Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tác dụng tăng lực của các cao chiết từ thân rễ cây Ngải đen (Kaempferia parviflorawall. Ex Baker) trên chuột nhắt trắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.37 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018

Nghiên cứu Y học

TÁC DỤNG TĂNG LỰC CỦA CÁC CAO CHIẾT
TỪ THÂN RỄ CÂY NGẢI ĐEN (KAEMPFERIA PARVIFLORA WALL. EX BAKER)
TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG
Nguyễn Thị Ngọc Đan*, Trịnh Minh Thiên*, Nguyễn Lĩnh Nhân*, Nguyễn Thị Thu Hương*

TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Ngải đen (Nghệ đen, Gừng đen, Sâm Thái) được sử dụng từ lâu trong y học cổ
truyền của các nước Đông Nam Á như một loại dược liệu bổ, giúp tăng cường sinh lực và điều trị những rối loạn
chức năng sinh dục, tiêu hóa, loét dạ dày. Kế thừa kết quả của đề tài “Bảo tồn cây thuốc cổ truyền trong cộng
đồng dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang năm 2010”, đề tài hướng đến mục đích phát triển Ngải đen
như một loại dược liệu điển hình có tác dụng bồi dưỡng sức khỏe, chống nhược sức.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp bơi kiệt sức của Brekhman có cải tiến trên chuột
nhắt trắng được áp dụng để khảo sát tác dụng tăng lực - chống nhược sức của cao chiết nước và cao chiết cồn từ
thân rễ cây Ngải đen. Liều thử nghiệm của cả hai loại cao chiết được sử dụng tương đương với 0,625 g và 1,25 g
dược liệu khô/kg trọng lượng chuột.
Kết quả: Cao chiết cồn từ thân rễ Ngải đen (0,083 g/kg và 0,166 g/kg) và cao chiết nước từ thân rễ Ngải đen
(0,198 g/kg và 0,396 g/kg) đều thể hiện tác dụng tăng lực ở cả hai thời điểm sau 7 ngày và 14 ngày uống. Không
có sự khác biệt đạt ý nghĩa thống kê về tác dụng tăng lực của hai dạng cao chiết. Ở thời điểm sau 60 phút cho
uống (liều đơn) thì cả hai loại cao chiết đều chưa thể hiện tác dụng tăng lực.
Kết luận: Cả hai loại cao chiết cồn và cao chiết nước từ Ngải đen ở các liều thử nghiệm tương đương với
0,625 g và 1,25 g dược liệu khô khô/kg trọng lượng chuột đều thể hiện tác dụng tăng lực sau 7 ngày và 14 ngày
dùng thuốc.
Từ khóa: Ngải đen, Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker, tác dụng tăng lực.

ABSTRACT
STUDY ON ANTI-FATIGUE EFFECT OF KAEMPFERIA PARVIFLORA RHIZOME EXTRACTS IN
MICE


Nguyen Thi Ngoc Đan, Trinh Minh Thien, Nguyen Linh Nhan, Nguyen Thi Thu Huong
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 5- 2018: 97- 101
Objectives: The rhizome of Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker (Black turmeric, black ginger or Thai
ginseng, Zingiberaceae) have been used for centuries in the traditional medicine of Southeast Asia as an energy
enhancer with excellent tonic effect and for the treatment of sexual disorders, digestive disorders, gastric ulcer, etc.
Inheriting the results of project named as "Conservation of traditional medicinal plants in the Khmer ethnic
minority community in Tri Ton district, An Giang province in 2010", the aim of this study is to develop K.
parviflora as a characteristic medicinal plant for health promotion and increasing endurance capacity.
Methods: The Brekhman’s mouse swimming test was used to study on antifatigue effect of the aqueous and
ethanol extracts from K. parviflora rhizomes. The test doses of both extracts were equivalent to 0.625 g and 1.25 g
dry herb/kg mouse body weight.
Results: Either K. parviflora ethanol extract (0.083 g/kg và 0.166 g/kg) or aqueous extract (0.198 g/kg và


