Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
KHẢO SÁT GIẢI PHẪU BÌNH THƯỜNG VÀ CÁC BIẾN THỂ
CỦA ĐỘNG MẠCH THẬN Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH
BẰNG X QUANG CẮT LỚP ĐIỆN TOÁN
Nguyễn Phan Ngọc Thảo*, Nguyễn Văn Ân**, Đặng Đình Hoan**, Hồ Thế Lâm Hải****,
Võ Tấn Đức ***, Trần Minh Hoàng***.
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiểu rõ các biến thể giải phẫu của mạch máu thận rất quan trọng, nhất là trước khi tiến hành
ghép thận, cắt thận bán phần, phẫu thuật mở, tái tạo mạch máu cho động mạch thận bị hẹp hoặc phình động
mạch chủ bụng. Trong những năm gần đây, chụp mạch bằng X quang cắt lớp điện toán nhiều dãy đầu dò đã trở
thành phương tiện chẩn đoán hình ảnh chủ yếu để khảo sát mạch máu thận và đầy thách thức với kĩ thuật chụp
mạch qui ước. Đây là phương tiện khảo sát không xâm lấn, nhanh chóng và cung cấp những hình ảnh chính xác,
chi tiết về giải phẫu và các biến thể của động mạch thận. Khảo sát số lượng mạch máu, kích thước, nguyên ủy
của động mạch thận rất thuận lợi khi chụp mạch bằng X quang cắt lớp điện toán.
Mục đích: Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là khảo sát giải phẫu và các biến thể thường gặp của động
mạch thận ở người Việt Nam trưởng thành.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành tại khoa Chẩn Đoán Hình Ảnh bệnh viện Bình Dân,
thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 9/2012 đến tháng 12/ 2012, với 164 bệnh nhân được chụp X quang cắt lớp
điện toán bụng có tiêm thuốc cản quang. Bệnh nhân có bất thường bẩm sinh thận, hẹp động mạch thận hoặc đã
phẫu thuật thận sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả: Nguyên ủy của động mạch thận chính đa số xuất phát từ ngang mức L1 trở lên, tỉ lệ bên phải
(57,9%), bên trái (49,4%). Đường kính động mạch thận chính bên phải (5,04 ± 0,52 mm), bên trái (5,22 ± 0,83
mm). Chiều dài của động mạch thận chính bên phải (38,26 ± 11 mm), bên trái (30,49 ± 9,75 mm). Động mạch
thận đơn chiếm tỉ lệ 78% trong dân số. Các biến thể động mạch thận: tỉ lệ đa động mạch thận là 22%, chia nhánh
sớm của động mạch thận chính là 9,8%. Tỉ lệ động mạch thận phụ bên phải (15,2%), bên trái (27,4%) và chia
nhánh sớm của động mạch thận chính bên phải (3,8%), bên trái (15,8%). Nếu đường kính động mạch thận chính
là 4,15 mm thì khả năng xuất hiện động mạch thận phụ có độ nhạy (33,3%), độ đặc hiệu (98%), giá trị tiên đoán
dương (82,8%), giá trị tiên đoán âm (84%). Nếu đường kính động mạch thận chính là 4,85 mm thì khả năng
xuất hiện động mạch thận phụ có độ nhạy (83,3%), độ đặc hiệu (77,3%), giá trị tiên đoán dương (50,8%), giá trị
tiên đoán âm (94,3%).
Kết luận: Nguyên ủy của động mạch thận ngang thân sống L1 chiếm đa số. Động mạch thận phụ xuất hiện
trong dân số chiếm tỉ lệ khá cao. Nghiên cứu này khảo sát những động mạch thận bình thường dựa trên chẩn
đoán hình ảnh không xâm lấn.
