1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lượng dạy học
môn Toán nói riêng đang là một yêu cầu cấp bách đối với ngành Giáo dục
nước ta hiện nay. Một trong những khâu then chốt để thực hiện yêu cầu
này là đổi mới nội dung và phương pháp dạy học. Định hướng đổi mới
phương pháp dạy học đã được chỉ rõ trong các văn bản có tính chất pháp
quy của Nhà nước và ngành Giáo dục nước ta. Có thể dẫn ra một vài văn
bản đã được ban hành trong những năm qua như sau:
Luật Giáo dục (1998) quy định: “…Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo cho học sinh;
phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn…”.
Dự thảo chương trình (1989) môn Toán nêu rõ: “...Góp phần phát
triển năng lực trí tuệ, tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng không gian, tư
duy biện chứng, tư duy hàm…; đồng thời rèn luyện các phẩm chất của tư
duy linh hoạt, độc lập, sáng tạo…”.
Tuy nhận thức rõ được tầm quan trọng và định hướng đổi mới
phương pháp đã được nêu ra ở trên nhưng thực tế dạy học hiện nay vẫn
còn chịu ảnh hưởng nhiều của quan niệm và phương pháp dạy học xưa cũ.
Nhận định về vấn đề này đã có không ít nhà nghiên cứu đưa ra những ý
kiến, đặt ra nhiều vấn đề cho ngành Giáo dục và mỗi giáo viên suy nghĩ,
tháo gỡ. Sau đây là một số ý kiến như vậy:
Ý kiến của GS. Hoàng Tụy: "Ta còn chuộng cách dạy nhồi nhét,
luyện trí nhớ dạy mẹo vặt để giải những bài toán oái ăm, giả tạo; chẳng
2
giúp gì mấy để phát triển trí tuệ mà làm cho học sinh thêm xa rời thực tế,
mỏi mệt và chán chường".
Ý kiến của GS. Nguyễn Cảnh Toàn: “Kiến thức, tư duy, tính cách
con người chính là mục tiêu của giáo dục. Thế nhưng, hiện nay trong nhà
trường tư duy và tính cách bị chìm đi trong kiến thức".
1.2. Kiến thức và kỹ năng là hai mặt gắn bó hữu cơ trong mỗi nội
dung dạy học. Không thể nói đến vấn đề rèn luyện kỹ năng thực hiện một
loại hoạt động nào đó nếu không chú ý trang bị kiến thức về lĩnh vực đó
một cách vững chắc. Ngược lại, việc rèn luyện kỹ năng thực hiện các hoạt
động trong mỗi lĩnh vực có tác dụng củng cố và mở rộng kiến thức, giúp
cho người học tìm thấy những tác dụng to lớn của kiến thức học được
trong việc giải quyết các tình huống trong thực tiễn và trong khoa học.
Chủ đề phương trình và bất phương trình có vị trí quan trọng trong
chương trình môn Toán THPT. Kiến thức và kỹ năng về chủ đề này có mặt
xuyên suốt từ đầu cấp đến cuối cấp. Những kiến thức về phương trình và
bất phương trình còn là chìa khoá để giải quyết nhiều vấn đề thuộc hầu
hết các chủ đề kiến thức về Đại số, Giải tích và Hình học, đặc biệt là
Hình học giải tích. Vì vậy bên cạnh việc giảng dạy các kiến thức lý thuyết
về chủ đề phương trình, bất phương trình một cách đầy đủ theo quy định
của chương trình, việc rèn luyện kỹ năng giải phương trình và bất phương
trình cho học sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
dạy học nhiều nội dung môn Toán ở trường THPT.
Kiến thức hàm số có vai trò quan trọng trong toàn bộ chương trình
môn Toán phổ thông. Điều này được khẳng định không chỉ ở nước ta mà
còn được đề cập đến trong nhiều ý kiến của các nhà khoa học nước ngoài.
Ta có thể thấy được điều này qua các ý kiến được trích từ [16] sau đây:
Ý kiến của Kơlanh khi khởi xướng phong trào cải cách việc dạy
học Toán ở trường phổ thông đầu thế kỷ XX đã đề nghị: Đưa cái mới vào
3
giáo trình toán phổ thông, lấy tư tưởng hàm số và biến hình làm tư tưởng
quan trọng nhất.
Kiến nghị của Hội nghị Quốc tế về giáo dục quốc dân
họp tại Giơnevơ (tháng 7 năm 1956) gửi các vị Bộ trưởng Giáo dục các nước
nêu rõ: Nên xây dựng chương trình sao cho việc dạy Toán dựa trên các cơ sở
hàm số ...
Ý kiến của GS. Papy tại Hội nghị Quốc tế các nhà toán học họp tại
Matxcơva (tháng 8 năm 1966) đề nghị: Chương trình toán Trung học (cấp II
và II) phải bao gồm: Tập hợp, Quan hệ, Đồ thị, Nhóm, Không gian vectơ,
Các yếu tố của phép tính vi phân và tích phân.
ở Việt Nam, chương trình môn Toán trong cải cách giáo dục và các
chương trình đổi mới trong những năm gần đây đều chú trọng đến kiến thức
hàm số. Trong [24], GS. Nguyễn Bá Kim đã cho rằng "Đảm bảo vị trí trung
tâm của khái niệm hàm số" là một trong "những tư tưởng cơ bản" của
chương trình môn Toán bậc THPT. Khi phân tích tư tưởng cơ bản này tác giả
đã nhấn mạnh:
Nghiên cứu hàm số được coi là nhiệm vụ xuyên suốt chương trình
bậc Phổ thông Trung học;
Phần lớn chương trình Đại số và Giải tích dành cho việc trực tiếp
nghiên cứu hàm số và công cụ khảo sát hàm số;
Cấp số cộng và cấp số nhân được nghiên cứu như những hàm số
đối số tự nhiên;
Lượng giác chủ yếu nghiên cứu những hàm số lượng giác còn phần
công thức được giảm nhẹ;
Phương trình và bất phương trình được trình bày liên hệ chặt chẽ
với hàm số.