Trung Tâm Sâm và Dược liệu TP. Hồ Chí Minh - Viện Dược liệu
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hương ĐT: 02838274377

Email:

97


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018

0.396 g/kg) showed antifatigue effect after 7 days and 14 days administration. No significant difference in
antifatigue effect of two extracts was revealed. Neither K. parviflora ethanol extract nor aqueous extract had
antifatigue effect after single dose.
Conclusions: Both K. parviflora ethanol extract or aqueous extract at the doses equivalent to 0.625 g and

1.25 g of dry raw materials/kg showed antifatigue effect after 7 days and 14 days of administration.
Keywords: Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker, antifatigue effect.
như một loại dược liệu điển hình có tác dụng bồi
ĐẶT VẤN ĐỀ
dưỡng sức khỏe, tăng sức bền vận động, chống
Trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại
nhược sức.
hóa ngày nay, khi mà nền kinh tế ngày càng phát
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
triển mạnh mẽ thì một trong số những vấn đề
đáng báo động hiện nay là tình trạng suy nhược
Đối tượng nghiên cứu
cả về thể chất lẫn tinh thần của con người do rất
Cao chiết cồn 45% từ thân rễ Ngải đen được
nhiều nguyên nhân như ô nhiễm môi trường,
chiết xuất bằng phương pháp chiết hồi lưu và
dinh dưỡng không hợp lý, sức ép từ công việc
cao chiết nước được chiết xuất bằng phương
hoặc từ chính sự thờ ơ với sức khỏe của bản
pháp sắc. Các cao chiết đạt tiêu chuẩn cơ sở
thân. Chính vì thế, một trong những xu hướng
(được xây dựng bởi Trung tâm Sâm và Dược liệu
chăm sóc sức khỏe cộng đồng ngày nay là hướng
TP. HCM). Liều thử nghiệm dược lý của các cao
đến việc sử dụng các loại dược liệu có tác dụng
chiết được lựa chọn dựa theo kinh nghiệm dân
bồi bổ cơ thể, chống nhược sức nhưng vẫn an
gian, được quy đổi tương đương với 0,625 g và
toàn khi sử dụng trong thời gian dài.
1,25 g dược liệu/kg trọng lượng chuột(8).

Ngải đen (Kaempferia parviflora, tên gọi khác
Black turmeric, Black ginger, Thai ginseng,
Krachaidum), được sử dụng như một loại thuốc
dân gian ở Lào và Thái Lan để tăng cường sinh
lực, chữa hen, trị liệt dương, chữa viêm loét dạ
dày, hạ đường huyết, chống béo phì, cải thiện
lưu thông máu, trị viêm khớp và tăng cường sức
khỏe (1). Một số các nghiên cứu gần đây đã chứng
minh các hoạt tính sinh học của cao chiết Ngải
đen và các polymethoxyflavon như hoạt tính
chống oxy hóa, cải thiện thể chất trong các
nghiên cứu lâm sàng(5,9). Polymethoxyflavon
trong dịch chiết Ngải đen làm tăng sản xuất
năng lượng bằng cách kích hoạt protein kinase
(AMPK) của sự trao đổi chất trong tế bào cơ(7).
Trong nước, hiện đã có đề tài bước đầu nghiên
cứu về các điều kiện nuôi trồng ảnh hưởng đến
chất lượng sinh trưởng và phát triển của Ngải
đen tại tỉnh An Giang.
Kế thừa kết quả của đề tài “Bảo tồn cây
thuốc cổ truyền trong cộng đồng dân tộc Khmer
ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang năm 2010”, đề
tài này hướng đến mục đích phát triển Ngải đen