Từ khóa: động mạch thận, chụp mạch bằng X quang cắt lớp điện toán
* BV Củ Chi TPHCM
** BV Bình Dân TPHCM
*** Khoa Chẩn đoán hình ảnh BV ĐH Y Dược TPHCM
**** Khoa Chẩn đoán hình ảnh BV Chợ Rẫy TPHCM
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Phan Ngọc Thảo
ĐT: 0908497569;
Chẩn Đoán Hình Ảnh
Email:
251
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
ABSTRACT
MDCT ANGIOGRAPHY OF RENAL ARTERIES: NORMAL ANATOMY AND VARIANTS.
Nguyen Phan Ngoc Thao, Nguyen Van An, Dang Dinh Hoan, Ho The Lam Hai, Vo Tan Đuc ,
Tran Minh Hoang* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 251 ‐ 257
Background: Knowledge of the variations in renal vascular anatomy is important before laparoscopic donor
or partial nephrectomy and vascular reconstruction for renal artery stenosis or abdominal aortic aneurysm.
Recently, multidetector computed tomographic (MDCT) angiography has become a principal imaging
investigation for assessment of the renal vasculature and has challenged the role of conventional angiography. It
is an excellent imaging technique because it is a fast and non‐invasive tool that provides highly accurate and
detailed evaluation of normal renal arterial anatomy and variants. The number, size and course of the renal
arteries are easily identified by MDCT angiography.
Purpose: The purpose of this pictorial essay is to illustrate MDCT angiography of normal anatomy and
common variants of the renal arteries of the Vietnamese adults.
Materials and Methods: This is a descriptive cross‐sectional study conducted at the Radiology
Department of Binh Dan hospital, Ho Chi Minh City. From September 2012 to December 2012, 164 patients
who presented at Binh Dan hospital for abdominal CT examinations with various indications were included to
this study. Patients with a congenital renal abnormality, stenosis in the renal artery, or a history of any renal
surgery were excluded.
Results: The main renal arteries which originated from the aorta at L1 level were found 57.9 % on right side
and 49.4 % on the left side the patients. The mean diameters of main renal artery were 5.04 ± 0.52 mm on the
right‐ hand and 5.22 ± 0.83 mm on the left‐ hand. The mean length of the right‐hand renal arteries was calculated
as 38.26 ± 11 mm and the left‐hand as 30.49 ± 9.75 mm.
A single renal arteries were presented in both kidneys in 78% of the patients. Renal artery variations
included multiple arteries in 22%, and early division in 9.8% of the cases. Additional renal arteries on the right
side were found in 15.2% and on the left side in 27.4% of the cases. Early branching arteries were presented in
3,6% of right kidneys and 15.8% of left kidneys. A cut‐off value of 4.15 mm for the diameter of (mRA) to predict
the presence of the accessory renal artery (aRAs) led to the sensitivity, specificity, positive and negative predictive
values of 33.3 %, 98 %, 82.8 % and 84 %, respectively. A cut‐off value of 4.85 mm for the diameter of mRA to
predict the presence of the aRAs led to the sensitivity, specificity, positive and negative predictive values of 83.3
%, 77.3 %, 50.8 % and 94.3 %, respectively.
Conclusion: Renal arteries originated from the first lumbar vertebral levels in most patients. Additional
renal arteries were quite frequent. These results should be kept in mind when a non‐invasive diagnostic search is
performed for normally renal artery.
Key words: renal artery, Multidetector Computed Tomography Angiography.
