Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đánh giá tác dụng giảm đau vết mổ của nhĩ châm sử dụng hạt dán loa tai đối với sản phụ sau mổ lấy thai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.49 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG GIẢM ĐAU VẾT MỔ CỦA NHĨ CHÂM
SỬ DỤNG HẠT DÁN LOA TAI ĐỐI VỚI SẢN PHỤ SAU MỔ LẤY THAI
Đinh Ngọc Đức*, Nguyễn Thị Sơn**, Nguyễn Thị Thanh***, Trần Thu Nga**

TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau vết mổ của châm loa tai bằng hạt dán từ 0 – 48 giờ sau
mổ lấy thai thông qua việc giảm lượng thuốc giảm đau cần sử dụng.
Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng và không mù. Nghiên cứu trên
70 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai, theo dõi lượng thuốc giảm đau sử dụng trong 48h sau mổ.
Kết quả: nhóm can thiệp đã giảm được 45% lượng paracetamol cần sử dụng trong 24 giờ đầu sau mổ so với
nhóm chứng, p < 0,001. Trong 24 giờ tiếp theo ở nhóm can thiệp đã giảm được 32% lượng Voltaren cần dùng từ
24 – 48 giờ sau mổ, p < 0,001.
Kết luận: Châm loa tai bằng cách sử dụng hạt dán giảm lần lượt 45% và 32% lượng thuốc giảm đau cần sử
dụng trong 24 và từ 24 – 48 giờ đầu sau mổ so với nhóm chứng. Châm loa tai bằng cách sử dụng hạt dán không
gây ảnh hưởng bất lợi đến sản phụ sau mổ.
Từ khóa: Nhĩ châm, giảm đau, đau sau mổ bắt con, hạt dán loa tai.

ABSTRACT
ASSESSMENT THE PAIN RELIEF OF AURICULAR ACUPUNCTURE WITH VACARIA SEEDS
ON CESAREAN INCISION
Dinh Ngoc Duc, Nguyen Thi Sơn, Nguyen Thi Thanh, Tran Thu Nga
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 6 - 2016: 93-101
Aims of study: To assess the pain relief effect of auricular accupuncture with vaccaria seeds from 0-48 hours
after cesarean by reducing the amount of pain medication needed.
Method: randomized clinical trial with a control group and did not blind. Research on 70 women with
cesarean, monitor use of analgesics in 48 hours after surgery.
Results: The intervention group had a 45% reduction in the amount of paracetamol should use the first 24


hours after surgery compared with controls, p <0.001. Also in the intervention group had a 32% reduction in use
of Voltaren need from 24-48 hours after surgery, p <0.001.
Conclusion: Auricular acupuncture with vaccaria seedreduce 45% of paracetamol were required in the first
24 hours after surgery and 32% of Voltaren from 24-48 hours after surgery compared with controls. Auricular
acupuncture with vacaria seeds don’t have any adversely affect.
Keywords: auricular acupuncture, pain relief, cesarean pain, vaccaria seed
hưởng sự phục hồi sau mổ và tâm lý sản phụ.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nó làm sản phụ giảm vận động, tăng nguy cơ
Mổ lấy thai là một phẫu thuật có mức độ đau
thuyên tắc mạch, ảnh hưởng tâm lý sau sinh...
nhiều và kéo dài ít nhất 2 ngày sau mổ hoặc hơn.
55% sản phụ sau mổ lấy thai chuyển sang đau
Cơn đau sau mổ lấy thai gây những rối loạn lên
mạn tính nếu điều trị kém hoặc không điều trị.
hệ giao cảm, hô hấp, tuần hoàn, nội tiết… ảnh
* Bệnh viện Thủ Đức – Khoa YHCT-PHCN
**Khoa Y học cổ truyền – Đại học Y Dược TP HCM
*** Khoa Y - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Đinh Ngọc Đức
ĐT: 0987168032
Email:

93


Nghiên cứu Y học
Hiện nay giảm đau đa mô thức – kết hợp
giữa phương pháp sử dụng và không sử dụng
thuốc đang là xu hướng của thế giới vì đạt được

hiệu quả giảm đau đồng thời giảm liều, giảm tác
dụng phụ các thuốc giảm đau và tăng sự hài
lòng của bệnh nhân. Trong đó châm loa tai sử
dụng nhĩ hoàn hoặc hạt dán là một phương
pháp không dùng thuốc đã có nhiều nghiên cứu
chứng tỏ tính an toàn và khả năng làm giảm
lượng thuốc giảm đau cần sử dụng cho bệnh
nhân sau mổ(1,2,13).
Tại Việt Nam, châm loa tai đã được sử
dụng để điều trị bệnh, trong đó đã có những
tài liệu ứng dụng châm loa tai vào gây tê trong
mổ và giảm đau sau mổ của giáo sư Nguyễn
Tài Thu, giáo sư Trần Thúy từ những năm 60,
70 của thế kỷ trước. Sự phối hợp điện châm
trên cơ thể với điện nhĩ châm đã được ứng
dụng vô cảm trong các cuộc mổ mà không cần
sử dụng thuốc gây mê.
Sản phụ sau sanh mổ vừa trải qua một cuộc
phẫu thuật lớn, xâm lấn nhiều, vì vậy, một
phương pháp giảm đau hiệu quả, không tác
dụng phụ, không xâm lấn sẽ là phương pháp tối
ưu. Hạt dán trong châm loa tai đã được một số
nghiên cứu cho thấy tác dụng giảm đau sau mổ
và tính an toàn, không xâm lấn của nó. Tuy
nhiên, việc ứng dụng châm loa tai bằng hạt dán
để giảm đau sau mổ lấy thai hiện chưa được
nghiên cứu. Vì vậy đề tài được tiến hành để trả
lời câu hỏi việc châm loa tai bằng hạt dán có làm
giảm lượng thuốc giảm đau cần dùng sau mổ lấy
thai hay không.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016
Thăm dò ảnh hưởng (nếu có) của châm loa
tai bằng hạt dán đối với các tác dụng phụ của
quá trình gây tê tủy sống.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Sản phụ mổ lấy thai tại khoa Sản bệnh viện
Nhân dân Gia Định