1.3. Gắn bó chặt chẽ với tư tưởng hàm số, tư tưởng biến hình, tư
tưởng về sự tương ứng đơn trị giữa các tập hợp, các sự vật và hiện tượng
là vấn đề tư duy hàm. Những đặc trưng về tư duy hàm được các tác giả
4
Nguyễn Bá Kim, Đinh Nho Chương, Nguyễn Mạnh Cảng, Vũ Dương
Thuỵ, Nguyễn Văn Thường chỉ ra trong [25]. Phát triển tư duy hàm có ý
nghĩa quan trọng trong dạy học toán, nó vừa là yêu cầu của việc dạy học
môn Toán, vừa là điều kiện để nâng cao chất lượng dạy học nhiều tuyến
kiến thức môn Toán. Việc dạy học các kiến thức môn Toán được trình bày
theo tư tưởng hàm số có tác dụng tốt trong việc phát triển tư duy hàm cho
học sinh đồng thời có thể rèn luyện nhiều kỹ năng giải toán và ứng dụng
kiến thức toán cho học sinh trong sự kết hợp phát triển tư duy hàm.
1.4. Có một số công trình nghiên cứu các biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học nội dung Phương trình, bất phương trình. Nhiều công trình
nghiên cứu về phát triển tư duy hàm cho học sinh thông qua dạy học các
chủ đề kiến thức cụ thể. Dựa trên những kết quả nghiên cứu đó, chúng tôi
tập trung xét vấn đề rèn luyện kỹ năng giải toán phương trình cho học sinh
trong sự phối hợp hữu cơ với vấn đề phát triển tư duy hàm.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài của luận văn là: “Phối hợp rèn luyện
kỹ năng giải toán phương trình với phát triển tư duy hàm cho học
sinh THPT trong dạy học Đại số và Giải tích ".
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xác định mối quan hệ tương hỗ giữa việc rèn luyện kỹ năng giải
phương trình, bất phương trình với việc phát triển tư duy hàm cho học sinh
trong dạy học Đại số và Giải tích nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy
học môn Toán ở trường THPT.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về kỹ năng và quan điểm rèn
luyện kỹ năng toán học cho học sinh.
3.2. Hệ thống hoá các kỹ năng giải toán phương trình, bất phương
trình cần rèn luyện cho học sinh THPT.
5
3.3. Hệ thống hoá các thành tố của tư duy hàm và quan điểm phát
triển tư duy hàm cho học sinh trong dạy học toán.
3.4. Đề xuất quan điểm rèn luyện các kỹ năng giải toán phương
trình, bất phương trình trong sự phối hợp với việc phát triển tư duy hàm
cho học sinh THPT thông qua dạy học Đại số và Giải tích.
3.5. Thực nghiệm sư phạm, kiểm tra tính khả thi và hiệu quả áp
dụng.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Trên cơ sở dạy học đúng chương trình quy định, áp dụng các phương
pháp dạy học và sử dụng các phương tiện hiện có, nếu trong quá trình dạy
học giáo viên quan tâm phối hợp giữa việc rèn luyện kỹ năng giải toán với
việc phát triển tư duy hàm cho học sinh thì chất lượng dạy học môn Toán
(thể hiện qua khả năng giải toán phương trình, bất phương trình của học
sinh) được cải thiện.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các vấn đề về Tâm lý học, Giáo
dục học, Lý luận dạy học, Toán học, Triết học, Thống kê trong giáo dục ...
có liên quan đến đề tài.
5.2. Nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, Điều tra ...
5.3. Thực nghiệm sư phạm.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
6.1. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
6.2. Đề xuất một số quan điểm phối hợp rèn luyện kỹ năng giải toán
phương trình với phát triển tư duy hàm.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương:
6
Chương 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
1.1. Một số đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học
1.1.1. Một số đổi mới về nội dung
1.1.2. Đổi mới về phương pháp dạy học
1.2. Kỹ năng và vấn đề rèn luyện kỹ năng toán học cho học sinh
1.2.1. Khái niệm kỹ năng
1.2.2. Vấn đề rèn luyện kỹ năng toán học cho học sinh
1.3. Tư duy hàm và vấn đề phát triển tư duy hàm cho học sinh
1.3.1. Tư duy hàm
1.3.2. Vấn đề phát triển tư duy hàm thông qua dạy học phương trình
1.4. Kết luận chương 1
Chương 2: Phối hợp rèn luyện kỹ năng giải toán phương trình với
phát triển tư duy hàm cho học sinh THPT
2.1. Phân tích nội dung chủ đề Phương trình trong môn Toán THPT
2.1.1. Về chủ đề phương trình, bất phương trình
2.1.2. Các kỹ năng cần rèn cho học sinh khi giải toán phương trình
2.2. Rèn kỹ năng giải toán phương trình dựa vào các tư tưởng chủ đạo của
tư duy hàm
2.2.1. Rèn kỹ năng vận dụng các dạng phương trình mẫu
2.2.2. Rèn kỹ năng biến đổi phương trình
2.2.3. Rèn kỹ năng giải phương trình thông qua đánh giá giá trị các
biểu thức thành phần
2.2.4. Rèn kỹ năng chuyển đổi ngôn ngữ, cách phát biểu bài toán
2.2.5. Rèn kỹ năng giải phương trình thông qua xét sự biến thiên của
hàm số
2.3. Phát triển tư duy hàm cho học sinh thông qua giải toán phương trình
7
2.3.1. Tìm miền xác định của tương ứng hàm thông qua giải toán
phương trình, bất phương trình
2.3.2. Tìm giá trị vào, giá trị ra của một tương ứng thông qua giải
toán phương trình
2.3.3. Xét tính chất của tương ứng hàm thông qua giải toán phương
trình, bất phương trình
2.3.4. Định hướng sử dụng phương trình, bất phương trình trong quá
trình lợi dụng tương ứng hàm để giải quyết vấn đề.