thận trên thế giới trong những năm gần đây nên
ĐẶT VẤN ĐỀ
có nhiều nghiên cứu về những bất thường hay
Việc hiểu rõ các biến thể giải phẫu của động
gặp nhất của động mạch thận ghép như nhiều
mạch thận rất quan trọng, nhất là trước khi tiến
động mạch thận, động mạch thận quá nhỏ hoặc
hành ghép thận, cắt thận bán phần, phẫu thuật
quá ngắn… Vì vậy, việc khảo sát động mạch
mở, điều trị can thiệp do hẹp hoặc phình động
thận ở người cho và nhận thận trước khi tiến
mạch chủ bụng nhằm hạn chế các tai biến trong
hành phẫu thuật là rất quan trọng. Những năm
phẫu thuật niệu khoa có thể xảy ra do biến thể
gần đây, sự phát triển vượt bậc về chẩn đoán
của động mạch thận. Bên cạnh đó, cùng với xu
hình ảnh đã hỗ trợ đắc lực cho lâm sàng; đặc
hướng phát triển vượt bậc của phẫu thuật ghép
252
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
biệt là X quang cắt lớp điện toán với thế hệ máy
nhiều dãy đầu dò đã phát triển vượt bậc nên
việc khảo sát tất cả các mạch máu trong cơ thể
rất dễ dàng, an toàn và máy đã được trang bị
rộng khắp mọi miền đất nước. Mặc khác, chụp
mạch bằng X quang cắt lớp điện toán có độ
chính xác gần giống như chụp mạch số hóa xóa
nền theo nhiều nghiên cứu(5,8,13).
Do vậy mục đích chính của đề tài này là
nghiên cứu hình ảnh giải phẫu và các biến thể
của động mạch thận ở người Việt Nam trưởng
thành từ 18 đến 50 tuổi bằng X quang cắt lớp
điện toán, với các mục tiêu sau:
Khảo sát giải phẫu: nguyên ủy, kích thước
của động mạch thận chính trên người trưởng
thành bình thường trên X quang cắt lớp điện
toán.
Khảo sát tỉ lệ xuất hiện các biến thể của động
mạch thận.
Khảo sát mối tương quan giữa độ lớn của
đường kính động mạch thận chính với sự xuất
hiện của động mạch thận phụ.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân từ 18 tuổi đến 50 tuổi đến khám
tại bệnh viện Bình Dân có chụp CT bụng tiêm
thuốc cản quang từ tháng 09/2012 đến 12/2012.
Mẫu
Lấy mẫu theo cách thuận tiện và ngẫu nhiên,
phù hợp tiêu chuẩn chọn bệnh, n = 164.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân từ 18 ‐ 50 tuổi có bệnh lý thận
mắc phải: u hệ niệu, u sau phúc mạc hoặc đã
phẫu thuật vùng sau phúc mạc, cao huyết áp
do hẹp động mạch thận, không đủ hai thận hai
bên vùng hố thận, dị tật bẩm sinh thận. Hình
ảnh CT bụng: xơ vữa đóng vôi gây hẹp lòng
mạch, túi phình, dị dạng động mạch thận. Bể
thận, niệu quản dãn to hoặc biến dạng do bất
kỳ nguyên nhân.
Chẩn Đoán Hình Ảnh
Nghiên cứu Y học
Phương tiện, kĩ thuật nghiên cứu
Máy CT 64 lát cắt hiệu Phillip tại bệnh viện
Bình Dân. Nhập dữ liệu gốc của đối tượng đã
lấy từ máy CT64 Philip vào máy chủ
(Workstation) của máy CT64 GE, sau đó dùng
phần mềm phân tích động mạch thận có sẵn của
máy GE để đo chiều dài, đường kính của các
động mạch thận. Đường kính động mạch thận
được đo tại vị trí cách nơi xuất phát từ 10mm
đến 15mm, nơi mà độ rộng của động mạch
tương đối đồng nhất(8). Nếu mỗi thận chỉ có một
động mạch thì đây là động mạch thận chính.
Nếu mỗi thận có nhiều động mạch thận thì
đường kính động mạch nào lớn nhất được xem
động mạch thận chính(8). Động mạch thận chính
chia nhánh sớm, là khoảng cách từ động mạch
chủ bụng đến chỗ chia động mạch vào rốn thận
dưới 20 mm(8,9).