Tiêu chuẩn chọn bệnh
Sản phụ mổ lấy thai từ 18 - 35 tuổi, hậu phẫu
ngày 0.
Tình trạng sức khỏe trước mổ ASA I – II.
Đồng ý hợp tác và tham gia vào nghiên cứu.
Có thể hiểu và sử dụng thang điểm VAS.
Phương pháp vô cảm: gây tê tủy sống có
morphine.
Sử dụng đường
(Pfannensteil).

Mục tiêu cụ thể
Đánh giá hiệu quả giảm đau vết mổ của
châm loa tai bằng hạt dán từ 0 – 48 giờ sau mổ
lấy thai thông qua việc giảm lượng thuốc giảm
đau cần sử dụng.

94


vệ

Bé sinh ra APGAR 5 phút > 7 điểm.
VAS tại lúc tiếp cận là 0 điểm.

Tiêu chuẩn loại trừ
Trạng thái tâm thần kinh không ổn định,
khiếm khuyết nghe, nhìn, phát âm.
Có đau mạn tính trước mổ và/ hoặc sử dụng
thường xuyên các thuốc giảm đau.
Nghiện hoặc phụ thuộc vào các opioid, rượu.
Nhiễm HIV, bệnh đái tháo đường.
Da vùng loa tai có tổn thương.

Tiêu chuẩn ngừng nghiên cứu
Không đồng ý tiếp tục tham gia nghiên cứu.

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá tác dụng giảm đau của châm loa tai
đối với sản phụ sau mổ lấy thai.

mổ ngang trên

Bí tiểu sau sinh cần phải đặt thông tiểu giải
áp.

Phương tiện nghiên cứu
Hạt dán loa taiAcuzone Ear Vaccaria Seed,
xuất xứ Mỹ, là các hạt cây vương bất lưu hành,

đường kính 2mm.
Máy dò huyệt Stimplus Pro, Xuất xứ Mỹ


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm
chứng và không mù.

Cỡ mẫu nghiên cứu

Nghiên cứu Y học
Nếu khi day xong sản phụ hết đau thì tiếp
tục theo dõi.
Nếu khi day xong, sản phụ vẫn đau hoặc sản
phụ đau trở lại trong 15 phút từ lần day trước,
sản phụ được dùng thuốc giảm đau.

Biến số nghiên cứu chính
P1: lượng thuốc giảm đau sử dụng ở nhóm chứng.
P2: lượng thuốc giảm đau mong muốn sử dụng ở nhóm can
thiệp là 70% so với nhóm chứng.
Lực mẫu = 80%
Sai sót α = 0.05 =>Z(1-α/2) = 1.96.

Cho ra cỡ mẫu mỗi nhóm là 28. Nghiên cứu
dự trù mất mẫu 25 % nên lấy cỡ mẫu 35 sản phụ
cho mỗi nhóm.

Phương pháp tiến hành

Tại phòng hồi tỉnh: các sản phụ ngay từ
sau mổ được chuyển ra phòng hồi tỉnh đủ
điều kiện sẽ được tiếp cận tư vấn về nghiên
cứu, nếu đồng ý sẽ được ký vào giấy đồng ý
tham gia nghiên cứu.
Sản phụ đồng ý tham gia nghiên cứu được
phân bố ngẫu nhiên vào 2 nhóm bằng bảng
mã ngẫu nhiên được tạo ra bằng phần mềm
Excel: nhóm 1– nhóm chứng và nhóm 2 nhóm can thiệp.
Sản phụ được theo dõi liên tục trong 48 giờ
sau mổ.
Nhóm chứng
Ghi nhận thời gian sản phụ phục hồi cảm
giác.
Ghi nhận thời gian sản phụ cần dùng giảm
đau lần đầu.
Sản phụ được sử dụng giảm đau bằng thuốc.
Nhóm can thiệp
Ghi nhận thời gian sản phụ phục hồi cảm
giác.
Ghi nhận thời gian sản phụ cần dùng giảm
đau lần đầu.
Sản phụ được giảm đau bằng day hạt đã dán
lên huyệt.

Lượng paracetamol trong 24 giờ đầu sau mổ
là biến định lượng với đơn vị là g.
Lượng Voltaren 100mg sử dụng từ 24 – 48
giờ sau mổ là biến định lượng đơn vị là mg.
Lượng Tramadol là biến định lượng, đơn vị

là mg.