2.4. Kết luận chương 2
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích thực nghiệm
3.2. Tổ chức và nội dung thực nghiệm
3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm
3.4. Kết luận chung về thực nghiệm
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. MỘT SỐ ĐỔI MỚI VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1.1.1. Một số đổi mới về nội dung
Chương trình sách giáo khoa (SGK) mới hiện nay đã có những thay
đổi về nội dung và cách trình bày như:
Đưa thêm vào một số nội dung Toán học cho hoàn chỉnh chương
trình THPT, như Số phức, Thống kê, Tổ hợp, Xác suất… Sắp xếp nội dung
chương trình theo hệ thống để dễ dạy, dễ học hơn như phần toạ độ trong
8
mặt phẳng ở chương trình lớp 12 được đưa vào cuối lớp 10 giảm nhẹ phần
các đường cônic. Đồng thời nhấn mạnh liên hệ giữa các phần khác nhau của
chương trình Toán ở các cấp, các lớp, giữa các môn học. Chẳng hạn đưa
phần Đạo hàm xuống lớp 11 để giúp kịp thời cho dạy và học môn Vật lý ở
đầu lớp 12.
Cách viết SGK như từ trước đến nay còn mang tính hàn lâm: Thông
báo kiến thức, trình bày các vấn đề quá lôgíc chặt chẽ; đưa ra nhiều các bài
toán khó nên còn thiếu tính sư phạm. SGK chưa thể hiện được phương
pháp dạy học tích cực. Theo cách viết SGK và cách giảng dạy cũ, SGK chỉ
đơn thuần là một tài liệu khoa học dùng cho giáo viên, nội dung các tiết
dạy thường được viết cô đọng, đầu tiên là nêu định nghĩa của một khái
niệm mới, sau đó là các tính chất và chứng minh, rồi các định lý và chứng
minh, cuối cùng là các ví dụ và các bài toán. Theo định hướng đổi mới,
SGK phải trình bày và hướng dẫn như thế nào đó để cho nếu không có
thầy giáo, học sinh cũng có thể tự học được, cố nhiên là khó khăn và vất
vả hơn.
SGK mới nêu nhiều câu hỏi, đề ra nhiều hoạt động tại lớp mà giáo
viên có thể thay đổi cho thích hợp để phát huy tính tích cực học tập của
học sinh, học sinh được suy nghĩ và hoạt động nhiều hơn. Nhiều câu hỏi
đặt ra nhằm giúp học sinh nhớ lại một kiến thức nào đó hoặc để gợi ý,
hoặc để định hướng cho những suy nghĩ của họ… Các câu hỏi này nói
chung là dễ, vì thế không đưa ra câu trả lời trong SGK.
SGK theo tinh thần mới tinh giảm những nội dung phức tạp, giảm
bớt những suy luận quá hình thức, quá trừu tượng, giảm nhẹ phần lý
thuyết, chủ yếu là giảm nhẹ các chứng minh của các tính chất hoặc định
lý. Một số tính chất quá hiển nhiên không nêu ra, các định lý chứng minh
quá phức tạp thì chỉ nêu những trường hợp cụ thể để kiểm chứng mà
không cần phải chứng minh.
9
SGK theo tinh thần mới tăng cường những nội dung thực tiễn, thiết
thực, những điều gần gũi với cuộc sống của học sinh trong trường hợp có
thể. Chẳng hạn, trong phần véctơ, có thể đưa thêm những ứng dụng trong
Vật lý: Tổng hợp lực, phân tích lực…
Ngoài ra, SGK mới còn đưa thêm các phần như: Có thể em chưa biết,
em có biết, bài đọc thêm, để nói thêm những chi tiết hay, thú vị gây hứng
thú học tập cho học sinh.
SGK mới đã chỉ ra các hoạt động tại từng thời điểm để thầy, trò
xem xét và giải quyết. Nh ững ho ạt động này rất đa dạng, có thể là ôn
lại kiến thức cũ, đặt vấn đề cho kiến thức m ới, qua các ví dụ cụ thể
gợi ý phươ ng pháp giải quyết v ấn đề hay bài toán đặt ra, thực hành áp
dụng trực tiếp các công thức nêu trong lý thuyết. Cách thức thực hi ện
các hoạt động này cũng rất đa dạng: Có thể thầy làm hoặc cho học sinh
thực hiện, hoặc nêu thành vấn đề để cả lớp cùng thảo luận tìm cách
giải quyết.
Tóm lại so với sách giáo khoa cũ thì sách giáo khoa lần này không
phải thay đổi nhiều về nội dung mà chủ yếu thay đổi cách trình bày để học
sinh học tập một cách tích cực hơn.
Những sự thay đổi trên của sách giáo khoa hiện nay đã tạo điều
kiện để học sinh học tập một cách tích cực hơn, từ đó giáo viên có thể
phối hợp rèn luyện kỹ năng với việc phát triển tư duy hàm cho học sinh
qua dạy học Toán nói chung và dạy học chủ đề phương trình nói riêng.
1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học
Thực tế dạy học Toán lâu nay cho thấy, chúng ta chỉ coi trọng đến
mục đích truyền thụ tri thức, thường thì giáo viên đưa ra các định lý, tính
chất rồi giải thích cho học sinh thông hiểu chứng minh, vận dụng định lý,
tính chất. Phương pháp dạy học được sử dụng phổ biến trong nhà trường
là phương pháp thuyết trình tràn lan, thầy truyền đạt kiến thức áp đặt,
10
dưới dạng có sẵn, ít yếu tố tìm tòi phát hiện, trò tiếp thu thụ động. Đa số
giáo viên chỉ nghĩ đến việc dạy đúng, dạy đủ, dạy nội dung gì chứ chưa
nghĩ đến cách dạy như thế nào? Phần lớn khi giảng dạy họ coi mọi đối
tượng học sinh là như nhau nên giảng cùng một nội dung, cùng một
phương pháp và tự cho là hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra kiểu đánh giá và
thi cử đã ảnh hưởng rõ rệt tới phương pháp giảng dạy, đánh giá và thi cử
như thế nào thì sẽ có lối dạy tương ứng đối phó như thế ấy, dạy và học
theo kiểu "Thi gì học nấy".
Về thực trạng này, nhà toán học Nguyễn Cảnh Toàn đã nhận định:
“Cách dạy phổ biến hiện nay là thầy đưa ra kiến thức (khái niệm, định lý)
rồi giải thích, chứng minh, trò cố gắng tiếp thu nội dung khái niệm, nội
dung định lý, hiểu chứng minh định lý, cố gắng tập vận dụng các công thức
định lý để tính toán, chứng minh…”.