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Nguyên ủy, kích thước của ĐM thận chính
Bảng 1. So sánh nguyên ủy ĐM thận chính
Nguyên ủy của
ĐM thận
Chúng tôi (%)
Özkan(5) (%)
L1
Phải
57,9
Trái
49,4
Phải
55
Trái
51
L1/L2
L2
L2/3
23,2
17,7
1,2
23,2
25,6
1,8
23
20
2
22
24
3
Như vậy, theo nghiên cứu của chúng tôi vị
trí xuất phát của động mạch thận chính từ bờ
dưới thân sống L1 trở lên chiếm đa số; tương tự
với kết quả của Özkan và y văn.
Bảng 2. So sánh các kích thước ĐM thận chính với
các tác giả
Tác giả
Chúng tôi
Võ Văn Hải(14)
Trịnh Xuân
Đàn(11)
Lê Văn
Cường(4)
Saldarriaga(10)
ĐM thận (P) (mm)
ĐKTB
CDTB
5,04
38,26
4,9
42,7
5,2
39,5
ĐM thận (T) (mm)
ĐKTB
CDTB
5,22
30,49
4,8
34,5
5,1
28,9
4,34
55
4,2
48,36
4.93
*
4,8
*
* Tác giả không đề cập
Theo khảo sát của chúng tôi, đường kính
động mạch thận phải nhỏ hơn đường kính động
253
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
mạch thận trái nhưng chiều dài động mạch thận
phải dài hơn đường kính động mạch thận trái,
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p< 0,05).
Tuy nhiên, đường kính động mạch thận
chính của chúng tôi lớn hơn tác giả Võ Văn Hải,
có thể do vị trí đo và khác biệt lớn nhất là chúng
tôi khảo sát động mạch thận trên người sống
bằng X quang cắt lớp điện toán còn tác giả đo
trên xác ướp formol. Chúng tôi đo đường kính
động mạch thận chính cách vị trí xuất phát từ 10
‐ 15mm hoặc ngay trước chỗ chia nhánh nếu
động mạch thận chính chia nhánh sớm, theo
cách đo của tác giả Ramadan(8), riêng tác giả Võ
Văn Hải(14) đo đường kính động mạch thận tại
chỗ xuất phát và ngay trước chỗ chia nhánh.
Theo cách đo của tác giả Võ Văn Hải rất hay vì
có thể tìm sự khác biệt đường kính động mạch
thận giữa hai vị trí đo nhưng vì thời gian tiến
hành nghiên cứu của chúng tôi bị giới hạn về
thời gian nên chúng tôi không theo cách đo trên.
Theo các nghiên cứu của tác giả trong nước,
đặc biệt của tác giả Lê Văn Cường(4), chúng ta dễ
dàng nhận thấy rằng các chỉ số trong nghiên cứu
nhỏ hơn nhiều so với tất cả các nghiên cứu khác.
Điều này có thể do nghiên cứu được tiến hành
trên xác ướp formol, thời gian ngâm xác lâu nên
có sự thay đổi đáng kể về độ căng bề mặt, thành
mạch co lại khá rõ và đương nhiên có sự chênh
lệch với người bình thường.
Biến thể động mạch thận
Chúng tôi khảo sát biến thể động mạch thận
ở người trưởng thành không có dị tật bẩm sinh
về thận bao gồm: động mạch thận phụ và động
mạch thận chính chia nhánh sớm.
Nhằm thuận lợi cho việc lấy thận để cấy
ghép, các nhà lâm sàng cần quan tâm đến số
lượng động mạch thận cung cấp máu cho toàn
bộ thận bao gồm động mạch thận chính và động
mạch cực thận, vì nó quyết định cho phương
pháp tái tạo mạch máu trước ghép(12). Nhiều tác
giả cho rằng sự phân nhánh “sớm” của động
mạch thận chính, đặc biệt là dưới 10 mm thì
động mạch thận chính sẽ bị chít hẹp sau khi quả
thận này được ghép(6),(7),(9).
254
Bảng 3. Tóm tắt tỉ lệ biến thể ĐM thận của tác giả
trong và ngoài nước.