Biến số nghiên cứu phụ
Thời gian phục hồi cảm giác: được tính từ
thời điểm kết thúc mổ đến lúc sản phụ có lại cảm
giác ở vết mổ.
Thời gian sử dụng giảm đau lần đầu: được
tính từ thời điểm kết thúc mổ đến lần đầu tiên
sản phụ cần sử dụng giảm đau bằng thuốc hoặc
day hạt dán.
Điểm VAS vết mổ (Từ đây trở về sau gọi tắt
là điểm VAS)

Theo dõi và đánh giá
Lượng thuốc giảm đau sử dụng được ghi
nhận trong 24 giờ đầu và từ 24 – 48 giờ.
Thời gian phục hồi cảm giác và thời gian lần
đầu tiên sản phụ cần giảm đau.
Điểm VAS lúc nghỉ được theo dõi lúc 12, 24
và 48 giờ. Điểm VAS lúc nghỉ được tính sau khi
sản phụ nằm yên 5 phút.
Điểm VAS vận động được theo dõi lúc 12,
24 và 48 giờ. Điểm VAS lúc vận động được
tính khi sản phụ ho/hắt xì, gập gối lên bụng
(trong 24 giờ đầu) hoặc chuyển từ nằm sang
ngồi (trong 24 giờ sau).

Phân tích và xử lý số liệu
Các số liệu nghiên cứu được phân tích và xử
lý bằng phần mềm SPSS 20.0.


Các huyệt sử dụng
Phế, Tử cung, Bụng, Thần môn, Giao cảm

95


Nghiên cứu Y học
Sử dụng que dò điện tử xác định vị trí
huyệt và tiến hành dán hạt
Cách kích thích huyệt (day hạt) để giảm đau
Ngón cái để ở phía sau tai, ngón trỏ ở phía
trước tai, ép 2 ngón lại và vân vê 40 giây, nghỉ 20
giây, lặp lại trong vòng 5 phút.
Sử dụng cả 2 bàn tay để day 5 huyệt cùng
lúc.
Cảm giác căng, tức ở vị trí day trên loa tai khi
mới bắt đầu day. Cảm giác căng tức giảm cùng
với cơn đau.

Phương pháp giảm đau bằng thuốc
Trong 24 giờ đầu tiên, khi còn đường truyền
tĩnh mạch
Sử dụng 1 chai paracetamol 1 g/100ml truyền
tĩnh mạch. Tối đa 3 g/24 giờ.
Nếu chưa đủ 6 tiếng từ liều paracetamol
trước, sản phụ được sử dụng tramadol đường
tiêm.
24 – 48 giờ sau mổ, khi không còn đường
truyền tĩnh mạch

Sử dụng Voltaren 100mg viên đạn đặt trực
tràng, tối đa 3 viên / 24 giờ
Nếu chưa đủ 8 tiếng từ liều Voltaren trước,
sản phụ được sử dụng tramadol đường tiêm.
Cách sử dụng Tramadol đường tiêm:
Tramadol 100mg/2ml, dùng bơm 10 cc rút
1ml Tramadol, pha với 9 ml nước cất, tiêm mạch
chậm dung dịch sau pha. 2 liều cách nhau 60
phút, tối đa 400mg/24 giờ.

KẾT QUẢ
Đặc điểm chung
Bảng 1 Tuổi, chiều cao, cân nặng
Nhóm Nhóm Nhóm can Phép
p
chứng
thiệp
kiểm t
Đặc tính
Tuổi (năm)*
28 ± 4
28 ± 3
- 0,7 0,43
Chiều cao (cm)*
154 ± 4
154 ± 5
- 1,8 0,06
Cân nặng (kg)*
61 ± 7
64 ± 8

0,8
0,93

*trung bình ±độ lệch chuẩn.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016
Bảng 2.Đặc điểm về trình độ học vấn
Nhóm Nhóm
chứng
Đặc tính
Trung học phổ thông
7
Đại học, cao đẳng
28

2

8
27

χ = 0,085
p = 0,771

Bảng 3.Đặc điểm về nghề nghiệp
Nhóm Nhóm Nhóm can
chứng
thiệp
Nghề nghiệp
2
Lao động trí óc

6
7
χ = 0,094
p
= 0,759
Lao động chân tay
29
28

Bảng 4.Lý do mổ
Nhóm Nhóm Nhóm can
chứng
thiệp
Nguyên nhân
Bất xứng đầu chậu
16
14
Con to
1
1
Vết mổ cũ
12
19
F = 5,46
p = 0,291
Tim thai dao động
4
1
Thai già tháng
1

0
Cổ tử cung không thuận lợi
1
0

Bảng 5.Thời gian, lượng máu mất trong mổ
Nhóm Nhóm
chứng
Đặc tính
Thời gian (phút) *
46 ± 7
Lượng máu mất (ml)*
304 ± 103

Nhóm can Phép
thiệp
kiểm t
49 ± 7
294 ± 85

- 1,46
0,44

*trung bình ± độ lệch chuẩn.
Đặc điểm như tuổi, chiều cao, cân nặng,
trình độ học vấn, nghề nghiệp, lý do mổ, thời
gian và lượng máu mất trong cuộc mổ của sản
phụ thuộc 2 nhóm nghiên cứu khác biệt không
có ý nghĩa thống kê. Như vậy có sự đồng nhất
giữa 2 nhóm, từ đó giúp việc đánh giá so sánh

giữa 2 nhóm được khách quan hơn.
Điểm VAS lúc nghỉ và lúc vận động của 2
nhóm tại các thời điểm đều khác biệt không có ý
nghĩa thống kê. Điều này đảm bảo tính y đức
của nghiên cứu không để sản phụ nào tham gia
nghiên cứu phải chịu đau và mức độ đau của 2
nhóm là tương đương nhau tại các thời điểm.

Lượng thuốc giảm đau sử dụng
Bảng 6.lượng thuốc giảm đau sử dụng
Nhóm
Lượng thuốc
Lượng paracetamol (g)*
Lượng Voltaren (mg)*

Nhóm
chứng
2  0,7
163 ± 49

*trung bình ± độ lệch chuẩn.

