TRƯƠNG ĐAI HOC LÂM NGHIÊP
̀
̣
̣
̣
TIÊU LUÂN MÔN KINH TÊ VI MÔ
̉
̣
́ ̃
Phân tích môt sô giai gi
̣ ́ ̉
ải pháp kiềm chế lạm phát được nêu trong Nghị quyết số
11/NQCP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội
Giang viên h
̉
ương dân
́
̃
Hoc viên th
̣
ực hiên:
̣
Lơp:
́
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế dất nước đầu năm 2011, nói đến kinh tế vĩ mô là chúng ta
nói đến lạm phát, tăng trưởng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại, cán cân
vãng lai và cán cân thanh toán tổng thể, tỷ lệ giữa đầu tư và tích lũy, tỷ lệ thất nghiệp,
biến động tỷ giá và dự trữ ngoại hối ….phân tích đặc điểm kinh tế đầu năm 2011 cho
thấy lạm phát tăng cao trong nhiều năm
Sau một thời gian dài bị lãng quên, gần đây lạm phát ở Việt nam lại bắt đầu được
một số các nhà kinh tế trong nước và ngoài nước đưa ra tranh luận. Sở dĩ vấn đề này
được quan tâm vì gần đây chỉ số giá tiêu dùng trong nền kinh tế tăng đột biến trong nửa
đầu năm nay, CPI tăng 7,2% và dự đoán có thể còn tiếp tục tăng vào những tháng cuối
năm ở mức hai con số là hoàn toàn có thể. Điều này đã vượt qua kế hoạch kiềm chế lạm
phát ở mức 5% như kế hoạch đầu năm của Quốc Hội. Trước tình hình thực tế như vậy,
phản ứng trong chính sách điều hành kinh tế cũng đã rất nhanh nhạy, kịp thời. Ngay trong
tháng 2/2011, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 11/NQCP, chuyển trọng tâm điều hành
chính sách sang “tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội”. Quan điểm chỉ đạo này được khẳng định tại Kết luận số 02KL/TW ngày 16/3/2011
của Bộ Chính trị là: “Tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiêm chê lam phat;
̀
́ ̣
́ ổn định kinh
tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm
2011, vừa là nhiệm vụ quan trong c
̣
ủa một vài năm tiếp theo”. Bài viết dưới đây sẽ cho
chúng ta thấy thực trạng lạm phát và các chính sách kiềm chế lạm phát trong nghị quyết
11/NQCP của chính phủ.
2
Phân 1
̀
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Khái niệm về lạm phát
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho
chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. Hay nói cách
khác, lạm phát là việc giá cả các hàng hóa tăng lên so với mức giá ở thời điểm trước (vật
giá leo thang). Đó là sự gia tăng giá chung của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ, không
phải của chỉ một số hàng hóa cá biệt. Việc tăng mức giá chung đồng nghĩa với sức mua
của đồng tiền giảm đi. Hay nói cụ thể hơn là với cùng một lượng tiền nhưng người tiêu
thụ mua được ít hàng hóa hơn so với trước đây.
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm
phát trái ngược với lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái. Nguyên
nhân chính của giảm phát là do tổng cầu giảm, Có thể dùng sơ đồ ADAS để minh họa
điều này.
Ban đầu tổng cầu tương ứng với đường AD. Điểm cân bằng của nền kinh tế là
điểm E tại giao điểm của hai đường AD và đường AS (đường tổng cung). Sau đó, tổng
cầu giảm, đường AD dịch chuyển song song sang trái thành đường AD' cắt đường AS ở
điểm E'. E' là điểm cân bằng mới của nền kinh tế và so với điểm cân bằng cũ E, sản
lượng và mức giá chung đều giảm.
1.2 Cách đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát mà nó là suất tăng của mức giá tổng
quát theo thời gian. Vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá tổng quát được tính toán như thế
nào?
3
Hai thước đo thông dụng phản ánh mức giá tổng quát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
và chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator).
1.2.1 Chỉ số giá tiêu dùng CPI
CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát . CPI đo
lường mức giá trung bình của 1 nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ
gia đình trong 1 giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị hiện
tại và giá trị tại kỳ gốc của rổ hang hoá đã được chọn theo quy định:
Ưu điểm: Cho phép so sánh sự biến động mức giá tiêu dùng theo thời gian.
Nhược điểm: Không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cầu tiêu dùng , đồng
thời cũng không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hoá dịch vụ.
Ở Việt Nam , CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá bình
quân được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng và cho cả năm và được công bố
cùng chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ.
1.2.2 Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội GDP
Chỉ số giảm phát GDP là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của
tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết
một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so
với mức giá của năm cơ sở.
Ưu điểm: Phản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau.