Tác giả
Số quả
thận
Chúng tôi
Võ Văn Hải(14)
Trịnh Xuân Đàn (11)
Raman(9)
Piyaporn(7)
Ramadan(8)
Saldarriaga(10)
Özkan(5)
Holden(2)
328
224
108
252
130
334
390
855
200
Tỉ lệ biến thể ĐM thận (%)
1 ĐM
≥ 2 ĐM Chia sớm
78
22
9,8
76,2
23,8
*
65,8
34,2
*
81
19
18
76,9
23,1
17,6
77,2
22,8
*
74,9
25,1
8,4
76
24
14,5
77
23
12
*Tác giả không đề cập
Chúng tôi nhận thấy rằng, sự xuất hiện động
mạch thận phụ có tỉ lệ dao động từ 19% đến 34%
trong các nghiên cứu trong và ngoài nước, điều
này phù hợp với y văn, Khamanarong(3) về tỉ lệ
xuất hiện của động mạch thận phụ: Châu Phi
(37,1%), Ấn Độ (17,4%), da trắng (35,3%) và da
màu (18,5%).
Vào năm 2012, Piyaporn(7) đã khảo sát 130
quả thận của người Thái Lan bằng CTA và tỉ lệ
động mạch thận phụ 23,1% và tác giả Özkan(5)
đã nghiên cứu trên 855 bệnh nhân được chụp
mạch máu thận số hóa xóa nền (DSA) và đã báo
cáo tỉ lệ này là 24%. Khảo sát trên dân tộc Việt
Nam, kết quả của chúng tôi là 22%, tương tự với
Võ Văn Hải(14) nhưng thấp hơn Trịnh Xuân
Đàn(11), điều này có thể lý giải do khác biệt về cỡ
mẫu nghiên cứu; có thể số lượng chọn mẫu của
chúng tôi là phù hợp về mặt thống kê.
Trên cùng mẫu nghiên cứu này, chúng tôi có
tỉ lệ chia nhánh sớm của động mạch thận chính
là 9,8%, tương đương nghiên cứu của tác giả
Saldarriaga(10), nhưng kết quả của chúng tôi thấp
hơn đa số các tác giả khác: Holden(2), Özkan(5),
Piyaporn(7), Raman(9). Điều này có thể giải thích
là do sự khác biệt về chủng tộc.
Bảng 4. So sánh biến thể của ĐM thận (P)&(T) của
các tác giả.
Tác giả
Dạng biến thể ĐM thận (%)
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chúng tôi
Võ VH(14)
Trịnh XĐ (11)
Raman(9)
Piyaporn(7)
Özkan(5)
Holden(2)
Thận phải
1 ĐM ≥ 2 ĐM Chia
sớm
84,8
15,2
3,6
86,1
13,9
*
68,5
31,5
*
84
16
15
81,5
18,5
12,8
83
17
16
68
32
10
Thận trái
1 ĐM ≥ 2 ĐM Chia
sớm
71,1 28,6 15,8
83,5 16,5
*
63
37
*
78
22
21
72,3 27,7 22,4
86
14
13
86
14
14
*Tác giả không đề cập.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ đa
động mạch thận bên phải (15,2%), bên trái
(28,6%), hoàn toàn tương tự với tác giả
Raman(9), Piyaporn(7) về tỉ lệ đa động mạch
thận bên phải và trái. Tuy nhiên, tỉ lệ trên vẫn
có khác biệt so với một số nghiên cứu nhưng
điều này chỉ có thể giải thích do khác biệt cỡ
mẫu nghiên cứu và chủng tộc.