96

Nhóm
can thiệp

Nhóm can
thiệp


t

1,1  0,5 6,08
111 ± 32 5,18


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016
Thời gian phục hồi cảm giác và thời gian sử
dụng giảm đau lần đầu
Bảng 7. Thời gian phục hồi cảm giác và thời gian sử
dụng giảm đau lần đầu
Nhóm
Thởi gian
A (giờ)*
B (giờ)*

Nhóm
chứng

Nhóm can
thiệp

1  0,2
9,7 ± 6,1

1,1  0,2
15,1 ± 5,8

t = - 1,667
Z = 3,44


A: thời gian phục hồi cảm giác (giờ); B: thời gian sử dụng
giảm đau lần đầu (giờ); *: trung bình ± độ lệch chuẩn.

Tác dụng phụ của gây tê tủy sống
Bảng 8.Tác dụng phụ của gây tê tủy sống
Nhóm
Triệu chứng
Nôn, buồn nôn
Lạnh run
Ngứa
Đau đầu
Bí tiểu

Nhóm
chứng

Nhóm can
thiệp

9
12
12
1
1

9
14
13
1

1

F = 0,615
p = 0,100

Nhận xét: Các tác dụng phụ của gây tê tủy
sống giữa 2 nhóm khác biệt không có ý nghĩ
thống kê với p > 0,05.

BÀN LUẬN
Hiệu quả giảm đau 48 giờ đầu sau mổ
Kết quả ở bảng 6 cho thấy nhóm can
thiệpgiảm được 45% lượng paracetamol cần
sử dụng trong 24 giờ đầu sau mổ so với nhóm
chứng. Lượng paracetamol trung bình là 2 
0,7 g ở nhóm chứng và 1,1  0,5 g ở nhóm can
thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <
0,001. Đồng thời ở nhóm can thiệp đã giảm
được 32% lượng Voltaren cần dùng từ 24 – 48
giờ sau mổ. Lượng Voltaren trung bình là 163
± 49 mg ở nhóm chứng và 111 ± 32 mg ở nhóm
can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001.
Việc giảm có ý nghĩa lượng thuốc giảm
đau cần thiết từ 0 – 24 giờ, 24 – 48 giờ sau mổ
cho thấy việc day hạt dán loa tai đã có tác
dụng giảm đau.

So sánh với nghiên cứu châm cứu sau mổ vùng
bụng dưới

Khi so sánh với nghiên cứu của Wu(14) về

Nghiên cứu Y học
phương pháp kích thích: nhóm tác giả sử dụng
điện châm kim, chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm 20
sản phụ, nhóm 1 là nhóm chứng chỉ sử dụng
thuốc giảm đau, nhóm 2 kết hợp thuốc giảm đau
và châm cứu, nhóm 3 kết hợp thuốc giảm đau và
điện châm. Nhóm huyệt sử dụng là Tam âm giao
2 bên, nhóm 2 và 3 sau khi châm kim đạt cảm
giác đắc khí thì nhóm 3 mắc điện kích thích sử
dụng tần số là 2 Hz trong 30 phút và chỉ một lần
sau mổ. Hai nghiên cứu có sự tương đồng về cân
nặng, chiều cao của sản phụ, cũng như về thời
gian mổ.
Về hiệu quả: theo Wu thấy rằng nhóm 2 và 3
đều làm giảm được 35 % lượng thuốc giảm đau
cần dùng thêm trong 24 giờ sau mổ, đồng thời,
thời gian lần đầu tiên sử dụng giảm đau của 2
nhóm này cũng dài hơn so với nhóm 1. Nghiên
cứu của chúng tôi sử dụng phương pháp không
xâm lấn, vị trí huyệt ở loa tai, kết quả giảm được
nhiều hơn có thể do: nghiên cứu của Wu sử
dụng điện châm và chỉ kích thích một lần sau
mổ, thời gian kích thích là 30 phút, sau đó không
kích thích châm cứu thêm lần nào nữa. Còn
nghiên cứu chúng tôi, hạt dán được dán lên loa
tai, khi mức độ đau tăng lên thì sản phụ được
tăng cường kích thích bằng cách day hạt dán loa
tai. Điều này có thể lý giải sự khác biệt kết quả

nghiên cứu.
Khi so sánh với nghiên cứu của Chen(3) về
phương pháp kích thích: sử dụng điện châm với
miếng dán điện cực để giảm đau, nghiên cứu
chia 4 nhóm, nhóm 1 giả châm, nhóm 2 kích
thích lên vị trí không phải huyệt, nhóm 3 là cặp
huyệt a thị 2 đầu vết mổ, nhóm 4 là cặp huyệt
Túc Tam Lý 2 bên, kích thích điện châm mỗi 2 –
3 tiếng khi còn thức, mỗi lần 30 phút. Về đối
tượng: bệnh nhân nữ được gây mê phẫu thuật
bụng dưới, khác với đề tài chúng tôi là mổ lấy
thai dưới gây tê tủy sống. Về hiệu quả: nhóm tác
giả, giảm được 35 – 39% lượng thuốc giảm đau
sử dụng trong 24 giờ đầu sau mổ, thời gian mổ
của tác giả Chen cũng lâu hơn, trung bình là 113
± 33 phút so với 49 ± 7 phút. Thời gian mổ kéo
dài hơn, phương pháp vô cảm khác và chấn

97


Nghiên cứu Y học
đoán mổ khác có thể là 2 lý do lý giải cho sự
khác biệt về hiệu quả giảm đau của nghiên cứu
chúng tôi so với tác giả Chen.

