đặc trưng là tổ chức đònh hướng theo những mục đích và chuẩn mực nhất
đònh, được lựa chọn nội dung, phương pháp hình thức tổ chức và diễn ra mang dấu ấn của
từng thời kỳ lòch sử nhất đònh trong quá trình phát triển của từng xã hội nhất đònh.
Vậy giáo dục là hoạt động có mục đích được tổ chức có kế hoạch, được chọn lựa về
nội dung, phương pháp thực hiện có hệ thống nhằm tác động đến đối tượng nào đó, làm cho
đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
1.1. Các chức năng giáo dục trong xã hội hiện nay:
Giáo dục là một bộ phận của xã hội, luôn vận động và phát triển trong mối quan hệ
biện chứng với các lónh vực khác, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhiều mặt của xã hội.
Điều này thể hiện qua các chức năng xã hội của giáo dục .
1.1.1.Chức năng văn hoá xã hội:
Giáo dục là yếu tố trực tiếp quan trọng nhất quyết đònh sự phát triển của cá nhân và xã
hội vì:
Cá nhân mỗi người từ bé đến trưởng thành là quá trình phát triển cả về cơ thể (mặt
sinh học, tự nhiên) lẫn nhận thức (mặt xã hội). Quá trình này chòu tác động của nhiều yếu
tố trong đó giáo dục là yếu tố làm cho quá trình phát triển diễn ra có hệ thống, nhanh chóng
và hiệu quả.

Sự phát triển về văn hoá, văn minh của loài người luôn gắn liền với vai trò của giáo
dục. Giáo dục là phương thức cơ bản để bảo tồn và phát triển văn hoá nhân loại, tạo điều
kiện cho sự giao lưu văn hoá giữa các thế hệ và giữa các nước…
Vậy giáo dục làm phát triển con người trong sự phát triển của xã hội và phát triển con
người để phát triển xã hội.
1.1.2.Chức năng kinh tế – sản xuất:
Giáo dục đào tạo giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho
nền kinh tế – sản xuất.Giáo dục đào tạo chuẩn bò cho thế hệ trẻ có đủ tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, sử dụng được và thích ứng với những kỹ thuật mới hiện đại giúp họ có khả năng lao
động sản xuất, phát triển quá trình sản xuất và quản lý sản xuất.
Mặt khác sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và cơ chế thò trường đã đặt ra
yêu cầu khách quan đối với thế hệ trẻ : Phải thích ứng và phát huy được năng lực của mình
trên những lónh vực khác nhau. Vì thế GDĐT ở nước ta hiện nay phải thay đổi mục tiêu, nội
dung, phương pháp đào tạo. Nội dung chương trình phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội, giáo dục đào tạo phải giải quyết những vấn đề do kinh tế xã hội đặt ra. Cơ cấu giáo
dục phải gắn chặt với cơ cấu nhân lực, cơ cấu kinh tế xã hội và chòu sự chi phối của hai loại
cơ cấu này. Nội dung giáo dục phải coi trọng cả ba mặt : Mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và phát huy hiệu quả, đồng thời gắn chặt giáo dục với lao động sản xuất, lý luận với
thực tiễn, nhà trường với gia đình, xã hội.


Nội dung giáo dục phải gắn với những tiến bộ khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo
phải nhanh chóng đưa thành tựu khoa học công nghệ vào giảng dạy. Nội dung giáo dục
phải tiếp thu, ứng dụng một cách có chọn lọc những tiến bộ khoa học công nghệ sao cho
phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế nước ta.
1.1.3.Chức năng chính trị- xã hội:
Giáo dục góp phần truyền bá tư tưởng chính trò, luật pháp và chuẩn mực đạo đức,
chuẩn bò cho xã hội có những người công dân khoẻ mạnh có cuộc sống hài hoà, có năng lực
nghề nghiệp, lối sống văn hoá lành mạnh…
Giáo dục góp phần ngăn chặn, uốn nắn những tư tưởng lạc hậu,hình thành thái độ đúng