Nhược điểm: Chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì
GDP chỉ tính sản phẩm trong nước) , không phản ánh được sự giảm sút phúc lợi của
người tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng nào đó.
1.3 Nguyên ngân của lạm phát
Khi nghiên cứu nguyên nhân của lạm phát, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm
khác nhau do tiếp cận nó ở nhiều góc độ. Tuy vậy, tựu trung lại có các quan điểm sau:
1.3.1 Lạm phát do cầu kéo
Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức
cầu dẫn tới lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu. Số cầu tăng
là do tổng khối lượng tiền lưu hàng (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng.
số lượng tiền tệ tăng do nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn hết và thường xảy ra
4
hơn hết là do thiếu hụt ngân sách nhà nước. Thiếu hụt này được tài trợ bằng nhiều
cách: phát hành trái phiếu, vay mượn ở nước ngoài và nay mượn ở ngân hàng trung
ương.
1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố
sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, chúng ta gọi đó là lạm phát do chi phí đẩy. vấn đề
đặt ra là tại sao chi phí tăng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một
nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền ltrong cao hơn tốc độ tăng năng suất
lao động. Một số nhà kinh tế cho rằng việc đẩy chi phí tiền ltrong tăng lên là do các công
đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác lại cho rằng chính công đoàn đã đóng
vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và giữ cho lạm phát
không giảm xuống quá nhanh vì các họp đồng ltrong của công đoàn thường là dài hạn và
khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như
dầu mỏ, sắt thép... cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên,
dẫn đến sức ép đòi tăng giá bán.
1.3.3 Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung
Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công,
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... gần như đã được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung
hàng hóa và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng
tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân
đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều
phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên
của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu.
Cũng cần lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ
cấu kinh tế tổ chức bất họp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hóa và
dịch vụ đầy đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường họp này
cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát.
1.3.4 Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
* Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù họp của nhà nước
như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất... làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất
cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân
sách nhà nước bị thâm hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền.
Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ
trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế.
* Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị
trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới...
5
Phân 2
̀
TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
NĂM 2011
2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế Việt Nam năm 2011
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước
ta liên tục tăng trưởng với tỷ lệ cao trên 7% trong hơn 20 năm qua (trong 5 năm 20032007
GDP tăng bình quân trên 8%/năm), đã bảo đảm kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng
kinh tế khá (bình quân đạt 7,3% thời kỳ 20012010), GDP năm 2010 gấp 2 lần năm 2000,
nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ
lệ hộ nghèo giảm nhanh và đã hoàn thành hầu hết mục tiêu Thiên niên kỷ cam kết với
quốc tế, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững...
Thế nhưng, ngay sau khi Đại hội XI bế mạc (19/1/2011), tình hình kinh tế đã
nhanh chóng xuất hiện những dấu hiệu bất ổn. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế
cùng những nhiệm vụ của đổi mới thể chế chưa được giải quyết dồn tích lại từ nhiều
năm trước đã bộc lộ ra một cách gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết một cách hệ
thống, căn bản và cấp bách. Trên bề mặt của đời sống kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng của
năm 2011 đã tăng lên 1,5 lần so với mức lạm phát của năm trước (từ mức 11,75% của
năm 2010 lên 18,13%). Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng lên, đặc biệt trong lĩnh
vực bất động sản, trực tiếp gây ra tình trạng rủi ro, bất ổn đe dọa hệ thống ngân hàng.
Số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng cao hơn trước… Kinh tế thế giới
cũng xuất hiện nhiều diễn biến xấu, lạm phát tăng, giá dầu thô, nguyên vật liệu cơ bản
đầu vào của sản xuất, lương thực, thực phẩm trên thị trường tiếp tục tăng cao. Sau
khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI trong năm 20102011
Trước tình hình thực tế như vậy, phản ứng trong chính sách điều hành kinh tế
cũng đã rất nhanh nhạy, kịp thời. Ngay trong tháng 2/2011, Chính phủ đã ra Nghị quyết số
6
11/NQCP, chuyển trọng tâm điều hành chính sách sang “tập trung kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”. Quan điểm chỉ đạo này được khẳng định tại
Kết luận số 02KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị là: “Tập trung ưu tiên hàng đầu
cho việc kiêm chê lam phat;
̀
́ ̣
́ ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội; coi đây vừa
là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trong c
̣
ủa một vài
năm tiếp theo
2.2 Thực trạng lạm phát trong năm 2011
Tính chung từ đầu năm, lạm phát của cả nước đã tăng 15,68% so với thời điểm
cuối năm 2010. So với cùng kỳ năm ngoái, mặt bằng giá hiện tại đã cao hơn 23,02%.