GS. Hoàng Tụy phát biểu: “Ta còn chuộng cách dạy nhồi nhét, luyện
trí nhớ, dạy mẹo vặt để giải các bài toán oái oăm, giả tạo, chẳng giúp gì
mấy đến việc phát triển trí tuệ mà làm cho học sinh thêm xa rời thực tế,
mệt mỏi và chán nản …".
Tóm lại, với kiểu dạy học như vậy tạo thói quen "Thầy giảng Trò
ghi", thầy truyền thụ kiến thức còn trò thụ động tiếp thu kiến thức, điều
thầy nói được coi là tuyệt đối đúng, những gì thầy giảng thường không có
sự tranh luận giữa thầy và trò, không có sự phản hồi, thông tin ngược từ
phía học sinh trong bài giảng. Kiểu giảng dạy "một chiều" như vậy làm
giảm hiệu suất tiếp thu kiến thức cũng như hoạt động tự giác, tích cực,
sáng tạo của học sinh; không kiểm soát được việc học. Do đó việc đổi mới
phương pháp dạy học được xác định là một trong những nội dung chủ yếu
trong đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.
Quan điểm đổi mới phương pháp dạy học bao gồm sự đổi mới trên
các phương diện: cách dạy, cách học, cách tổ chức và cách kiểm tra đánh
11
giá. Cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập tích
cực, chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Chuyển từ dạy học
lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm, làm
cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn trong một tiết học.
Thay vì lối dạy truyền thống truyền thụ một chiều, thuyết trình, giảng giải
các kiến thức sẵn có, giáo viên cần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo, tự học, kỹ năng vận dụng vào thực tiễn, phù hợp với đặc
điểm từng học sinh; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, tạo được sự
hứng thú học tập cho học sinh, tận dụng được công nghệ mới nhất áp
dụng trong dạy và học.
Dạy học theo quan điểm mới giáo viên không chỉ đơn giản cung cấp
kiến thức mà còn phải thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động để
học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức
và chỉ đạo. Từ đó tự lực khám phá kiến thức mình chưa biết chứ không
phải tiếp thu thụ động những kiến thức sẵn có. Giáo viên cần cài đặt
những tình huống thực tế để học sinh trực tiếp quan sát, làm thí nghiệm,
thảo luận, giải quyết theo cách riêng của bản thân, từ đó học sinh lĩnh hội
được kiến thức mới.
Như vậy, chức năng và vai trò của giáo dục ngày nay đã được
"chuyển sang vai trò nhà tổ chức giáo dục", phương pháp dạy học mới đã
chú trọng đến việc phát huy tối đa tính tích cực, độc lập của học sinh, đề
cao phương pháp tự học, "chuyển quá trình giáo dục sang quá trình tự giáo
dục". Xóa bỏ cách học cũ không kích thích được học sinh suy nghĩ, tìm tòi,
rèn luyện trí thông minh, chuyển đổi chức năng từ thông báo, tái hiện sang
tìm tòi. "Để phát huy tối đa tính tích cực học tập của học sinh, tốt nhất là
tổ chức tốt những tình huống có vấn đề, đòi hỏi dự đoán, nêu giả thuyết,
tranh luận giữa những ý kiến trái ngược" (Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên
2006).
12
Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ đổi mới cách dạy, cách
học, cách tổ chức hoạt động mà còn đổi mới cả cách kiểm tra đánh giá.
Nội dung kiểm tra, đánh giá phải toàn diện, bao gồm cả kiến thức, kỹ năng
và phương pháp có trong chương trình học, khắc phục tình trạng "học tủ"
đối phó với thi cử, ra đề kiểm tra nặng về tính toán, mẹo vặt như trước
đây.
Việc đổi mới phương pháp dạy học dựa trên những thành tựu của
Tâm lý học hiện đại, Lý luận dạy học cho rằng, nhân cách của học sinh
được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động chủ động, có ý thức.
Do đó để đạt được mục đích dạy học thì cần phải đặt học sinh vào vị trí
của chủ thể hoạt động trong quá trình dạy học, thông qua hoạt động tích
cực của bản thân mà nắm được kiến thức mới, kỹ năng mới đồng thời
nắm được phương pháp "làm ra" những kiến thức, kỹ năng đó, không theo
những khuôn mẫu có sẵn, bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Qua hoạt
động học sinh không những chiếm lĩnh được kiến thức mới mà còn hình
thành và phát triển năng lực.
Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng đổi mới phương pháp dạy học không
có nghĩa là gạt bỏ, phủ nhận hoàn toàn các phương pháp truyền thống
mà cần kế thừa, phát triển các mặt tích cực của hệ thống phương pháp
dạy học quen thuộc, đồng thời cần học hỏi, vận dụng một số phương
pháp mới, theo quan điểm đổi mới phù hợp với điều kiện dạy và học ở
từng vùng, từng miền ở nước ta.
1.2. KỸ NĂNG VÀ VẤN ĐỀ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TOÁN
HỌC CHO HỌC SINH
1.2.1. Khái niệm kỹ năng
Theo Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm thì: “Kỹ năng là khả
năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp…) để giải quyết
một nhiệm vụ mới” [19, tr.131].
13
Còn Tâm lý học đại cương cho rằng: “Kỹ năng là năng lực sử dụng
các dữ liệu, các tri thức hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để
phát hiện những thuộc tính bản chất của sự vật và giải quyết thành công
những nhiệm vụ lý luận hay thực hành xác định”[31, tr.149].
Theo từ điển Tiếng Việt khẳng định: "Kỹ năng là khả năng vận dụng những
kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế"[44, tr. 426].
Tóm lại, kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết
nhiệm vụ mới. Trong thực tế dạy học, học sinh thường gặp khó khăn khi
vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp...) vào giải quyết
các bài tập cụ thể. Học sinh thường khó tách ra những chi tiết thứ yếu,
không bản chất ra khỏi đối tượng nhận thức, không phát hiện những thuộc
tính, mối quan hệ vốn có giữa kiến thức và đối tượng. Sở dĩ như vậy là do
kiến thức không chắc chắn, khái niệm trở nên chết cứng, không gắn liền
cơ sở của kỹ năng.