đắn cho người dân.
Giáo dục mang tính giai cấp và phục vụ cho lợi ích của giai cấp Bác Hồ đã nói: “Các
thầy cô giáo là những chiến só cách mạng trên mặt trận văn hoá xã hội”.
Ở nước ta, giáo dục phục vụ cho lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong đó có giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Tất cả các đường lối chính sách giáo dục của Đảng và
Nhà nước đều hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Nền giáo dục nước ta được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, thực hiện một nền giáo dục thống nhất bình đẳng tạo cơ hội và điều kiện cho tất cả
mọi người đều được đi học, đều được phát triển toàn diện về nhân cách của mình.
1.2. Con đường giáo dục :
Giáo dục được thực hiện chủ yếu qua hai con đường: hoạt động dạy học trên lớp và các
hoạt động ngoài giờ lên lớp. hai hoạt động này có mối quan hệ biện chứng với nhau.
1.2.1. Giáo dục thực hiện qua các giờ dạy chính khoá trên lớp:
Nội dung các môn học văn hoá (tự nhiên và xã hội) giúp học sinh phát triển cả về đức,
trí, thể, mỹ, đặc biệt môn Văn, Sử, Giáo Dục Công Dân có vai trò quan trọng trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp học sinh hiểu biết về pháp luật, hình thành ý thức cộng
đồng. Mặt khác qua nhân cách của thầy cô, (kiến thức chuyên môn, năng lực sư phạm, tác
phong lên lớp...)sẽ để lại trong lòng học sinh những hình ảnh đẹp của người thầy, và điều
này sẽ ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành những tình cảm đạo đức cho học sinh.
1.2.2. Giáo dục qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Giáo dục qua lao động: Có hai hình thức lao động là lao động tự phục vụ và lao động
công ích. Qua lao động học sinh có điều kiện vận dụng những điều đã học trên lớp (học đi
đôi với hành) phát huy tinh thần làm chủ tập thể,tính tự quản,giáo dục học sinh ý thức tổ
chức kỷ luật…
Giáo dục qua các hoạt động ngoại khoá : Như tham quan, du khảo, dự các buổi nói
chuyện chuyên đề, cắm trại, văn nghệ,TDTT… giúp học sinh mở mang kiến thức, củng cố
cho những điều đã học trong sách vở, tăng cường tình đoàn kết tạo mối quan hệ bạn bè,ø
giao tiếp xã hội. Qua tham quan di tích lòch sử , thắng cảnh, học sinh cảm thấy gần gũi với
thiên nhiên, càng thêm yêu quê hương đất nước.



Vậy hai con đường trên có quan hệ hỗ trợ với nhau, bổ sung cho nhau. Đặc biệt trong
giáo dục đạo đức những giờ học chính khoá học sinh tiếp thu được những tri thức, những
chuẩn mực đạo đức xã hội, và từ đó hình thành trong các em tình cảm đạo đức, thì qua
những hoạt động ngoại khoá sẽ tạo điều kiện cho những tình cảm đạo đức được bộc lộ thể
hiện qua hành vi đạo đức và hành vi này được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ thành những thói
quen đạo đức…
1.3. Giáo dục THPT hiện nay:
Hiện nay trên thế giới đang xảy ra sự tăng tốc về cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại và sự hình thành nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin. Việc áp dụng rộng rãi các công
nghệ hiện đại đang đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá trên mọi lãnh vực kinh tế –văn hoá xã
hội. Một cuộc đấu tranh gay gắt đang diễn ra để bảo tồn các nền văn hoá yếu trước nguy cơ
đồng hoá của các nền văn hoá mạnh. Uỷ ban quốc tế về giáo dục cho thế kỷ XXI đã nhận
xét “Người đương đại nằm trong cảm giác bàng hoàng khi bò giằng co giữa một bên là sự
toàn cầu hoá mà họ đang chứng kiến và đang chòu tác động và một bên là cuộc truy tìm bản
sắc cội nguồn gốc rễ” và để vượt qua tình trạng đó Uỷ ban đưa ra khuyến nghò về bốn trụ
cột của của giáo dục trong đó có việc học để chung sống cùng nhau.
Quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi nhân loại chung sức giải quyết những vấn đề toàn cầu
liên quan đến sự tồn vong của một cá nhân hay một quốc gia. Đó là vấn đề bảo vệ hoà bình
chống chiến tranh khủng bố, tránh xung đột sắc tộc tôn giáo, bảo vệ môi trường hạn chế
bùng nổ dân số, phòng chống AIDS, ma tuý, tội phạm,khủng bố. Gíao dục đào tạo giữ vai
trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm của các thế hệ hiện nay và
mai sau trong việc cùng nhau giải quyết những vấn đề chung đó.
Nghò quyết TW II khoá VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu: “Giáo dục đào tạo
nước ta còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô, cơ cấu và nhất là về chất lượng hiệu
quả”. Theo báo cáo chính trò tại đại hội Đảng toàn quốc lần VIII và chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2001-2010 đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục đào tạo nước ta là
: “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân văn, dân
tộc, khoa học, hiện đại, theo đònh hướng XHCN, lấy CN Mác- Lênin và tư tưởng Hố Chí
Minh làm nền tảng. Giáo dục người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức sức