Nhìn chung lạm phát nước ta đã có xu hướng tăng đáng kể từ đầu năm. Chỉ số giá tiêu
dùng CPI tăng mạnh từ tháng 1 với 1,78% so với tháng trước và đỉnh điểm mức 3,32 ở
tháng 4. Thời gian tiếp theo chỉ số CPI có xu hướng giảm khi các thời điểm tháng 5, 6, 7
có giá trị lần lượt so với tháng trước là 2,21%, 1,09%, 1,17%. Đặc biệt với 2 tháng 8, 9
con số này đã giảm xuống dưới 1% hạn chế sự tăng trưởng của lạm phát.
Đỉnh cao của lạm phát 9 tháng đầu năm 2011 rơi vào tháng 4 với tỷ lệ 9,64% so
với cuối năm 2010, vượt xa ngương 7% ma chinh phu đăt lam muc tiêu cho ca năm vào
̃
̀ ́
̉ ̣ ̀
̣
̉
thời điểm đó. Nêu so v
́
ơi cung ky năm ngoai, lam phat đa lên t
́ ̀
̀
́ ̣
́ ̃
ới 17,51%, cao hơn mưć
đinh lam phat 16% ma Ngân hang Phat triên A châu đ
̉
̣
́
̀
̀
́
̉
́
ưa ra cho Viêt Nam.Nhóm hàng và
̣
dịch vụ giao thông tăng gia manh, t
́ ̣
ơi 6,04%.
́
Chỉ số giá tiêu dùng cả nước sau tháng 4 đã có xu hướng giảm xuống và tăng
2,21% trong tháng 5. Tuy tốc độ tăng có chậm lại so với tháng 4 nhưng mặt bằng giá hiện
tại, so với đầu năm và cùng kỳ 2010, đã cao hơn lần lượt là 12,07% và 19,78%. Đến
tháng 6 CPI tăng 1,09 so với tháng 5, nâng tổng mức lạm phát từ đầu năm đến thời điểm
đó lên 13,29% và cùng kỳ năm 2010 là 20,82. Sang tháng 7 CPI tăng nhẹ có giá trị 1,17 so
với tháng 6. Tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước chỉ tăng 0,93% nhờ sự giảm nhiệt
đáng kể của nhóm hàng ăn – dịch vụ ăn uống. Lạm phát tăng thấp nhất kể từ đầu năm là
tháng 9 với chỉ số tiêu dùng CPI tăng chỉ là 0,82 so với tháng trước.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đà tăng giá tại nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống tiếp giảm tốc khi chỉ tăng 0,28% trong tháng 9 (con số tương ứng của 2 tháng trước
7
đó là 2,12% và 1,35%). Với quyền số khoảng 40% trong rổ hàng hóa tính CPI, nhóm này
đã có tác động lớn đến việc kiềm chế đà tăng của chỉ số giá (tăng tổng cộng 16,63% kể
từ đầu năm). Chỉ số giá ở nhóm giáo dục tăng rất mạnh, lên tới 8,62% trong tháng 9. Tuy
nhiên, con số này vẫn thấp hơn so với mức 12% của cùng kỳ 2010. Bên cạnh bưu chính
viễn thông có xu hướng giảm khá đều trong nhiều tháng qua, giao thông là nhóm hàng thứ
2 giảm giá trong tháng này do tác động của quyết định giảm giá xăng vào cuối tháng 8.
Mức giảm tại 2 nhóm này lần lượt là 0,07% và 0,24%.
Biểu đồ giá của các nhóm trong tháng 5/2011.
(Nguồn: GSO, NDHMoney)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 tăng 18,13%. Chỉ số giá
tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010.
Ngoài các mặt hàng nói trên, tất cả các nhóm còn lại trong rổ hàng hóa đều có xu
hướng tăng nhẹ. Nhóm duy nhất tăng giá trên 1% là hàng hóa dịch vụ khác (do có sự góp
mặt của các mặt hàng trang sức, vốn chịu tác động mạnh của giá vàng).
2.3 Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam trong năm 2011
2.3.1 Nguyên nhân khách quan
Năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011, lạm phát trong nước vẫn nối đà tăng cao của
các năm trước đó. Không thể phủ nhận, lạm phát tăng cao như vậy một phần là do những
nguyên nhân khách quan đến từ thị trường thế giới cũng như trong nước:
Giá nhiều loại hàng hóa nguyên, nhiên vật liệu chủ chốt như xăng dầu, phôi thép,
khí dầu mỏ... trên thị trường thế giới tăng cao đã tác động đến giá xăng dầu, thép xây
dựng, gas, phân bón... trong nước tăng cao, điều này ảnh hưởng đến cho chi phí sản xuất,
hay còn gọi là “chi phí đẩy”.
Giá vàng trên thị trường thế giới tăng đột biến cũng khiến giá vàng trong nước
tăng mạnh gây tâm lý tăng giá lan tỏa sang các hàng hóa tiêu dùng khác trên thị trường.