So sánh với nghiên cứu sử dụng cùng phương
pháp dán hạt loa tai
So sánh với nghiên cứu của Chang(2)về
phương pháp kích thích: tác giả Chang sử dụng

hạt dán loa tai như nghiên cứu chúng tôi, tuy
nhiên chỉ dán 2 huyệt là Thần môn tai và điểm
dưới vỏ não, một ngày chỉ kích thích huyệt 3 lần,
mỗi lần kích thích 2 huyệt, thời gian kích thích
mỗi huyệt là 3 phút. Nghiên cứu của tác giả
Chang thực hiện trên bệnh nhân mổ thay khớp
gối toàn phần dưới gây mê toàn thân.
Về kết quả, nghiên cứu của Chang đã giảm
được 41% lượng thuốc giảm đau cần sử dụng 24
giờ sau mổ, khác biệt không nhiều so với của
chúng tôi. Nghiên cứu cho rằng sự khác biệt này
có thể do mổ thay khớp gối là phẫu thuật có mức
độ đau ít hơn so với mổ vùng bụng. Đồng thời,
đối tượng mổ thay khớp gối là người lớn tuổi,
trong nghiên cứu của Chang, độ tuổi trung bình
là 71 tuổi, so với chúng tôi là 28 tuối. Theo
Gagliese và cộng sự(6) thì người lớn tuổi có nhu
cầu sử dụng giảm đau ít hơn người trẻ. Chính vì
vậy, mặc dù sử dụng ít huyệt hơn, số lần kích
thích huyệt cũng ít hơn nhưng hiệu quả giảm
đau của tác giả Chang tương đương nghiên cứu
của chúng tôi.
Số lần day huyệt trong một ngày, day cố
định theo giờ hay day huyệt theo nhu cầu. Số
huyệt sử dụng cũng ảnh hưởng đến hiệu quả
giảm đau của phương pháp. Nghiên cứu chúng
tôi mô tả rõ cách day huyệt, cảm giác đạt được
khi mới day và sau khi day một thời gian. Trong
khi các nghiên cứu trước chưa thấy mô tả rõ việc
này. Quá trình này cần được mô tả cụ thể hơn để

dễ tiếp cận, so sánh các nghiên cứu với nhau.
Như vậy để cụ thể hóa, qui trình hóa việc
giảm đau sử dụng hạt dán loa tai cần thêm các
nghiên cứu khác để xác định số lần day huyệt và
số huyệt cũng như cách day huyệt đối với tác
dụng giảm đau của châm loa tai nói chung và

98

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016
day hạt dán loa tai nói riêng.

So sánh với nghiên cứu sử dụng nhĩ hoàn
So với các nghiên cứu sử dụng nhĩ hoàn của
tác giả Usichenko(13), nghiên cứu chúng tôi khác
ở thời gian tiến hành thủ thuật, tác giả
Usichenko tiến hành gài kim trước mổ và rút
kim sau mổ 24 – 36 giờ. Tác giả Usichenko sử
dụng nhĩ hoàn, còn chúng tôi sử dụng hạt dán
loa tai. Cách chọn huyệt của tác giả Usichenko
cũng tương đồng với nghiên cứu chúng tôi, đều
sử dụng huyệt Thần môn tai, Phế và huyệt loa
tai tương ứng với vùng mổ. Cả 2 nhóm nghiên
cứu sử dụng nhĩ hoàn và hạt dán loa tai đều
chứng tỏ khả năng giảm đau của 2 phương pháp
này. Tuy nhiên dán hạt loa tai lại hoàn toàn
không xâm lấn, mức độ an toàn cao hơn so với
nhĩ hoàn.
Việc dán hạt lên huyệt loa tai và kích thích
các hạt này đã làm giảm lượng thuốc giảm đau

sử dụng trong 48 giờ sau mổ, điều này có thể lý
giải do:
Cơ chế của châm loa tai hoặc sử dụng hạt
dán loa tai làm tăng ngưỡng đau(9), tuy nhiên cơ
chế đến nay vẫn chưa được nghiên cứu.
Ngoài ra, theo Cho và cộng sự, khi bệnh
nhân châm cứu được chụp cộng hưởng từ
chức năng thì thấy khi được kích thích trên loa
tai tạo ra tác động tới vỏ não cảm giác bản
thể(4), vùng tham gia vào quá trình cảm nhận
và đáp ứng với đau.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có
trường hợp nào phải sử dụng đến thuốc
tramadol có thể bởi vì đa phần sản phụ đã được
chuẩn bị tâm lý sinh mổ, đồng thời quy trình gây
tê tủy sống với morphine đã giúp cho sản phụ
giảm đau tốt hơn(16) và duy trì mức độ đau ổn
định với các thuốc giảm đau thông thường như
paracetamol và thuốc kháng viêm không steroid.

Thời gian phục hồi cảm giác
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 7 cho thấy thời
gian phục hồi cảm giác ở 2 nhóm là tương
đương nhau, khác biệt không có ý nghĩa thống
kê với p > 0,05. Sự tương đồng về thời gian phục


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016
hồi cảm giác đảm bảo rằng tất cả các sản phụ
đều được vô cảm tốt trong cuộc mổ, điều này sẽ

không ảnh hưởng đến nhu cầu thuốc giảm đau
sau mổ.
So với các nghiên cứu gây tê tủy sống để mổ
lấy thai khác như của Lê Thị Hồng Hoa(10) thì thời
gian tê khi phối hợp bupivacaine và fentanyl là
100 ± 13,58 phút. Ở nghiên cứu chúng tôi thấp
hơn do khác thời điểm tính. Nghiên cứu của Lê
Thị Hồng Hoa bắt đầu tính ngay từ sau gây tê
còn nghiên cứu này tính từ ngay sau kết thúc
cuộc mổ.