khoẻ và thẩm mỹ, phát triển được năng lực cá nhân, đào tạo những người lao động có kỹ
năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghóa xã hội, có ý chí lập thân lập nghiệp, có ý thức công dân góp phần làm cho dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”.
Để phát triển giáo dục đào tạo, cần đổi mới toàn diện về việc xác đònh mục đích mục
tiêu ở từng cấp học, bậc học, ngành học đến việc đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp, phương tiện và kiểm tra đánh giá.
Ở bậc THPT không chỉ tập trung chuẩn bò cho học sinh về kiến thức xã hội hiện đại mà
cần phải quan tâm nhiều hơn đến việc rèn luyện kỹ năng kỹ xảo cần thiết để học sinh có


thể học lên, học suốt đời và bước vào cuộc sống xã hội một cách tích cực, chú ý thực hiện
có hiệu quả việc giáo dục đạo đức, để hình thành nhân cách toàn diện chuẩn bò cho xã hội
người công dân tốt phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới hiện nay và tương lai.
2/ Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT:
2.1. Khái niệm đạo đức:
Con người là một thực thể của tự nhiên và xã hội vì thế con người có nhiều mối quan
hệ trong đó có mối quan hệ với tự nhiên và với xã hội (giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
nhân với gia đình, giữa cá nhân -tập thể, tổ chức cộng đồng xã hội).Sự nhận thức của mỗi
người về những mối quan hệ tuân theo những quy đònh chuẩn mực của xã hội được biểu
hiện bằng những hành động cụ thể hàng ngày. Những hoạt động đó bảo đảm quyền lợi cho
các thành viên và cho sự phát triển của cộng đồng.
Trong từ điển tiếng Việt – Viện ngôn ngữ – Viện khoa học xã hội Việt Nam 1992,
trang 297 có nêu:“Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận,
quy đònh hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”.
“ Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người, do tu dưỡng theo những tiêu
chuẩn đạo đức mà có”.
Vậy đạo đức là một hệ thống những quy tắc những chuẩn mực mà qua đó con người tự
nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình vì hạnh phúc của cá nhân, lợi ích của tập thể và

cộng đồng.
Đạo đức được hình thành rất sớm trong xã hội nguyên thuỷ và biến đổi phát triển cùng
với sự biến đổi phát triển của xã hội. Những quan niệm về chính và tà, thiện và ác, có đạo
đức và vô đạo đức cũng thay đổi theo sự thay đổi của xã hội. Đạo đức mang tính giai cấp,
các phạm trù đạo đức luôn phản ảnh đòa vò và lợi ích giai cấp nhằm giải quyết những mâu
thuẫn giữa cái chung - riêng trong nội bộ giai cấp và trong xã hội.
-Đời sống đạo đức của mỗi người gồm có : Ý thức đạo đức, tình cảm, niềm tin đạo đức,
hành vi đạo đức, vận động trong mối quan hệ biện chứng.
-Ý thức đạo đức: là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, lương tâm trách nhiệm,
hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá,ù điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá
nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội (9 trg triết học Mác-Lênin NXB
CTQG).
- Ý thức đạo đức phản ảnh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo
đức, là nét cơ bản quy đònh gương mặt đạo đức của con người,cũng là biểu hiện bản chất xã
hội của con người. Với ý nghóa đó, sự phát triển ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ
xã hội.
-Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức về giá trò và đònh hướng giá trò đạo đức,
tình cảm và niềm tin đạo đức. Trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất là động
lực thúc đẩy cá nhân, thể hiện những ý thức đạo đức qua hành vi của mình.


-Sự biểu hiện của ý thức đạo đức bằng những hành động cụ thể gọi là hành vi đạo đức.
Hành vi đạo đức được thực hiện thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày sẽ trở thành
những thói quen đạo đức.
- Tuy nhiên khi xem xét đạo đức không nên căn cứ vào kết quả của hành vi mà phải
lưu ý đến sự hiểu biết về những chuẩn mực đạo đức và những động cơ cá nhân thể hiện qua
hành vi đó.
- Các giá trò đạo đức trong xã hội chúng ta hiện nay là thể hiện sự kết hợp sâu sắc
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với xu thế tiến bộ của thời đại, của nhân loại, đó
là:

- Lao động sáng tạo, nguồn gốc của mọi giá trò là một nguyên tắc đạo đức có ý nghóa
chỉ đạo trong sự giáo dục và tự giáo dục của con người hiện nay.
- Yêu nước, thống nhất với yêu quê hương và yêu chủ nghóa xã hội, thực hiện nghóa
vụ công dân, sống và làm việc theo hiến pháp pháp luật yêu hoà bình, tinh thần cộng đồng
và quốc tế là giá trò đạo đức cao cả của con người Việt Nam.
- Lòng nhân ái xã hội chủ nghóa, tinh thần đoàn kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau là một
phẩm chất đạo đức của nhân cách đã được hình thành, củng cố và phát triển trong lòch sử
của dân tộc ta.
- Thái độ xây dựng và bảo vệ môi trườn g sống, thái độ đúng đắn với tự nhiên là thể
hiện thái độ của con người đối với người khác, đối với cộng đồng, vì thế cũng thể hiện giá
trò đạo đức mới.
- Thái độ đối với bản thân được xem xét như một giá trò đạo đức thể hiện phẩm giá
lương tâm của con người chân chính như: Tính trung thực, kỷ luật, tự giác, khiêm tốn, tự
trọng, lễ phép, tế nhò, lòch sự, biết kiềm chế, kiên trì, dũng cảm.
2.2. Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT:
Giáo dục đạo đức có ý nghóa quan trọng hàng đầu trong toàn bộ công tác giáo dục ở
nhà trường xã hội chủ nghóa. Bác Hồ đã dạy “Dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài
lẩn đức”. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc quan trọng “ đạo đức là cái gốc quan
trọng của con người phát triển toàn diện mà nhà trường phổ thông có trách nhiệm đào tạo,
do đó công tác giáo dục đạo đức phải được xem là then chốt trong nhà trường. Nếu công tác
này được quan tâm đúng mức sẽ có tác dụng thúc đẩy việc nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện”.
Giáo dục đạo đức là quá trình hình thành và phát triển ý thức, tình cảm,niềm tin, hành
vi và thói quen đạo đức của học sinh dưới những tác động có mục đích có kế hoạch được lựa
chọn về nội dung phương pháp phương tiện phù hợp với đối tượng giáo dục và sự phát triển
kinh tế xã hội nhất đònh.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường THPT là một quá trình giáo dục bộ phận trong tổng
thể cả quá trình giáo dục và có quan hệ biện chứng với các bộ phận giáo dục khác như: giáo
dục trí tuệ, thẩm mỹ,thể chất, giáo dục lao động và hướng nghiệp, giúp học sinh hình thành
và phát triển nhân cách toàn diện.



Quá trình giáo dục đạo đức giống như các quá trình giáo dục khác là có sự tham gia
của chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục.
Chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh là : Thầy cô giáo, cha
mẹ học sinh, và những lực lượng giáo dục trong xã hội.
Học sinh là đối tượng của quá trình giáo dục, chòu tác động của giáo viên và các lực
lượng giáo dục khác. Học sinh còn là chủ thể tích cực, tự giác tiếp thu các chuẩn mực đạo
đức và tham gia các hoạt động giao lưu để thể hiện các giá trò đạo đức.
Mục đích của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT là hình thành những phẩm chất tốt
đẹp trong nhân cách của học sinh.
Nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT hiện nay cũng chính là
những phẩm chất đạo đức quan trọng của thế hệ trẻ Việt Nam cần phải có : đó là lao động
sáng tạo, yêu nước và yêu chủ nghóa xã hội, yêu hoà bình, có tinh thần cộng đồng và quốc
tế, có lòng nhân ái xã hội chủ nghóa tinh thần đoàn kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau có thái độ
xây dựng và bảo vệ môi trường, có thái độ đúng đắn với tự nhiên và bản thân.
Phương pháp giáo dục đào tạo cho học sinh gồm:
-Phương pháp tác động vào nhận thức tình cảm : đàm thoại, tranh luận, kể chuyện,
giảng giải, khuyên răn.
-Phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn : giao việc, rèn luyện, tập thói quen…
-Phương pháp kích thích tình cảm và hành vi: thi đua, nêu gương, khen thưởng, trách
phạt…
-Khi sử dụng các phương pháp trên nhà giáo dục cần lưu ý :
 Bảo đảm tính nguyên tắc quá trình giáo dục.
 Bảo đảm tính mục tiêu, nội dung của giáo dục.
 Phối hợp các phương pháp với nhau.
 Hiểu hoàn cảnh và đặc điểm tâm lý đối tượng.
Các hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh như:
-Giáo dục thông qua các giờ dạy văn hoá trên lớp.
-Giáo dục thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp.

 Lao động,vệ sinh trường sở, hướng nghiệp.
 Hoạt động văn hoá, văn nghệ,TDTT, vui chơi giải trí.
 Hoạt động tham quan, du lòch, cắm trại.
 Hoạt động chính trò xã hội nhân đạo.
3/ Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THPT:
Nhà trường là một cơ quan giáo dục chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục và đào
tạo.Quản lý nhà trường thực chất là quá trình quản lý lao động sư phạm của thầy,hoạt động
học tập của trò diễn ra trong quá trình dạy học-giáo dục.
Theo GSTS Phạm Minh Hạc “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, được nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo


dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục –với thế hệ trẻvới trường học”
Trường THPT là cơ quan giáo dục của Nhà nước. Hiệu trưởng quản lý nhà trường,
quản lý giáo dục theo theo chế độ thủ trưởng. Hiệu trưởng chòu trách nhiệm quản lý toàn
diện hoạt động giáo dục của nhà trường, trong đó có giáo dục đạo đức. Hệ thống mục tiêu
quản lý của Hiệu trưởng trường THPT gồm:
Thực hiện kế hoạch thu nhận học sinh vào học theo đúng chỉ tiêu và tiêu chuẩn, bảo
đảm quyền được học tập của học sinh.
Bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện theo kế hoạch và chương trình mà Bộ giáo dục
đã quy đònh.
Phát triển tập thể sư phạm đủ và đồng bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tư
tưởng chính trò và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Xây dựng sử dụng bảo quản tốt cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường phát huy hiệu
quả dạy và học và các hoạt động giáo dục khác.
Xây dựng và hoàn thiện tổ chức chính quyền và phối hợp giữa các đoàn thể quần
chúng trong trường.
Phát triển và hoàn thiện các mối quan hệ giữa giáo dục của gia đình và xã hội để làm
tốt công tác giáo dục trẻ.
Tổ chức thực hiện tốt công tác văn thư, tư liệu, kế toán, tài chính, chấp hành nghiêm

chỉnh các quy đònh của nhà nước-pháp luật và giáo dục, thường xuyên cải tiến tổ chức
trường học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và công tác khác,đảm bảo các nguyên tắc
quản lý trường học.
Đảm bảo sự lãnh đạo chặt chẽ của các Cấp Uỷ Đảng và chính quyền đòa phương của
cấùp trên đối với hoạt động của nhà trường, giữ mối quan hệ mật thiết với các tổ chức kinh
tế, văn hoá, xã hội ở đòa phương và lôi cuốn các tổ chức đó tham gia vào sự nghiệp giáo dục
học sinh. Xây dựng hội cha mẹ học sinh, tạo mối quan hệ mật thiết với cha mẹ học sinh
nhằm góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh trong đó có giáo dục đạo đức.
Các phó Hiệu trưởng, giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm, thầy quản sinh, các
tổ chức trong trường như Công đoàn, Đoàn thanh niên cùng tham gia phối hợp và giúp
Hiệu trưởng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trước hết thể hiện ơ ûcác chức năng quản lý giáo
dục : Kế hoạch hoá, tổ chức,chỉ đạo, kiểm tra đánh giá.
3.1. Xây dựn g kế hoạch :
Giáo dục đạo đức là một quá trình trong đó khâu đầu tiên là xây dựng kế hoạch. Kế
hoạch hoá là chức năng quan trọng hàng đầu trong công tác quản lý. Vì thiếu tính kế hoạch
giáo dục khó đạt được kết quả cao.
Lập kế hoạch là quyết đònh trước cái gì cần phải làm, làm như thế nào, khi nào làm,
và ai làm cái đó ( Những vấn đề cốt yếu của quản lý. Người dòch Nguyễn mạnh Quân,
Nguyễn Đăng Dậu, NXB KHKT Hà Nội 1993).


Lập kế hoạch la ømột quá trình đòi hỏi có tri thức , xác đònh đường lối và đưa ra các
quyết đònh trên cơ sở mục tiêu, sự hiểu biết và những đánh giá thận trọng.
Muốn kế hoạch có tính khả thi và hiệu quả cần phải đầu tư suy nghó để hoạch đònh từ
những vấn đề chung nhất đến những vấn đề cụ thể. Từ những vấn đề mang tính chiến lược
đến những vấn đề mang tính chiến thuật trong mỗi giai đoạn. Khi xây dựng kế hoạch giáo
dục đạo đức cho học sinh, người Hiệu trưởng cần dựa trên những cơ sở sau:
Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức trong năm học. Thực trạng này thể hiện rõ trong
bảng tổng kết năm học. Qua đó thấy được ưu và nhược điểm của công tác giáo dục đạo đức,