Một sự vật có thể có nhiều thuộc tính bản chất khác nhau, những
thuộc tính bản chất về các mặt phù hợp với những hoạt động, mục đích
nhất định. Do đó cần lựa chọn những thuộc tính phù hợp với mục tiêu đặt
ra trước hành động, để hành động biến đổi đối tượng đạt mục tiêu (tất
nhiên mục tiêu đặt ra thu được thông tin mới). Sự dễ dàng hay khó khăn khi
vận dụng kiến thức (hình thành kỹ năng) tùy thuộc vào khả năng nhận
dạng kiểu bài toán, phát hiện, nhìn thấy trong các dữ liệu đã cho của bài
toán, có những thuộc tính và những quan hệ là bản chất để thực hiện giải
bài toán đã cho.
Theo các nhà Tâm lý học sự hình thành kỹ năng chịu ảnh hưởng của
các yếu tố sau:
Nội dung của bài toán đặt ra, được tách ra một cách rõ ràng hay che đậy
quan hệ bản chất của bài toán bởi các dữ liệu xuất phát, làm lệch hướng tư duy.
Ví dụ 1: Giải phương trình:
14
1
1
9
3
1
+ cos4x − cos2x +
+ cos4x − cos2x =
16
2
16
2
2
Mới nhìn dễ gây cho học sinh tâm lý hoảng sợ vì nghĩ là phương
trình vô tỉ lượng giác nhưng chịu khó suy nghĩ, xem xét các biểu thức dưới
dấu căn, xét thấy các biểu thức dưới căn là các bình phương đúng:
2
1
1
1�
�
+ cos4x − cos2x = �
cosx − �
16
2
4�
�
2
9
3
3�
�
+ cos4x − cos2x = �
cosx − �
16
2
4�
�
Như vậy, tính chất vô tỉ trong bài toán chỉ là cái áo ngụy trang, bởi vì
A = A 2 , phương trình đã cho có dạng: cos x −
2
1
3 1
+ cos2x + = . Việc
4
4 2
lột bỏ hình thức bề ngoài của bài toán, phát hiện ra mối quan hệ bản chất
ẩn chứa trong bài toán, giúp học sinh xác định đúng bản chất của bài toán.
Để phát hiện ra mối quan hệ bản chất chứa trong bài toán, học sinh
chỉ nhìn thấy, phân tích những yếu tố riêng biệt của bài toán mà cần thâu
tóm toàn bộ những yếu tố có mặt trong bài toán.
Ví dụ 2: Giải phương trình:
(
)
x
(
)
x
(
26 + 15 3 + 2 7 + 4 3 − 2 2 − 2 3
)
x
=1
Cần phải quan sát, phân tích tất cả các số hạng có mặt trong phương
trình, từ đó mới phát hiện được mối quan hệ bản chất có mặt trong bài toán
đó là:
15
( 7 + 4 3) = ( 2 + 3)
( 26 + 15 3 ) = ( 2 + 3 )
( 2 − 3) = 1
( 2 + 3)
x
2x
x
3x
x
x
Khả năng khái quát, mở rộng ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình
thành kỹ năng. Tâm lý và thói quen tâm lý cũng là một yếu tố ảnh hưởng
đến sự hình thành kỹ năng. Khi học sinh hăng say, hứng thú trong học tập
sẽ giúp họ dễ dàng hình thành kỹ năng, còn ngược lại sẽ cản trở việc học
tập. Thói quen tâm lý là một trở ngại thường gặp trong học tập. Nguyên
nhân chủ yếu hình thành thói quen tâm lý đó là tư duy của con người có tính
phương hướng. Một loại kiến thức hoặc phương pháp cũ nào đó dùng
nhiều lần, ấn tượng sâu làm cho học sinh không bứt ra khỏi sự ràng buộc
của thói quen tư duy cũ để mở ra một hướng suy nghĩ mới.
Ngoài ra, một nguyên nhân nữa hình thành thói quen tâm lý đó là nhận
thức chỉ dừng lại ở bề mặt, không quan sát phân tích đặc điểm của từng
bài toán cụ thể.
Ví dụ 3: Giải phương trình:
2 ( 2x − 1) − x +
2
1
=0
2
Nếu chỉ quan sát trên bề mặt thông thường học sinh sẽ chỉ nghĩ đến
việc khai triển rồi đơn giản đưa ra phương trình bậc hai:
(
)
4 2x 2 − 4 2 + 1 x + 2 +
1
= 0 và tìm nghiệm theo công thức quen
2
thuộc rất cồng kềnh, phức tạp:
x12 =
(
) (
4 2 +1
)
2
1�
�
4 2 + 1 − 4.4 2 � 2 + �
2 � . . .
�
=
2.4 2
16
Tuy nhiên, nếu chú ý quan sát, phân tích đặc điểm bài toán thấy giữa
các hệ số hình thành tỉ lệ, thực hiện biến đổi đơn giản các hệ số đưa
phương trình về dạng: a( x + b) ( x + c) = 0 :
2 ( 2x − 1) −
2
1
( 2x − 1) = 0
2
1�
�
� ( 2x − 1) � 2 ( 2x − 1) − �= 0 �
2�
�
2x − 1 = 0
2 ( 2x − 1) −
1
=0
2
Như vậy, thói quen tâm lý là một thứ tiêu cực, làm cho tư duy trở nên
cứng nhắc, bảo thủ và cản trở quá trình học tập của học sinh.
1.2.2. Vấn đề rèn luyện kỹ năng toán học cho học sinh
Trong các mục đích riêng của môn Toán ở trường phổ thông thì việc
truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng là cơ sở vì các mục đích khác
muốn thực hiện được phải dựa trên mục đích này. Và kiến thức về một
mặt nào đó sẽ không được củng cố, mở rộng, vận dụng vào thực tiễn cũng
như vào các ngành khoa học khác, nếu không chú trọng việc rèn luyện kỹ
năng thực hiện các hoạt động tương ứng.