Chúng tôi khảo sát thấy tỉ lệ chia sớm của
động mạch thận chính bên phải (3,6%), thấp hơn
nhiều lần so với tác giả Raman(9), Piyaporn(7),
Özkan(5), Holden(2); và tỉ lệ chia sớm của động
mạch thận chính bên trái (15,8%) tương tự với
nghiên cứu của Özkan(5), Holden(2) và thấp hơn
Raman(9), Piyaporn(7). Những khác biệt ở trên có
thể do khác nhau về chủng tộc, số lượng mẫu
nghiên cứu, hoặc do phương tiện nghiên cứu
khác nhau như: xác ướp formol, chụp mạch
bằng X quang cắt lớp điện toán hay X quang số
hóa xóa nền...
Khảo sát mối tương quan giữa độ lớn của
đường kính động mạch thận chính với sự
xuất hiện của động mạch thận phụ.
Khảo sát có hoặc không có một động mạch
thận phụ hỗ trợ rất nhiều trong thực hành lâm
sàng thường qui và hướng dẫn những thủ
Nghiên cứu Y học
thuật can thiệp, đặc biệt là trước phẫu thuật
đối với phẫu trường nhỏ như nội soi hoặc cắt
thận nội soi sau phúc mạc, quyết định kế
hoạch phẫu thuật hệ niệu đơn giản hơn và
tránh những bất ngờ có thể xảy ra quanh vùng
phẫu thuật(6). Biến chứng chảy máu trong phẫu
thuật do động mạch thận phụ và việc bỏ sót
một động mạch thận phụ có thể gây ra nhồi
máu ở thận ghép hoặc gây cao huyết áp ở
người nhận. Bên cạnh đó, chụp mạch thận
bằng X quang cắt lớp điện toán trước khi phẫu
thuật, tình cờ phát hiện động mạch thận phụ
bị hẹp gây ra tình trạng cao huyết áp cho bệnh
nhân nhưng huyết động học của động mạch
thận chính trên siêu âm lại bình thường(13).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ động
mạch thận phụ là 22%, tương đương với các
kết quả nghiên cứu trên nhiều phương pháp
khảo sát như: trên xác ướp của tác giả Võ Văn
Hải(14) (23,8%), chụp động mạch số hóa xóa nền
của Özkan(5) (24%) và chụp động mạch thận
bằng CTA trong các nghiên cứu của
Ramadan(8) (22,8%), Piyaporn(7) (23,1%),
Holden(2) (23%). Do đó, chúng tôi nhận thấy
rằng kết quả chụp mạch bằng X quang cắt lớp
điện toán gần giống với chụp mạch số hóa xóa
nền phù hợp với nhiều nghiên cứu trên thế
giới (9,13).
Chúng tôi nhận thấy rằng, đường kính
động mạch thận chính nhỏ hơn khi có động
mạch thận phụ, tương đồng với báo cáo của
Ramadan(8) và Aytac(1), đã đặt ra câu hỏi là tại
các điểm cắt của đường kính động mạch thận
chính có thể quyết định sự xuất hiện của động
mạch thận phụ hay không?
Bảng 5. So sánh độ nhạy và độ đặc hiệu của chúng tôi với tác giả Ramadan(8) và Aytac (1)
Điểm cắt
(mm)
4,85
4,65
4,15
Chúng tôi
83,3
45,8
33,3
Độ nhạy (%)
Ramadan
54
48
26
Aytac
93
80
53,3
Chúng tôi
77,3
94,5
98
Độ đặc hiệu (%)
Ramadan
87
91
99
Aytac
64,6
80,5
98,8
Nếu tại điểm cắt đường kính của động
thấp nhất (33,3%), độ đặc hiệu cao nhất (98%),
mạch thận chính là d= 4,15 mm thì độ nhạy
giá trị tiên đoán dương (82,8%), tiên đoán âm
Chẩn Đoán Hình Ảnh
255
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
(84%), điều này cho thấy rằng khả năng xuất
hiện của động mạch thận phụ với độ chính xác
là 82,8% khi đường kính động mạch thận
chính ≤ 4,15 mm và không có động mạch thận
phụ với độ chính xác là 84 % khi đường kính
động mạch thận chính ≥ 4,15 mm.