98

Động vật nghiên cứu
Các thử nghiệm được thực hiện trên chuột
nhắt trắng đực chủng Swiss albino, trọng lượng
trung bình 25 ± 2 g, được cung cấp bởi Viện Vắc

xin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang. Chuột được
nuôi bằng thực phẩm viên được cung cấp bởi
Viện Vắc xin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang, với
nước uống đầy đủ. Thể tích cho uống là 0,1
ml/10 g cân nặng.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiệm pháp chuột bơi kiệt sức của
Brekhman (Swimming test, cải tiến để áp dụng
trên chuột nhắt trắng) thường được chọn lựa để
khảo sát tác dụng tăng lực của các chế phẩm từ
dược liệu(2,8). Phương pháp chuột bơi thuận tiện,
đơn giản giúp đánh giá tình trạng chống mệt
mỏi, phục hồi sức lực của động vật thử nghiệm
sau liều uống duy nhất của mẫu thử hay đánh
giá tác dụng tăng lực sau 7 - 14 liều uống liên tục
của mẫu thử.
Thiết kế thực nghiệm, đo lường độc lập,
đánh giá thời gian bơi của chuột thử nghiệm


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
trước và sau khi uống các cao chiết và so sánh
thống kê tác dụng của cao chiết với lô chứng
(không điều trị).
Chuột được mang vào đuôi gia trọng bằng
5% thể trọng, cho chuột bơi trong thùng nước có
dung tích 20 lít, đường kính 30 cm, chiều cao cột
nước 25 cm, nhiệt độ 29  1oC. Chuột được cho
bơi lần 1, thời gian bơi tính từ khi chuột được thả
vào thùng nước, bơi đến khi chìm khỏi mặt nước

20 giây và không trồi lên được nữa, lúc đó vớt
chuột ra lau khô. Ghi nhận thời gian bơi lần 1
(T0). Chọn những chuột có thời gian bơi 15 phút
< x < 60 phút. Cho chuột nghỉ 5 phút, chia ngẫu
nhiên các lô thí nghiệm (n = 10) như sau:
Lô chứng: cho uống nước cất.
Lô thử 1: cho uống cao nước Ngải đen liều
0,198 g/kg.
Lô thử 2: cho uống cao nước Ngải đen liều
0,396 g/kg.
Lô thử 3: cho uống cao cồn Ngải đen liều
0,083 g/kg.
Lô thử 4: cho uống cao cồn Ngải đen liều
0,166 g/kg.
Một giờ sau khi cho chuột uống mẫu thử
nghiệm, ghi nhận thời gian bơi lần 2 (T60phút).
Chuột được tiếp tục cho uống nước cất, các cao
chiết thử nghiệm liên tục (mỗi ngày vào một giờ
nhất định) đến ngày thứ 7 và ngày thứ 14 tiến
hành cho chuột bơi lần 3 (T7ngày) và lần 4 (T14 ngày).
Đánh giá kết quả
Đánh giá tác dụng tăng lực bằng so sánh
thống kê giữa các lô thử và lô chứng các chỉ tiêu:
Thời gian bơi
Tỉ lệ phần trăm của thời gian bơi sau khi
uống cao thử nghiệm (T60phút, T7ngày, T14 ngày) so với
thời gian bơi lần 1 (T0), được tính theo công thức:
X% = (Tt/T0) × 100
Nếu T60 phút / T0 (%) của lô thử lớn hơn T60 phút /
T0 (%) của lô chứng: cao thử nghiệm có tác dụng

hồi phục sức.
Nếu T7 ngày /T0 (%) của lô thử lớn hơn T7 ngày /T0
(%) của lô chứng: cao thử nghiệm có tác động