những vấn đề gì còn tồn tại, từ đó xếp ưu tiên từng vấn đề cần giải quyết.
Phân tích kế hoạch chung của ngành, trường, từ đó xây dựng kế hoạch giáo dục đạo
đức. Kế hoạch này là kế hoạch cụ thể về một mặt giáo dục quan trọng của nhà trường, trong
đó thể hiện sự thống nhất giáo dục đạo đức với các mặt giáo dục khác phù hợp với điều
kiện cụ thể của nhà trường.
Tìm hiểu đặc điểm kinh tế, văn hoá,xã hội của đòa phương. Vì quá trình giáo dục đạo
đức thống nhất biện chứng với quá trình xã hội, với môi trường sống.
Tìm hiểu các chuẩn mực, giá trò đạo đức trong xã hội của chúng ta hiện nay và xu thế
giá trò đạo đức trên thế giới để xây dựng nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh.
Xác đònh điều kiện giáo dục như cơ sở vật chất, tài chính, quỹ thời gian,sự phối hợp với
lực lượng giáo dục trong trường và ngoài trường.
Những yêu cầu khi xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức :
Kế hoạch phải thể hiện được tính khoa học, kế thừa, toàn diện, cụ thể và trọng tâm
trong từng thời kỳ.
Kế hoạch phải phát huy những mặt mạnh, khắc phục những mặt yếu kém, củng cố ưu
điểm, vạch ra được chiều hướng phát triển trong việc hình thành đạo đức ở học sinh.
Kế hoạch phản ảnh được mối quan hệ giữa mục đích, mục tiêu, nội dung, phương pháp,
phương tiện, thời gian,hình thức tổ chức, biện pháp, kiểm tra, đánh giá.
Kế hoạch thể hiện được sự phân cấp quản lý của Hiệu trưởng, bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ và cụ thể.
Do đó việc xây dựng kế hoạch giáo dục nói chung và đặc biệt là kế hoạch giáo dục
đạo đức thì Hiệu trưởng cần quan tâm nhiều đến hiệu quả xã hội và động lực mục tiêu của
nhà trường, đưa ra tầm nhìn mới và tuyên truyền để làm biến đổi nhận thức và hành động
của các thành viên trong nhà trường.
Bản kế hoạch được xây dựng xong vào tháng 7, tháng 8. Sau đó pho åùbiến thảo luận
đóng góp trong lãnh đạo, Chi bộ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, các tổ trưởng và sau đó phổ
biến cho toàn thể cán bộ, giáo viên, công nhân viên vào tháng 9 thông qua hội nghò Công
nhân viên chức.
Việc thành lập kế hoạch không đơn thuần là quá trình lý thuyết (nằm trên bàn giấy
)mà phải thực hiện. Do đó phải có yếu tố con người tham gia vào.Vì vậy xây dựng kế hoạch



không những được coi là quá trình tương tác giữa con người với con người, con người với kế
hoạch mà còn phải có sự giải thích, quyết đònh và lựa chọn.
3.2. Tổ chức thực hiện kế hoạch.
Là xếp đặt một cách khoa học những yếu tố, những lượng người, những dạng hoạt
động của tập thể người lao động thành một hệ toàn vẹn, bảo đảm cho chúng tương tác với
nhau một cách tối ưu đưa hệ tới mục tiêu.
Tổ chức chính là sinh thành ra hệ toàn vẹn, tạo ra hiệu ứng tổ chức. Lênin: “Một trăm
người sẽ mạnh hơn một ngàn người khi một trăm người này biết tổ chức lại thì nó sẽ nhân
sức mạnh lên mười lần”.
Tổ chức thực hiện giáo dục đạo đức cho học sinh phải xuất phát từ quan điểm phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh. Học sinh là chủ thể của hoạt động nhận thức và rèn
luyện phẩm chất đạo đức dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên. Có như vậy thì những
chuẩn mực giá trò đạo đức của xã hội sẽ trở thành những phẩm chất riêng trong nhân cách
của học sinh.
Tổ chức thực hiện việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT có liên quan mật thiết đến
việc tổ chức hoạt động học tập văn hoá trong nhà trường.
Quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch gồm:
Giải thích mục tiêu, yêu cầu, của kế hoạch giáo dục đạo đức.
Thảo luận biện pháp thực hiện kế hoạch.
Sắp xếp bố trí nhân sự, phân công trách nhiệm quản lý, huy động cơ sở vật chất, kinh
tế. Khi sắp xếp bố trí nhân sự, Hiệu trưởng phải biết được phẩm chất và năng lực của từng
người, mặt mạnh, mặt yếu, nếu cần có thể phân công theo từng “ê kíp”để công việc được
tiến hành một cách thuận lợi và có hiệu quả.
Đònh rõ tiến trình, tiến độ thực hiện. Thời gian bắt đầu, thời hạn kết thúc.
Trong việc tổ chức thực hiện, Hiệu trưởng cần tạo điều kiện cho người tham gia phát
huy tinh thần tự giác, tích cực, phối hợp cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.
3.3. Chỉ đạo thực hiện kế hoạch:
Chỉ đạo là hướng dẫn cụ thể theo một đường lối chủ trương nhất đònh (trang 164 tự

điển…).
Chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức trong nhà trường phổ thông là chỉ huy, ra
lệnh cho các bộ phận trong nhà trường thực hiện những nhiệm vụ để bảo đảm việc giáo dục
đạo đức diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch, tập hợp và phối hợp các lực lượng giáo dục sao
cho đạt hiệu quả.
Trong quá trình chỉ đạo, Hiệu trưởng cần kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch
bằng cách thu thập thông tin chính xác, phân tích tổng hợp, xử lý thông tin để đưa ra những
quyết đònh đúng đắn. Có thể đó là những quyết đònh điều chỉnh, sửa sai(nếu thấy kế hoạch
có vấn đề chưa phù hợp với thực tiễn) để hoạt động giáo dục đạo đức diễn ra theo đúng kế
hoạch.