Bảng 7. So sánh giá trị tiên đoán dương, tiên đoán
âm của chúng tôi với tác giả Ramadan(8)
Điểm cắt
(mm)
4,85
4,65
4,15
Giá trị tiên đoán
Giá trị tiên đoán âm
dương
Chúng tôi Ramadan Chúng tôi Ramadan
50,8
58
94,3
85
70,2
64
86,1
84
82,8
90
84
80
Điểm cắt tốt nhất giữa các nhóm bệnh nhân
sử dụng DSA& MDCT(1), những nghiên cứu đã
cho thấy rằng khả năng có một động mạch thận
phụ cao khi đường kính động mạch thận chính
≤ 4,15 mm, thông tin này rất quan trọng trong
nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả
Ramadan(8) và Aytac(1) nhằm hỗ trợ cho thực
hành lâm sàng.
Nghiên cứu của chúng tôi không phối hợp
nhiều phương tiện khảo sát hình ảnh khác như
chụp mạch số hóa xóa nền, cộng hưởng từ, tuy
nhiên X quang cắt lớp điện toán nhiều dãy đầu
thu thu nhận dữ liệu đẳng trường nên cho hình
ảnh gần giống với tình trạng thực. Theo y văn,
độ chính xác của MDCT gần bằng với DSA và tỉ
lệ xuất hiện động mạch thận phụ tương tự nhiều
nghiên cứu(1,8). Những thông tin thu được về có
hoặc không có động mạch thận phụ sử dụng
gián tiếp mô tả ở trên không thể loại trừ yêu cầu
quy tắc chụp mạch bằng X quang cắt lớp điện
toán hoặc cộng hưởng từ để đánh giá động
mạch trước khi phẫu thuật.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát 164 cặp thận ở người trưởng
thành Việt Nam, tương ứng với 328 quả thận
của 79 nam (48,1%), 85 nữ (51,9%), có độ tuổi từ
18 đến 50, chúng tôi đưa ra kết luận sau:
Nguyên ủy của động mạch thận chính đa số
xuất phát từ ngang mức thân sống L1 trở lên
256
chiếm tỉ lệ cao nhất, bên phải là 57,9 %, bên trái
là 49,4%. Chiều dài của động mạch thận chính
bên phải (38,26 ± 11 mm) luôn luôn dài hơn so
với bên trái (30,49 ± 9,75 mm). Đường kính của
động mạch thận chính bên phải (5,04 ± 0,52 mm)
nhỏ hơn so với bên trái (5,22 ± 0,83 mm).
Các biến thể động mạch thận: tỉ lệ chia
nhánh sớm của động mạch thận chính là 9,8%,
bên trái (15,8%) và bên phải (3,8%); tỉ lệ xuất
hiện động mạch thận phụ là 22%, bên trái
(27,4%) và bên phải (15,2%).
Nếu đường kính động mạch thận chính là
4,15 mm thì khả năng xuất hiện động mạch
thận phụ có độ đặc hiệu cao nhất (98%) và giá
trị tiên đoán dương cao nhất (82,8%), giá trị
tiên đoán âm cũng khá cao (84%). Nếu đường
kính động mạch thận chính là 4,85 mm thì khả
năng xuất hiện động mạch thận phụ có độ
nhạy cao nhất (83,3%), độ đặc hiệu (77,3%) và
giá trị tiên đoán dương (50,8%), giá trị tiên
đoán âm cao nhất (94,3 %).