Nghiên cứu Y học
tăng lực sau 7 ngày.
Nếu T14 ngày /T0 (%) của lô thử lớn hơn T14 ngày
/T0 (%) của lô chứng: cao thử nghiệm có tác động
tăng lực sau 14 ngày.
Các số liệu được biểu thị bằng trị số trung
bình: M ± SEM (Standard Error of the Mean – sai
số chuẩn của giá trị trung bình) và xử lý thống kê
dựa vào phép kiểm One –Way ANOVA và hậu
kiểm bằng Student-Newman-Keuls test (phần
mềm SigmaStat-3.5). Kết quả thử nghiệm đạt ý
nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% khi p < 0,05 so
với lô chứng.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Thời gian bơi
Từ kết quả thực nghiệm thu được về thời
gian bơi của các lô chứng và lô uống cao thử
nghiệm ở các thời điểm khảo sát, nhận thấy
thời gian bơi sau 60 phút cho uống các cao
chiết từ Ngải đen đều không khác biệt về
thống kê so với lô chứng và so với thời gian
bơi lần 1 (T0, trước khi cho uống cao thử
nghiệm). Kết quả này cho thấy các cao chiết từ
Ngải đen chưa thể hiện tác dụng tăng lực sau
liều uống duy nhất. Tuy nhiên, sau 7 ngày và

14 ngày cho uống các cao chiết từ Ngải đen
đều làm tăng thời gian bơi của chuột đạt ý
nghĩa thống kê so với lô chứng và so với thời
gian bơi lần 1 (T0, trước khi cho uống cao thử
nghiệm); như vậy, cả hai loại cao chiết nước
và cao chiết cồn từ Ngải đen đều thể hiện tác
dụng tăng lực sau 7 - 14 ngày uống (Bảng 1).
Kết quả đánh giá thống kê cho thấy không có
sự khác biệt trong tác dụng tăng lực giữa các
loại cao chiết cũng như giữa các liều cho uống
tương đương với 0,625 g và 0,125 g dược liệu
khô tuyệt đối.
Tỉ lệ % thời gian bơi
Tương tự như kết quả trên thời gian bơi, ở
thời điểm sau 60 phút cho uống cao thử
nghiệm, cả hai loại cao chiết cồn và nước từ
Ngải đen ở các liều thử nghiệm đều có tỷ lệ
thời gian bơi (T60phút/T0) không khác biệt đạt ý
nghĩa thống kê so với lô chứng. Ở thời điểm

99


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018

Nghiên cứu Y học
sau 7 ngày hay sau 14 ngày uống, cao chiết
cồn và nước từ Ngải đen ở các liều thử nghiệm
đều có tỷ lệ thời gian bơi T7 ngày/T0 tăng đạt ý
nghĩa thống kê so với lô chứng; đồng thời,


không có sự khác biệt đạt ý nghĩa thống kê so
với nhau. Như vậy, cả hai loại cao chiết đều
thể hiện tác dụng tăng lực sau 7 - 14 ngày uống
và tác dụng này tương đương nhau (Bảng 2).

Bảng 1. Thời gian bơi (phút) của chuột tại các thời điểm ở các lô thử nghiệm
Lô (n = 10)
Chứng
Cao nước
Cao cồn

Liều (g/kg)
0,23
0,46
0,083
0,166

T0
31,20 ± 2,68
34,14 ± 3,15
34,00 ± 1,20
30,63 ± 3,05
31,00 ± 3,31

T60 phút
22,30 ± 3,02
25,86 ± 6,24
29,43 ± 3,34
23,63 ± 4,59

22,88 ± 1,26

T7 ngày
25,10 ± 1,40
*#
107,29 ± 22,67
*#
112,29 ± 18,65
*#
90,25 ± 13,77
*#
98,25 ± 9,39

T14 ngày
29,80 ± 1,97
*#
151,43 ± 17,38
*#
148,57 ± 12,04
*#
148,25 ± 16,14
*#
142,38 ± 13,98

* p < 0,05 so với lô chứng trong cùng thời điểm # p <0,05 so với thời điểm bơi lần 1 (T0) trong cùng lô thử nghiệm

Bảng 2. Tỉ lệ % thời gian bơi ở các thời điểm T60 phút, T7 ngày so với T0 ở các lô thử nghiệm
Lô (n = 10)
Chứng
Cao nước