Thời gian sử dụng giảm đau lần đầu
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 7cho thấy thời
gian sử dụng giảm đau lần đầu của nhóm can
thiệp kéo dài hơn 55% so với nhóm chứng (15,1 ±
5,8 giờ so với 9,7 ± 6,1 giờ), sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,01.
Thời gian sử dụng giảm đau lần đầu có ý
nghĩa gì trong nghiên cứu? Để đảm bảo y đức
nên VAS >= 3 điểm được xem là cần thiết phải
giảm đau. Trong cuộc mổ dưới gây tê tủy sống
đã có morphine giúp giảm đau sau mổ. Vì vậy,
sau cuộc mổ, khi tác dụng của morphine hết dần
thì mức độ đau của sản phụ sẽ tăng dần từ 0 lên
1, lên 2 và cuối cùng lên 3 điểm VAS. Đây chính
là thời điểm đầu tiên mà sản phụ bắt buộc phải
có biện pháp giảm đau.
Kết quả ở nhóm chứng thấp hơn so với
nghiên cứu của Yang(15) với thời gian trung bình
cho lần yêu cầu thuốc giảm đau đầu tiên là 700

phút tương đương với 11,7 giờ mặc dù đều nhận
được 0,1 mg morphine trong tê tủy sống. Sự
khác biệt này có thể do trong nghiên cứu của
Yang, ở cuối cuộc mổ, sản phụ đã được sử dụng
thêm 100 mg Indomethacin và 500 mg naproxen
uống vào ngày mổ.
Ở nhóm can thiệp, thời gian sử dụng giảm
đau lần đầu tiên được kéo dài hơn so với nhóm
chứng đến 55% trong khi cả 2 nhóm đều tương
đương về thời gian phục hồi cảm giác.
Trong thời gian theo dõi này, nghiên cứu
viên hoàn toàn không có tác động kích thích

Nghiên cứu Y học
lên huyệt cho sản phụ ở nhóm can thiệp. Hai
nhóm có cùng thời gian phục hồi cảm giác, các
biến số nền cũng tương đương với nhau. Sau
khi sản phụ phục hồi cảm giác thì ở nhóm can
thiệp được tiến hành châm loa tai bằng hạt
dán.Vậy sự kéo dài thời gian sử dụng giảm
đau lần đầu này là có phải do việc dán hạt lên
huyệt loa tai hay không?
Nghiên cứu cho rằng việc kéo dài thời gian
này là do việc dán hạt lên huyệt loa tai bởi vì:
Đối với thể châm thì vị trí các huyệt thường
ở sâu dưới da, khi châm cứu cần châm sâu ít
nhất 0,5 thốn, 1 thốn như các huyệt ở vùng mặt
hoặc sâu hơn như huyệt ở vùng cơ dày. Nhưng
đối với châm loa tai, cấu trúc giải phẫu loa tai
cho thấy lớp da rất mỏng và ngay bên dưới là

sụn, nên việc kích thích huyệt loa tai chỉ là châm
sâu 0,5 – 2 mm(11). Việc dán hạt lên huyệt loa tai
với các hạt có đường kính 1– 2 mm, miết băng
keo khi dán hạt đã tạo một lực ấn hạt vào loa tai
kéo dài liên tục, điều này đã có thể tạo một kích
thích nhẹ, liên tục lên huyệt được dán. Chính vì
vậy sau khi dán hạt lên huyệt loa tai thì thời gian
sử dụng giảm đau lần đầu ở nhóm can thiệp mới
kéo dài hơn 55% so với nhóm chứng.

Tác dụng khác của châm loa tai
Việc dán hạt lên huyệt loa tai ở sản phụ là an
toàn. Trong nghiên cứu không ghi nhận được
trường hợp nào bị dị ứng như ngứa, nổi mẩn đỏ
ở vùng dán hạt loa tai.

Tác dụng phụ tê tủy sống
Tỷ lệ nôn, buồn nôn, bí tiểu, ngứa, đau đầu,
lạnh run ở 2 nhóm không khác biệt nhau.
Các trường hợp nôn, buồn nôn trong nghiên
cứu xuất hiện trong vòng 1 giờ đầu sau mổ, số
lần nôn tối đa là 2 lần và bệnh nhân tự ổn định,
không cần phải sử dụng thuốc chống nôn. Nôn
và buồn nôn có thể dó nguyên nhân giảm huyết
áp trong mổ, do lôi kéo nội tạng trong lúc bắt
con, nhưng đa phần do tác dụng phụ của
morphine như nghiên cứu của Hasset(8) và
Zand(16) do kích thích trực tiếp lên vùng kích

99



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016

hoạt thụ thể hóa học gây nôn ở vùng sau của tủy
(postrema of medulla)(7).

dụng phụ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm
lý của sản phụ và ảnh hưởng tới ngưỡng đau.