Việc chỉ đạo giáo dục đạo đức sẽ đạt hiệu quả cao nếu trong quá trình chỉ đạo Hiệu
trưởng biết kết hợp giữa sử dụng uy quyền và thuyết phục, động viên kích thích, tôn trọng,
tạo điều kiện cho người dưới quyền được phát huy năng lực và tính sáng tạo của họ.
3.4. Kiểm tra thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh:
Kiểm tra là công việc rất cần thiết trong quản lý, giúp nhà quản lý biết được tiến độ
thực hiện kế hoạch, đối tượng được phân công thực hiện kế hoạch, từ đó có biện pháp điều
chỉnh kòp thời và có hướng bồi dưỡng sử dụng cán bộ tốt hơn.
Kiểm tra thường đi liền với đánh giá, đó là những phán đoán nhận đònh về kết quả của
công việc dựa trên mục tiêu đề ra.
Kiểm tra, đánh giá là một chức năng quản lý, thiếu chức năng này người quản lý sẽ rơi
vào tình trạng chủ quan duy ý chí hay buông lỏng quản lý.
Trong quản lý giáo dục đạo đức việc kiểm tra đánh giá có ý nghóa không chỉ đối với
nhà quản lý giáo dục mà còn có ý nghóa đối với học sinh. Vì qua kiểm tra đánh giá của giáo
viên, học sinh hiểu rõ hơn về những hoạt động của mình, khẳng đònh được mình. Từ đó hoạt
động tích cực hơn, tự giác hơn, biết tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu
chung của xã hội.
Việc kiểm tra đánh giá phải khách quan, toàn diện, hệ thống, công khai.
Sau kiểm tra phải có nhận xét, kết luận, phải động viên khen thưởng, nhắc nhở kòp thời

những sai trái thì mới có tác dụng.
Hiệu trưởng có thể kiểm tra đònh kỳ, thường xuyên, đột xuất, trực tiếp hoặc gián tiếp,
cần xây dựng chuẩn đánh giá phù hợp với đặc điểm của nhà trường thì việc kiểm tra đánh
giá mới khách quan công bằng rõ ràng chính xác.

CHƯƠNG III :
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC Ở CÁC TRƯỜNG THPT
HUYỆN LONG THÀNH
I./ ĐẶC ĐIỂM VỀ DÂN CƯ, KINH TẾ, VĂN HOÁ, XÃ HỘI Ở HUYỆN LONG
THÀNH.
1. Dân số - sự phân bố dân cư:
Huyện Long Thành nằm dọc theo quốc lộ 51, ranh giới từ Ngã ba Vũng Tàu (thành
phố Biên Hoà) đến huyện Tân Thành (tỉnh Bà Ròa- Vũng Tàu)về phía nam dài 33 km, cách
Thành phố Hồ Chí Minh 60 km, là một khu vực của miền Đông Nam Bộ. Bắc tiếp giáp với
thành phố Biên Hoà và huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Nam giáp tỉnh Bà Ròa-Vũng


Tàu.Tây giáp quận 9 thành phố Hồ Chí Minh. Đông giáp huyện Cẩm Mỹ, Đồng Nai. Diện
tích tự nhiên là 53.482ha, dân số của huyện tính đến thời điểm 31/12/2003 là 204.785 người.
Long thành được chia thành 19 đơn vò hành chánh gồm có 18 xã và 1 thò trấn.
2. Đặc điểm về kinh tế:
Từ năm 1994 đến nay thực hiện nghò quyết Đại hội Huyện Đảng bộ Long Thành lần
thứ 7,8 cơ cấu kinh tế chuyển dòch theo hướng công nghiệp- dòch vụ- nông nghiệp. Sự phát
triển về kinh tế hàng năm nâng lên khá rõ. Khu công nghiệp phát triển mạnh, sức lao động
chủ yếu trong lónh vực công nghiệp. Đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên,hiện
huyện Long Thành hộ đói nghèo chỉ còn dưới 2%.
3. Đặc điểm về văn hoá-xã hội-giáo dục
Huyện Long Thành có 5 trường THPT (4 trường công 1 trường bán công) 1 Trung tâm
giáo dục thường xuyên, 1 Trung tâm dạy nghề, nhiều đòa điểm tư nhân dạy tin học ngoại
ngữ. Tổng số học sinh theo học ở 5 trường THPT năm học 2001--2002 có 7055 học sinh,năm