Cao cồn

Liều (g/kg)
0,23
0,46
0,083
0,166

T60 phút/T0
74,08 ± 9,08
85,99 ± 26,83
88,27 ± 11,88
79,58 ± 17,00
78,14 ± 6,78

T7 ngày/T0
87,20 ± 10,08
*
313,27 ± 61,98
*
337,68 ± 60,95
*
300,93 ± 44,80
*
321,42 ± 15,80

T 14 ngày/T0
100,18 ± 8,06
*
452,53 ± 56,51

*
442,03 ± 41,95
*
500,97 ± 9,72
*
485,16 ± 63,56

* p < 0,05 so với lô chứng

BÀN LUẬN
Sự vận động làm tăng chức năng của ty thể
(mitochondrial biogenesis) để đáp ứng với nhu
cầu tăng sản sinh năng lượng cho hoạt động cơ
xương. Kim và cộng sự đã chứng minh cao chiết
từ Ngải đen làm tăng chức năng của ty thể qua
việc hoạt hóa PGC-1α (peroxisome proliferatoractivated receptor-γ coactivator-1α) dẫn đến
hoạt hóa các yếu tố cần cho sự sản sinh ATP
[như: estrogen-related receptor-α (ERRα),
nuclear
respiratory
factor-1
(NRF-1),
mitochondrial transcription factor A (Tfam)] và
làm tăng mật độ ty thể trong tế bào ống cơ (L6
myotubes) in vitro(3). Nghiên cứu in vivo trên
chủng chuột C57BL/6J được nuôi bằng chế độ
dinh dưỡng bình thường và trên chuột bị gây
béo phì do dinh dưỡng giàu lipid, cũng đã
chứng minh cao chiết từ Ngải đen làm tăng sức
bền trong vận động chạy của chuột, tăng biểu

hiện các gen điều hòa chức năng ty thể và điều
hòa sự chuyển hóa tạo năng lượng cho tế bào
trong vận động cơ xương [sirtuin 1 (SIRT1),
adenosine monophosphate (AMP)-activated
protein kinase (AMPK), peroxisome proliferatoractivated receptor-γ coactivator (PGC)-1α (PGC-

100

1α), peroxisome proliferator-activated receptor-δ
(PPARδ)](3).
Ngoài ra, hoạt hóa AMPK (AMP-activated
protein kinase, là yếu tố quan trọng trong sự
điều hòa sự hằng định năng lượng trong vận
động cơ xương) dẫn đến tăng chuyển hóa của
glucose và lipid. Toda và cộng sự đã chứng minh
các polymethoxyflavone phân lập từ cao chiết
Ngải đen hoạt hóa AMPK trong tế bào C2C12
myoblast(7). Một nghiên cứu khác của Toda và
cộng sự cũng đã chứng minh cao chiết từ Ngải
đen sau 4 tuần uống làm tăng số lượng ty thể,
tăng chuyển hóa năng lượng, tăng sức bền của
chuột thí nghiệm trong các thử nghiệm vận động
bơi (swimming test), khám phá môi trường mở
(open-field test), leo dốc (inclined plane test) và
bám trục (wire hanging test)(6). Ngoài ra, sự
nhược sức và mệt mỏi cơ bắp là do sự tích lũy
của acid lactic làm giảm pH nội bào. Kết quả
nghiên cứu của Toda và cộng sự (2016) còn cho
thấy cao chiết từ Ngải đen làm giảm nồng độ
acid lactic trong huyết tương(6). Yoshino và cộng

sự (2014) đã chứng minh cao chiết Ngải đen
(nồng độ 0,5% và 1%) sau 7 tuần cho chuột uống
làm tăng sử dụng năng lượng qua việc hoạt hóa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
mô mỡ nâu (brown adipose tissue)(10).
Pripdeevech và cộng sự (2012) đã chứng minh
phân đoạn giàu terpenoid từ cao n-hexan chiết
từ Ngải đen thể hiện tác dụng adaptogen qua
việc làm tăng thời gian bơi, giảm sự nhược sức
của chuột, tác dụng này được đánh giá tương tự
với cao chiết toàn phần từ ginseng (cao đối
chiếu). Các hợp chất chính hiện diện trong phân
đoạn này được xác định qua phổ NMR và GCMS là germacene D, β-elemene, α-copaene, và Ecaryophyllene(4).
Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy
không có sự khác biệt đạt ý nghĩa thống kê về tác
dụng tăng lực giữa cao chiết nước và cao chiết
cồn. Do đó, những nghiên cứu về hóa thực vật
cần tiếp tục để xác định sự hiện diện các hợp
chất chính có tác dụng tăng lực trong nguyên
liệu và các cao chiết từ Ngải đen.