Các trường hợp bí tiểu đều xuất hiện ở ngày
hậu phẫu 1, sau khi rút ống thông tiểu và đều
tiểu được sau khi tập tiểu và chườm ấm vùng hạ
vị. Không có trường hợp nào phải đặt ống thông
tiểu trở lại. Bí tiểu này có thể do tác dụng phụ
của morphine khi nó làm giảm phản xạ tống
xuất nước tiểu của bàng quang, tăng trương lực
cơ vòng bàng quang và tăng thể tích bàng
quang(7), ngoài ra còn do ức chế thụ thểμ hoặc δ
ở não bộ hoặc tủy sống cũng ảnh hưởng tới sự co
bóp của bàng quang(5).

Như vậy, việc châm loa tai tạo ra các á phiện
nội sinh hiệp đồng với morphine giúp làm giảm
đau tốt hơn nhưng không làm tăng các tác dụng
phụ của morphine. Điều này cũng phù hợp và
củng cố thêm nhận xét về tính an toàn cao của
việc châm loa tai sử dụng hạt dán như nhận xét

của tác giả He(9).

Tất cả các sản phụ đa phần ngứa ở mặt, cổ, 2
tay và ngực trên. Ngứa này được cho là do
phóng thích histamine sau khi sử dụng
morphine(7). Trong 25 trường hợp ngứa của 2
nhóm, toàn bộ sản phụ đều ở mức độ chịu đựng
được sau khi được giải thích và bớt ngứa sau
khoảng 1 tiếng mà không cần sử dụng thêm
thuốc nào.
Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 1 sản
phụ ở mỗi nhóm có biểu hiện đau đầu, mức
độ thoáng qua, kéo dài khoảng 15 phút và tự
hết, không cần sử dụng thuốc gì thêm. Đau
đầu xuất hiện khi bệnh nhân chuyển về trại và
ngóc đầu dậy nhìn vết mổ. Vấn đề không ngóc
đầu dậy trong 24 giờ đầu được dặn dò sản
phụ kỹ lưỡng nhằm tránh tình trạng tăng áp
lực tưới máu não do giảm áp lực nội sọ. Đây
chỉ là 2 trường hợp cá biệt.
Về nguyên nhân gây lạnh run sau mổ có thể
do nhiệt độ phòng mổ thấp, phơi bày sản phụ
khi mổ, hoặc có thể do tác dụng dãn mạch ngoại
biên của thuốc tê.
Những sản phụ này khi ra phòng hồi sức
được chiếu đèn hồng ngoại, ủ ấm bằng chăn, sau
khoảng 30 - 45 phút đều ổn định, hết lạnh run.
Tóm lại, tỷ lệ các tác dụng phụ của gây tê tủy
sống ở 2 nhóm là tương đương nhau, điều này
đảm bảo cho việc nghiên cứu hiệu quả giảm đau

của châm cứu được rõ ràng hơn bởi vì các tác

100

KẾT LUẬN
Kỹ thuật châm loa tai kết hợp với thuốc giảm
đau trên sản phụ sau mổ lấy thai được tiến hành
trong 6 tháng tại khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức
và khoa Sản C – bệnh viện Nhân dân Gia Định
cho thấy:
Châm loa tai bằng cách sử dụng hạt dán
giảm 45% lượng thuốc giảm đau cần sử dụng
trong 24 giờ đầu sau mổ và giảm được 32%
lượng thuốc giảm đau từ 24 – 48 giờ sau mổ so
với nhóm chứng.
Châm loa tai bằng cách sử dụng hạt dán
không ảnh hưởng đến tác dụng phụ của gây tê
tủy sống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.


6.

7.

Barker R et al.(2006). Out-of-hospital auricular acupressure in
elder patients with hip fracture: a randomized double-blinded
trial.Acad Emerg Med. 13(1): p. 19-23.
Chang LH et al.(2012). Auricular acupressure for managing
postoperative pain and knee motion in patients with total
knee replacement: a randomized sham control study.Evid
Based Complement Alternat Med. 2012: p.528452.
Chen L et al.(1998). The effect of location of transcutaneous
electrical nerve stimulation on postoperative opioid analgesic
requirement: acupoint versus nonacupoint stimulation.Anesth
Analg. 87(5): p. 1129-1134.
Cho ZH, et al(2002). Acupuncture: the search for biologic
evidence with functional magnetic resonance imaging and
positron emission tomography techniques.J Altern Complement
Med. 8(4): p. 399-401.
Dray A, Nunan L(1987). Mu and delta opioid ligands inhibit
reflex contractions of the urinary bladder in the rat by different
central mechanisms.Neuropharmacology. 26(7A): p.753-759.
Gagliese L., et al. (2000). Age is not an impediment to effective
use
of
patient-controlled
analgesia
by
surgical
patients.Anesthesiology. 93(3): p. 601-610.

Goodman LS, et al.(2006). Goodman & Gilman's the
pharmacological basis of therapeutics. 11th ed. New York:
McGraw-Hill. xxiii, 2021 p.p. 559 - 563


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016
8.

9.

10.

11.
12.

Hassett P, et al.(2008). Determination Of The Efficacy And
Side-effect Profile Of Lower Doses Of Intrathecal Morphine In
Patients Undergoing Total Knee Arthroplasty.BMC
Anesthesiol. 8: p. 5.
He BJ, et al. (2013). Auricular acupressure for analgesia in
perioperative period of total knee arthroplasty.Pain Med.
14(10): p. 1608-1613.
Lê Thị Hồng Hoa, Nguyễn Văn Chừng, (2004). Gây tê tủy
sống với Bupivacain và Fentanyl trong mổ cắt đốt nội soi tiền
liệt tuyến. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 8 (Phụ bản số
1): tr. 58.
Phạm Văn Cự, Phạm Quang Minh (1994). Liệu pháp loa tai.
NXB Y học TP Hồ Chí Minh, tr. 45.
Santoro A, et al.(2015). Auricular Acupressure Can Modulate
Pain Threshold.Evid Based Complement Alternat Med. 2015: p.