Việc rèn luyện kỹ năng hoạt động nói chung, kỹ năng toán học nói
riêng là một yêu cầu quan trọng, đảm bảo mối liên hệ giữa học với hành,
điều này đã được nhiều tác giả đề cập như:
“ Suy nghĩ tức là hành động” ( J. Piaget)
“ Cách tốt nhất để tìm hiểu là làm” ( Kant)
“ Học để hành, học và hành phải đi đôi” ( Hồ Chí Minh)
Dạy học sẽ không đạt kết quả nếu học sinh chỉ biết học thuộc lòng
khái niệm, định nghĩa, định lý mà không biết vận dụng hay vận dụng không
thành thạo vào việc giải bài tập.
Dạy toán là dạy kiến thức, kỹ năng tư duy và tính cách cho học sinh
( Nguyễn Cảnh Toàn). Việc hình thành và rèn luyện kỹ năng giải toán cho
17
học sinh là một trong những yêu cầu cơ bản và cần thiết của hoạt động
dạy toán, giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức toán trong trường phổ thông,
đồng thời rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy, các hoạt động trí tuệ.
Từ đó, bồi dưỡng các phẩm chất trí tuệ, phát triển năng lực giải toán cho
học sinh.
Sự hình thành kỹ năng đó là sự nắm vững một hệ thống phức tạp
các thao tác nhằm làm biến đổi và sáng tỏ những thông tin chứa đựng trong
bài tập, trong nhiệm vụ và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể.
Có thể dạy cho học sinh kỹ năng bằng những con đường khác nhau
như:
Con đường thứ nhất: Sau khi cung cấp, truyền thụ cho học sinh vốn
tri thức cần thiết thì yêu cầu học sinh vận dụng tri thức đó để giải các bài
toán liên quan theo mức độ tăng dần.
Con đường thứ hai: Dạy những dấu hiệu đặc trưng, từ đó có thể
định hướng một số dạng bài toán và các thao tác cần thiết để giải dạng
toán đó.
Con đường thứ ba: Dạy học sinh các hoạt động tâm lý cần thiết đối
với việc vận dụng tri thức.
Việc hình thành và rèn luyện cho học sinh cần được tiến hành trên
các bình diện khác nhau.
Kỹ năng vận dụng tri thức trong nội bộ toán, thể hiện rõ dưới dạng
giải bài tập toán.
Kỹ năng vận dụng tri thức toán học vào những môn học khác như vật
lý, hoá học.
Kỹ năng vận dụng vào đời sống.
Có thể nói, bài tập toán chính là ''mảnh đất'' để rèn luyện kỹ năng
toán. Do đó, để rèn luyện kỹ năng toán cho học sinh, giáo viên cần tăng
cường hoạt động giải toán (đây cũng chính là hoạt động chủ yếu khi dạy
18
toán). Cụ thể hơn thông qua hoạt động giải toán, rèn luyện kỹ năng toán
cho học sinh cần quan tâm chú trọng những vấn đề sau:
* Cần hướng cho học sinh biết cách tìm tòi để nhận xét ra yếu tố đã
cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ giữa chúng. Nói cách khác, hướng cho
học sinh biết cách phân tích đặc điểm bài toán.
Ví dụ 1: Giải bất phương trình
(
) (
x +1 +
) (
2x − 3 +
50 − 3x
)
12
(1)
Nếu giải bài toán này theo phương pháp thông thường, tức dùng biến
đổi tương đương, thì sẽ tương đối phức tạp.
Ta nhận thấy, tổng các bình phương các căn thức ở vế trái là một số
không đổi:
(
) (
2
x +1 +
) (
2
2x − 3 +
50 − 3x
)
2
= 48
Và vế trái của (1) có dạng a1b1 + a2b2 + a3b3 trong bất đẳng thức
Bunhiakốpxki.
Từ đó, ta nghĩ đến sử dụng bất đẳng thức Bunhiakốpxki để giải
quyết
bài
toán:
Nếu
ta
xem
a1 = 1 + x; a2 = 2x − 3; a3 = 50 − 3x; b1 = b2 = b3 = 1 thì ta có:
( 1.
1 + x + 1. 2x − 3 + 1. 50 − 3x
) ( 1 + 1 + 1 ) 48
2
2
2
� 1 + x + 2x − 3 + 50 − 3x �12
Tức là (1) luôn đúng.
Vậy nghiệm của bất phương trình đã cho chính là điều kiện cho các
3
50
căn thức có nghĩa:
x
2
3
* Hướng cho học sinh hình thành mô hình khái quát để giải quyết các
bài tập, các đối tượng cùng loại.
* Xác lập được mối liên quan giữa bài tập mô hình khái quát và các
kiến thức tương ứng.
19
Ngoài ra, còn tạo nhu cầu hướng thú cho học sinh, khắc phục ảnh hưởng
tiêu cực của thói quen tâm lý bằng cách rèn luyện ba mặt sau:
+ Nhìn bài toán dưới nhiều khía cạch khác nhau, từ đó so sánh
các cách giải với nhau để hiểu sâu sắc, vận dụng hợp lý kiến thức.
+ Quan sát tỉ mỉ và chú ý tìm ra đặc điểm của bài toán
Ví dụ 2: Giải bất phương trình
(
) (
) ( 50 − 3x ) 12
Nếu để ý mối liên hệ: ( x + 1 ) + ( 2x − 3 ) + (
x +1 +
2x − 3 +
2
2
50 − 3x
)
2
= 48 là
một hằng số; làm ta liên hệ tới tích vô hướng. Có thể xem vế trái là tích
của hai véc tơ còn vế phải là tích các độ dài của chúng. Với hướng suy nghĩ
này, lời giải bài toán khá độc đáo.
x −1
3
3
x
Điều kiện để bất phương trình có nghĩa là: x ��
2
2
50
x
3
Đặt:
r
u x + 1, 2x − 3, 50 − 3x
r
v ( 1, 1, 1)
rr
u.v = x + 1 + 2x − 3 + 50 − 3x
r
u = ( x + 1) + ( 2x − 3) + ( 50 − 3x ) = 48
r
v = 3
r r
u . v = 12
(
50
3
)
Từ góc độ hình học để hiểu bất phương trình thì vấn đề trở nên rõ
rr r r
ràng. Bài toán chuyển về chứng minh u.v u . v . Đây là một bất đẳng thức
20
đúng với tích vô hướng của hai véc tơ. Vậy nghiệm của bất phương trình
là những giá trị của x mà bất phương trình có nghĩa tức là:
3
x
2
50
.