KẾT LUẬN
Cả hai loại cao chiết cồn (0,083 g/kg và 0,166
g/kg) và cao chiết nước từ Ngải đen (0,198 g/kg
và 0,396 g/kg) đều thể hiện tác dụng tăng lực sau
7 ngày và 14 ngày dùng thuốc.
LỜI CÁM ƠN: Bài báo này là một phần kết quả của đề tài
Nghiên cứu khoa học mã số 373.2017.12 thuộc Sở Khoa học và

Công nghệ Tỉnh An Giang, được cấp kinh phí từ Ủy Ban Nhân
dân tỉnh An Giang theo Quyết định số 305/QĐ ngày 23/01/2017.

Nghiên cứu Y học
2.

Brekhman II, Dardymov IV (1969). “Pharmacological
investigation of glycoside from Ginseng and Eleutherococcus”.
Lloydia; 32(1):46 – 51.
3. Kim MB, Kim T, Kim C, Hwang JK (2018). “Standardized
Kaempferia parviflora Extract Enhances Exercise Performance
Through Activation of Mitochondrial Biogenesis”. Journal of
Medicinal Food; 21(1): 30-38.
4. Pripdeevech P, Pitija K, Rujjanawate C, Pojanagaroon S,
Kittakoop P, Wongpornchai S (2012). “Adaptogenic-active
components from Kaempferia parviflora rhizomes”. Food Chemistry;
132(3): 1150-1155.
5. Promthep K, Eungpinichpong W, Sripanidkulchai B,
Chatchawan U (2015). “Effect of Kaempferia parviflora extract on
physical fitness of soccer players: A randomized double-blind
placebo-controlled trial”. Medical Science Monitor Basic Research;
21: 100–108.
6. Toda K, Hitoe S, Takeda S, Shimoda H (2016), “Black ginger
extract increases physical fitness performance and muscular
endurance by improving inflammation and energy
metabolism”. Heliyon; 2(5): e00115.
7. Toda K, Takeda S, Hitoe S, Nakamura S, Matsuda H, Shimoda
H (2016). “Enhancement of energy production by black ginger
extract containing polymethoxy flavonoids in myocytes through
improving glucose, lactic acid and lipid metabolism”. Journal of

National Medicines; 70: 163–172.
8. Viện Dược liệu (2006). Phương pháp nghiên cứu tác dụng dược lý
của thuốc từ dược thảo. NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr. 295-296,
385-386.
9. Wattanathorn J, Muchimapura S, Tong-Un T, Saenghong N,
ThukhumMee W, Sripanidkulchai B (2012). “Positive
modulation effect of 8-week consumption of Kaempferia
parviflora on health-related physical fitness and oxidative status
in healthy elderly volunteers”. Journal of Evidence - Based
Complementary & Alternative Medicine; 2012: 732816.
10. Yoshino S, Kim M, Awa R, Kuwahara H, Kano Y, Kawada T
(2014). “Kaempferia parviflora extract increases energy
consumption through activation of BAT in mice”. Food Science &
Nutrition; 2(6): 634-637.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Akase T, Shimada T, Terabayashi S, Ikeya Y, Sanada H,
Aburada M (2011). “Antiobesity effects of Kaempferia parviflora in
spontaneously obese type II diabetic mice”. Journal of National
Medicines; 65: 73–80.

Ngày nhận bài báo:

25/04/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

20/06/2018


Ngày bài báo được đăng:

20/09/2018

101



×