KIẾN NGHỊ
Với kết quả nghiên cứu này, bước đầu đã
cho ra được những chỉ số về kích thước động
mạch thận. Theo số lượng chọn mẫu của chúng
tôi có lẽ đã đạt về mặt ý nghĩa thống kê so với
nhiều tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, số
lượng mẫu vẫn còn hạn chế so với dân số Việt
Nam. Vì thế, để có thể áp dụng cho toàn thể
người Việt Nam ta cần có những bước nghiên
cứu tiếp theo: mở rộng mẫu nghiên cứu, chọn
mẫu ngẫu nhiên theo cụm để mang tính đại
diện hơn và cần kết hợp với các chỉ số chiều cao,
cân nặng của đối tượng nghiên cứu để tìm sự
tương quan giữa các yếu tố này với kích thước
động mạch thận.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ khảo sát
biến thể động mạch thận, chúng tôi đề nghị
nghiên cứu mới khảo sát biến thể tĩnh mạch
thận và nghiên cứu về động mạch thận trên
người có các dị tật bẩm sinh thận: như thận
móng ngựa, thận đơn độc, thận lạc chỗ…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Aytac SK, and et al (2003), ʺCorrelation Between the Diameter
of the Main Renal Artery and the Presence of an Accessory
Renal Arteryʺ, J. Ultrasound Med., (17), p. 433‐439.
Holden A, Dukes P, and et al (2005), ʺAssessment of 100 live
potential renal donors for laparoscopic nephrectomy with
multi‐detector row helical CTʺ, Radiographics, p. 973‐ 980.
Khamanarong K, Utraravichien A, and et al (2004), ʺAnatomy
of renal arterial supplyʺ, Clin. Anat., (17), p. 34‐336.
Lê Văn Cường (1991), Các dạng và dị dạng của động mạch ở
người Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Y học, , tr. 123‐ 127.
Özkan U, Tercan F, and et al (2006), ʺRenal artery origins and
variations: angiographic evaluation of 855 consecutive
patientsʺ, Diagn Interv Radiol, (12), p. 183‐186.
Pierce M (2013), ʺCT angiography of living renal
transplantation donorsʺ, Radiology, (16), p. 1‐ 7.
Piyaporn A, and et al (2012), ʺRenal vascular variants in
living related renal donors: evaluation with CT
angiographyʺ, J Med Assoc Thai, (7), p. 941‐948.
Ramadan SU, Gökharman D, and et al (2010), ʺCan renal
dimensions and the main renal artery diameter indicate the
presence of an accessory renal artery? A 64 slice CT studyʺ,
Diagnostic and Interventional Radiology, (17), p. 266‐ 271.
Raman SS, Schulam PG, and et al (2007), ʺSurgically relevant
normal and variant renal parenchymal and vascular anatomy
in preoperative 16‐MDCT evaluation of potential
laparoscopic renal donorsʺ, AJR, (188), p. 105‐114.
Chẩn Đoán Hình Ảnh
10.
Nghiên cứu Y học
Saldarriaga B, and et al (2008), ʺMorphological expression of
the renal artery. A direct anatomical study in a Colombian
half‐caste populationʺ, Int. J. Morphol, (26), p. 31‐38.
Trịnh Xuân Đàn (1999), Nghiên cứu giải phẫu hệ thống bể đài
thận và mạch máu, thần kinh thận của người Việt Nam trưởng
thành, Luận án tiến sĩ Y học, tr. 39‐ 76.
Nguyễn Trường Giang, Hoàng Mạnh An, Lê Trung Hải
(2012), ʺNhận xét một số bất thường về mạch máu thận ghép
qua 98 trường hợp tại Bệnh viện 103 QĐNDʺ, Y học thực hành
TP. Hồ Chí Minh, 16, tr. 17‐ 19.
Urban BA, Fishman EK, and et al (2001), ʺThree‐ dimensional
volume‐ rendered CT angiography of the renal arteries and
veins: normal anatomy, variants, and clinical applicationsʺ,
Radiographics, (21), p. 373‐386.
Võ Văn Hải (2012), Đặc điểm giải phẫu động mạch thận ở người
bình thường và người có bệnh lý khúc nối bể thận niệu quản, Luận
án Tiến Sĩ y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
11.
12.
13.
14.
Ngày nhận bài báo:
22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
25/11/2013
Ngày bài báo được đăng :
05/01/2014
257