3
Như vậy, các cách giải hay, độc đáo đều gắn liền với đặc điểm của
từng bài. Do đó cần phải quan sát kỹ và chú ý đầy đủ mới có thể nhìn ra
đặc điểm ẩn sâu trong bài toán.
+ Tích cực suy nghĩ, tìm tòi cách giải ngắn gọn trong khi giải toán.
Học sinh không chỉ gặp những bài toán đơn giản, tuân theo phương pháp và
các bước làm rõ ràng mà còn gặp khá nhiều bài phức tạp, không có phương
pháp sẵn. Đòi hỏi phải suy nghĩ tìm cách giải ngắn gọn, chặt chẽ độc đáo.
Ví dụ 3: Giải phương trình:
(x2 – 5x + 3)(2x2 + 5x – 1) = (x2 + 5x + 3)(2x2 – 5x 1)
Khi gặp bài toán này, thông thường học sinh nhân các số hạng với
nhau, sau đó đơn giản rồi giải, như vậy sẽ rất phiền phức. Chăm suy nghĩ,
chú ý đến đặc điểm phương trình, các hệ số có mặt ở hai vế phương trình,
nghĩ tới cách học cấp phương trình,dùng phương pháp xác định hệ số để
giải.
Đặt a = x2 5x + 3; b = 2x2 + 5x 1.
Phương trình trở thành: ab = ( a + 10x)(b – 10x)
Rút gọn được: 100x2 + 10x(b – a) = 0
2
Suy ra : x = 0; b – a = 10x � x − 4 = 0 �
x =2
x = −2
Hoặc cũng có thể đặt a = x2 + 3; b = 2x2 – 1.
Không dừng lại ở cách giải này, tiếp tục suy nghĩ, xem xét phân
tíchđặc điểm phương trình. Phương trình cho ở dạng tích nên có thể biến
đổi thành dạng tỉ lệ:
21
x 2 − 5x + 3 2x 2 − 5x − 1
=
x 2 + 5x + 3 2x 2 + 5x − 1
(2)
Vậy có thể dùng tính chất tỉ lệ thức để giải phương trình này được
không? Với hướng suy nghĩ này, ta có lời giải bài toán khá độc đáo:
Áp dụng tính chất tỉ lệ thức:
a+ b c+ d�
�b c
2x 2 + 6 4x 2 − 2
x 2 + 3 2x 2 − 1
=
�
=
đ
ượ
c
=
�
=
�a d
b− a c− d�
�
�
10x
−10x
x
x
Giải được: x = 0; x = 2; x = −2
Tóm lại, song song với việc truyền thụ tri thức toán học thì việc rèn
luyện kỹ năng đóng một vai trò hết sức quan trọng, góp phần bồi dưỡng tư
duy toán học cho học sinh.
1.3. TƯ DUY HÀM VÀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN TƯ DUY HÀM
CHO HỌC SINH
1.3.1. Tư duy hàm
Trước hết hãy bàn về thuật ngữ tư duy hàm, tư duy hàm tất nhiên
không phải là thuật ngữ toán học, tư duy là một khái niệm Tâm lý còn hàm
là một khái niệm toán học, hàm ở đây không có nghĩa là hàm số mà còn có
thể là một sự tương ứng giữa các phần tử của hai tập hợp nào đó.
Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất, chính thức về
tư duy hàm. Theo Koliagin định nghĩa tư duy hàm như sau: Tư duy hàm là
một loại hình tư duy đặc trưng bởi việc nhận thức được tiến trình những
sự tương ứng riêng và chung giữa các đối tượng toán học hay giữa các tính
chất của chúng (kể cả kỹ năng vận dụng chúng) [30].
Còn Trần Thúc Trình và Phạm Đức Quang cho rằng: Tư duy hàm là
các hoạt động trí tuệ liên quan đến sự tương ứng giữa các phần tử của
một, hai hay nhiều tập hợp, phản ánh mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa
các phần tử của tập hợp đó, trong sự vận động của chúng.
22
Nguyễn Bá Kim thì thay vì đưa ra định nghĩa tư duy hàm, đã đưa ra
các hoạt động đặc trưng cho nó, ông quan niệm tư duy hàm đặc trưng bởi
các hoạt động phát hiện, thiết lập, nghiên cứu và lợi dụng các sự tương
ứng.
Như vậy, tư duy hàm là hoạt động trí tuệ liên quan đến sự nghiên
cứu những quy luật của sự vật, trong sự biến đổi sinh động của chúng,
trong sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng.
Với cách hiểu này, tư duy hàm không chỉ cần đối với nhà khoa học
mà nó cũng rất cần thiết đối với người lao động, nó là yếu tố quan trọng
trong văn hoá Toán học giúp người lao động tìm ra quy luật trong tự nhiên,
xã hội và tư duy. Chẳng hạn như sản phẩm của tư duy hàm thể hiện qua
câu ca dao “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì
râm” thể hiện sự tương ứng giữa độ cao và thời tiết.
1.3.2. Vấn đề phát triển tư duy hàm cho học sinh thông qua dạy
học phương trình
Trong dạy học toán học ở trường việc phát triển tư duy hàm cho học
sinh không có nghĩa là thầy lên lớp một bài giảng về tư duy hàm. Nhiệm vụ
tư duy hàm không tồn tại độc lập so với nhiệm vụ truyền thụ kiến thức.
Muốn phát triển tư duy hàm thầy giáo phải thông qua kiến thức đã quy
định, trong và trên cơ sở đó tìm ra giải pháp phát triển tư duy hàm cho học
sinh, phát triển tư duy hàm là mục đích kép.
Thực tiễn giáo dục tư duy hàm cho học sinh phổ thông gặp nhiều
khó khăn như : Trình độ học sinh còn hạn chế, không đồng đều, khối
lượng kiến thức nhiều trong khi số tiết dành cho bộ môn Toán lại không
nhiều. Những tri thức về hoạt động tư duy hàm không được qui định rõ
ràng trong chương trình nên không được giảng dạy một cách tường minh.