457390.

Nghiên cứu Y học
13.

14.
15.

16.

Usichenko TI, et al., (2007). Auricular acupuncture for pain
relief after ambulatory knee surgery: a randomized trial.
CMAJ. 176(2): p. 179-183.
Wu HC, et al.(2009). Effects of acupuncture on post-cesarean
section pain.Chin Med J (Engl). 122(15): p. 1743-1748.
Yang T, et al.(1999). Comparison of 0.25 mg and 0.1 mg
intrathecal morphine for analgesia after Cesarean section.Can J
Anaesth. 46(9): p. 856-860.
Zand F, et al.(2015). The effect of methylnaltrexone on the side
effects of intrathecal morphine after orthopedic surgery under
spinal anesthesia. Pain Pract. 15(4): p. 348-354

Ngày nhận bài báo:

30/08/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

20/09/2016


Ngày bài báo được đăng:

25/11/2016

101


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 6 * 2016

KHẢO SÁT TÁC DỤNG CỦA CHẾ PHẨM TỪ NGHỆ ĐEN
(VIÊN VỊ AN) TRÊN CÁC THỰC NGHIỆM GÂY LOÉT DẠ DÀY
Nguyễn Thị Thu Hương*, Chung Thị Mỹ Duyên*, Trần Mỹ Tiên*

TÓM TẮT
Tình hình chung và mục tiêu nghiên cứu: Theo điều tra của Hội Khoa học Tiêu hóa Việt Nam, 70% người
Việt có nguy cơ bị đau dạ dày và viêm loét dạ dày chiếm khoảng 26% các bệnh ở đường tiêu hóa. Tác dụng bảo vệ
dạ dày của nghệ vàng và hợp chất chính là curcumin đã được chứng minh trên lâm sàng trong việc cải thiện chất
lượng sống của bệnh nhân bị loét dạ dày. Nghệ đen (Curcuma zedoaria), một dược liệu thuộc họ Gừng, đã được
sử dụng phổ biến trong y học dân gian. Mục đích của đề tài là khảo sát tác dụng của chế phẩm từ nghệ đen (gọi
tắt là viên Vị an) trên các bệnh cảnh gây loét dạ dày thực nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu: Các tổn thương đại thể và vi thể dạ dày, chỉ số loét và hàm lượng
malondialdehyd (MDA) và glutathion (GSH) trong dịch đồng thể niêm mạc dạ dày được đánh giá trên các thực
nghiệm gây viêm loét dạ dày ở chuột nhắt trắng chủng Swiss albino bằng rượu, stress bất động lạnh hay bằng
aspirin. Hoạt tính kháng Helicobacter pylori in vitro được thực hiện trên các chủng vi khuẩn được phân lập từ
bệnh phẩm bệnh nhân bị loét dạ dày.
Kết quả: Viên Vị an (liều 2 viên/kg) làm giảm chỉ số loét dạ dày đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng bệnh lý.
Viên Vị an liều 1 viên/kg thể hiện tác dụng hiệp lực với omeprazol và ranitidin trong thực nghiệm gây loét dạ dày
bằng stress bất động lạnh hay bằng aspirin. Khảo sát mô học thành dạ dày chuột được cho uống viên Vị an cho

thấy có sự giảm tổn thương xuất huyết và làm tăng tiết chất nhầy bảo vệ niêm mạc.Ngoài raviên Vị an làm giảm
hàm lượng MDA và tăng hàm lượng GSH trong dịch đồng thể dạ dày, đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng bệnh
lý. Viên Vị an thể hiện hoạt tính kháng Helicobacter pylori in vitro với MIC là 0,25 g/ml.
Kết luận: Viên Vị an, một chế phẩm từ nghệ đen, có tác dụng bảo vệ dạ dày trước các tổn thương loét thực
nghiệm.
Từ khóa: Nghệ đen Curcuma zedoaria, Viên Vị an, tác dụng bảo vệ dạ dày, chỉ số loét, malondialdehyd,
glutathion

ABSTRACT
STUDY ON THE GASTROPROTECTIVE EFFECT OF A PREPARATION FROM CURCUMA
ZEDOARIA (“VI AN” CAPSULES) ON GASTRIC ULCER MODELS
Nguyen Thi Thu Huong, Chung Thi My Duyen, Tran My Tien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 6 - 2016:102 - 109
Background and Aims: According the survey of Vietnamese Intestinal Association, 70% Vietnamese people
have subjected the incidence of gastric pain and gastric ulcer rate is approximate 26% in gastrointestinal diseases.
The gastro protective potentials of Curcuma longa and its main component curcumin might protect patients from
gastrointestinal ulcer thereby improving the quality of life for patients. Curcumazedoaria is a medicinal plant
from the Zingiberaceae family, which is widely used as folk medicine. The aim of the present study is to investigate
the gastro protective activity of “Vi an” capsules contained Curcuma zedoaria, honey and turmeric essential oil,
against gastric ulcers in mice.
Methods: To determine the gastro protective effect of “Vi an” capsules, gross and histological gastric lesions,
* Trung tâm Sâm và Dược liệu TP.HCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hương

102

ĐT: 08.38274377

Email:




×