học 2002-2003 có 7341 học sinh,năm học 2003-2004 có 7161 học sinh.
Tỉ lệ học sinh lớp 12 đậu tốt nghiệp năm học 2001-2002 là 89,52%, năm học 20022003 là 88,23%, năm học 2003-2004 là 86,73%. Số học sinh đậu đại học và cao đẳng ở
huyện Long thành trung bình hàng năm từ 12-15% trên tổng số học sinh đậu tốt nghiệp.
Do kinh tế của Huyện Long Thành phát triển dẫn đến sự phát triển về văn hoá-xã hộigiáo dục. Nhiều nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ mọc lên, những trung tâm văn hoá giải trí
xuất hiện, do sự thay đổi từ nghèo sang giàu nhanh chóng (bán đất đai) đã tạo nên tâm lý
thích hưởng thụ, ăn chơi. Vì vậy bên cạnh những nhu cầu văn hoá, giải trí lành mạnh thì
cũng xuất hiện những kiểu đua đòi ăn chơi ở một số thanh thiếu niên. Các tệ nạn xã hội
trong lứa tuổi thanh niên và nhất là học sinh đã xuất hiện và có chiều hướng gia tăng.
II./ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
TRƯỜNG THPT Ở HUYỆN LONG THÀNH:

HỌC SINH CÁC

Thực trạng việc QLGD đạo đức cho học sinh các trường THPT được thể hiện ở những
hoạt động cơ bản sau đây :
 Việc xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức .
 Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức .
 Đánh giá, Khen thưởng.
 Một số kết quả giáo dục đạo đức.
1.Việc xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức
Kết quả nghiên cứu trong CBQL và giáo viên về việc xây dựng kế giáo dục đạo đức
cho học sinh được trình bày ở bảng 1 sau đây :


0.85

0.95

0.96


0.77

0.79

0.81

0.86
2.61

0.92
2.40

0.87
2.53

0.90
2.93

0.83
2.68

0.80
2.52

20
20
TL%

28


26,3

44

48,4

8

5,3

2.60
19
10
TC

14

25

22

46

4

5

2.60
2
1

8
4
2
3
2
NĐC

3

2.20
2
2
6
5
4
3
1
LP

2

2.70
0
1
5
3
6
4
2
BS


4

2.90
0
0
13
4
7
5
3
TP

3

2.60
1
0
14
6
6
4
2
LT

2

GVCN
CBQL
GVCN

CBQL
GVCN
CBQL
GVCN
CB
QL

Tên
trường

TỐT

KHÁ

TRUNG
BÌNH

YẾU

CBQL

M

GVCN

CBQL

S

GVCN


Bảng 1: Kết quả xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức

Nhận xét bảng 1:
+ Có 20% số ý kiến của CBQL đánh giá tốt, 52% số ý kiến đánh giá trung bình và
yếu. Các GVCN cũng có nhận xét tương tự (20% và 53,7%). Điều nầy cho thấy việc xây
dựng kế hoạch giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng chưa thật tốt , đa số chỉ ở mức trung bình
và yếu . Điểm trung bình M= 2.6-2.61, cũng thể hiện rõ tình trạng trên. Độ lệch chuẩn S=
0,86- 0,85, cho thấy ý kiến trả lực lượng lời tương đối tập trung .
+Qua trao đổi trực tiếp với các CBQL của năm trường chúng tôi được biết kế hoạch
giáo dục đạo đức được xây dựng chung với kế hoạch năm học và việc giáo dục đạo đức
được thực hiện theo từng thời kỳ( chủ điểm các ngày lễ lớn của dân tộc). Như vậy có thể


thấy kế hoạch giáo dục đạo đức ở các trường được xây dựng một cách chung chung ,chưa
thật cụ thể.
2. Việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức:
2.1. Việc chỉ đạo giáo viên bộ môn tham gia giáo dục đạo đức .
Kết quả nghiên cứu trong CBQL và GVCN về việc chỉ đạo giáo viên bộ môn tham gia
giáo dục đạo đức được trình bày ở bảng 2 sau đây:
Bảng 2: Kết quả việc chỉ đạo giáo viên bộ môn tham gia giáo dục đạo đức.


0.88
0.7
2.24

GVCN
GVCN


CB
QL

S

16
8

10

10.53

27

54

21

22.10

14

28

46

48.42

1


2

18

18.95

2.84
TL
T
L
N
TL
TL
N
TL
N
TL
N

CBQL

N

TL

CBQL
GVCN

TL


N

GVCN

CBQL

N

GVCN

CBQL

N

GVCN

CBQL

M
Yếu
Trung bình
Khá
Tốt

Nhận xét bảng 2:
Có tới 48,42% số ý kiến cho rằng việc chỉ đạo giáo viên bộ môn làm công tác giáo dục
đạo đức chỉ ởø mức trung bình và 18.95% số ý kiến cho rằng ở mức yếu. Điều nầy cho thấy
việc chỉ đạo giáo viên bộ môn làm công tác giáo dục đạo đức chưa đạt hiệu quả cao .



×