Mặt khác, hầu hết giáo viên phổ thông nắm về tư duy hàm chưa đầy đủ và
cũng chưa thấy được tầm quan trọng của nó trong dạy học. Trong dạy học
23
việc xem xét các đối tượng toán học một cách cô lập, trong trạng thái tĩnh
tại, rời rạc. Chưa thấy hết những mối liên hệ phụ thuộc hoặc mối quan hệ
nhân quả làm cho học sinh lúng túng trong việc giải quyết các bài toán. Bên
cạnh đó, các tài liệu viết về vấn đề này nói chung còn hạn chế, khó tiếp
cận, gây cho giáo viên và học sinh không ít khó khăn.
Qua phiếu thăm dò, trao đổi với các giáo viên có kinh nghiệm, dạy
một số tiết để thăm dò rút ra những khó khăn của giáo viên, học sinh khi
tiếp cận các bài toán phương trình, bất phương trình và hệ phương trình do
thiếu giáo dục các thành tố tư duy hàm:
Xác lập sự tương ứng;
Nhìn nhận sự vật trong trạng thái vận động và biến đổi;
Đặt sự vật này trong mối liên hệ sự vật kia theo các quan hệ nhân
quả, phụ thuộc.
Các khó khăn chủ yếu là:
1. Học sinh không biết cách phân chia các trường hợp riêng khi đứng
trước một bài toán cụ thể;
2. Xuất phát từ cơ sở nào để phân chia các trường hợp riêng thích
hợp cho việc giải quyết bài toán;
3. Học sinh không biết nhìn nhận các bài toán phương trình, bất
phương trình, hệ phương trình trong mối liên hệ với các bài toán hàm số...
Những khó khăn này gây nên do: Khi dạy học phương trình, bất phương
trình, hệ phương trình thầy giáo thiếu quan tâm đến các hoạt động sau:
Lập sự tương ứng giữa các đối tượng, quan hệ... trong Toán học;
Hoạt động ăn khớp với những tri thức phương pháp về tư duy hàm;
Hoạt động gợi động cơ.
Một số vấn đề cần lưu ý khi dạy học giải phương trình:
Cần hình thành cho học sinh thói quen luôn ý thức về diễn biến của
tập nghiệm khi biến đổi phương trình. Sau khi biến đổi phương trình thì
24
tập nghiệm của phương trình ban đầu và tập nghiệm của phương trình thu
được có quan hệ với nhau như thế nào? Có những khả năng nào xảy ra?
Có thể phân chia không triệt để các khả năng loại trừ lẫn nhau thì có các
khả năng sau:
Khả năng 1: Hai tập nghiệm trùng nhau
Khả năng 2: Tập nghiệm của phương trình trước là tập con của tập
nghiệm của phương trình sau
Khả năng 3: Tập nghiệm của phương trình sau là tập con của tập
nghiệm của phương trình trước
Khả năng 4: Giao của hai tập nghiệm khác rỗng, nhưng không tập
nghiệm nào là bộ phận của tập nghiệm kia.
Có thể dùng biểu đồ Ven để minh họa cho điều này. Căn cứ vào đâu
để nhận biết sự thay đổi của các tập hợp nghiệm?
Thứ nhất là căn cứ vào các phép biến đổi một phương trình về một
phương trình đơn giản đã biết cách giải
Loại 1: Phép biến đổi không làm tập xác định của phương trình thay đổi
Với phép biến đổi này phương trình mới nhận được tương đương
với phương trình đã cho. Khi đó ta kết luận: Tất cả các nghiệm của
phương trình mới thu được là tất cả các nghiệm của phương trình đã cho.
Mặc dù vậy, ta vẫn hình thành cho học sinh ý thức và thói quen thử lại
nghiệm khi giải phương trình (dù trong trường hợp này không đòi hỏi về
mặt lý luận mà chỉ có tác dụng kiểm tra kết qủa), góp phần giáo dục cho
học sinh tính cẩn thận, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc, một trong
những đức tính cần thiết của người lao động trong thời đại mới.
Ví dụ 1: Phương trình: log2 (x 2 + 5) = log2 (2x 2 + 1)
25
� x 2 + 5 = 2x 2 + 1
� x2 = 4 �
x=2
x = −2
Loại 2: Phép biến đổi làm mở rộng tập xác định của phương trình
Với phép biến đổi này phương trình mới nhận được thường là hệ
quả của phương trình đã cho. Khi đó, tất cả các nghiệm của phương trình
đã cho đều là nghiệm của phương trình mới nhận được, như vậy phép biến
đổi phương trình không làm mất nghiệm, tập nghiệm của phương trình đã
cho là tập con của tập nghiệm của phương trình thu được, nghiệm ngoại
lai nếu xuất hiện sẽ rơi vào phần mở rộng của tập xác định.
Ví dụ 2: Phương trình:
x − 5 = x −1
� x − 5 = x 2 − 2x = 1
� x 2 − 3x − 4 = 0
� x 2 − 3x − 4 = 0
x = −1
(x = 1 là nghiệm ngoại lai, sau phép
x=4
thử phải loại bỏ "nghiệm này").
Khi giải phương trình sử dụng phép biến đổi làm mở rộng tập xác
định ta cần nhấn mạnh sự cần thiết của phép thử khử nghiệm ngoại lai,
điều này không chỉ có mục đích kiểm tra tính toán, rèn luyện tính cẩn thận,
chu đáo khi làm bài mà còn có tính chặt chẽ về mặt lý luận.
Loại 3: Phép biến đổi làm thu hẹp tập xác định của phương trình
Với phép biến đổi này, có thể dẫn tới hiện tượng mất nghiệm của
phương trình đầu, phương trình đầu là hệ quả của phương trình cuối cùng
thu được. Khi đó, tập nghiệm của phương trình thu được là tập con của
phương trình đầu, phép biến đổi phương trình không làm rộng tập nghiệm,
nghiệm bị mất ( nếu có ) rơi vào phần thu hẹp của tập xác định.