Dịch bệnh trên vật nuôi lan rộng và kéo dài (có thời kỳ cả nước có 30/63 tỉnh
thành có dịch bệnh) làm giảm mạnh nguồn cung thực phẩm và gia tăng chi phí chăn nuôi.
Ngoài ra, tình hình thời tiết khắc nghiệt trong một số giai đoạn cũng ảnh hưởng đến hoạt
8
động sản xuất nông nghiệp và vì vậy ảnh hưởng đến nguồn cung nông sản thực phẩm
tại một số thời điểm gây tăng giá hàng hóa.
Sức hút từ thị trường các nước lân cận (Trung Quốc, Lào, Campuchia) do chênh
lệch giá một số mặt hàng khi trong nước thực hiện các chính sách bình ổn giá. Thời gian
qua, nhiều mặt hàng, nhất là ở các mặt hàng lương thực, xăng dầu, thực phẩm như thịt
lợn, thủy sản, đã bị thu gom và xuất khẩu qua biên giới cũng góp phần làm mất cân đối
nguồn cung hàng hóa trong nước.
Việc điều chỉnh lương cơ bản (lương tối thiểu) làm chi phí sản xuất bị đẩy lên
gây ra lạm phát
Có thể thấy, lương cơ bản vẫn tăng đều trong các năm từ năm 2009 đến năm 2011,
vậy tại sao chỉ trong các năm từ năm 2007 trở lại đây, lạm phát mới cao lên đột biến
Từ những lý do trên, rõ ràng không thể nói những nguyên nhân khách quan là yếu
tố chính làm nên tình hình lạm phát căng thẳng như hiện nay, mà nguyên nhân chính phải
nằm ở những yếu tố nội tại của nền kinh tế.
2.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Lạm phát luôn có nguyên nhân từ tiền tệ, ở Việt Nam, không khó để nhận ra chính
sách tiền tệ đã có sự nới lỏng quá mức trong các giai đoạn trước đó, và hệ luỵ của nó là
tỷ lệ lạm phát cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011.
Sự thiếu bài bản trong chính sách điều hành nền kinh tế như: tăng giá đồng loạt
nhiều hàng hoá quan trọng, phá giá tiền tệ một cách giật cục đã góp phần khuếch đại tình
trạng lạm phát của Việt Nam.
Chi tiêu công và sự độc lập của NHNN
Chi tiêu công mà cụ thể là những khoản chi tiêu và đầu tư kém hiệu quả của Chính
phủ thông qua các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chính là nguyên nhân chủ quan quan
trọng nhất.
Những khoản đầu tư thua lỗ, việc sử dụng đồng tiền một cách lãng phí khu vực
kinh tế Nhà nước đã dẫn đến tình trạng mặc dù là khu vực được tập trung nhiều vốn
9
nhất nhưng chỉ đóng góp khoảng 10% vào nguồn thu của Ngân sách Nhà nước mỗi năm,
góp một phần không nhỏ cho tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên của Việt Nam:
Ngân sách không dư thừa, nhưng thời gian qua, đặc biệt là trong năm 2010 để phục
vụ cho mục tiêu tăng trưởng, Chính phủ lại tiếp tục hùn vốn cho chi tiêu công, cho khu
vực hoạt động kém hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu các DN này đi vay một cách
công bằng trên thị trường tài chính, hiển nhiên theo lý luận kinh tế sẽ làm tăng cầu quỹ
cho vay, đẩy lãi suất lên từ đó có ảnh hưởng tích cực đến lạm phát, nhưng ở đây lại nổi
lên vấn đề về tính độc lập của NHNN. Chính sách tiền tệ của NHNN đưa ra trong các
năm qua luôn gắn kèm hai mục tiêu gần chẳng thế nào thực hiện được cùng lúc: tăng
trưởng kinh tế, đi đôi với kiềm chế lạm phát; thế là khi Chính phủ đánh tiếng thiếu vốn
để tăng trưởng kinh tế, NHNN lại phải đi mua các trái phiếu đã bán từ hệ thống NHTM,
đưa thêm tiền vào hệ thống này, việc liên tục tung tiền ra lưu thông trong khi lạm phát
vẫn tăng cao là kịch bản lặp đi lặp lại trong nhiều năm trở lại đây:
Như vậy có thể nói, lạm phát tăng cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm
2011 là kết quả của chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian trước đó, mà một phần rất
lớn lượng tiền đó là để phân bổ cho các hoạt động chi tiêu công.
10
Khả năng điều hành nền kinh tế
Chính sách tài khoá mở rộng là nguyên nhân chính làm nảy sinh lạm phát, nhưng
để có được mức lạm phát cao như trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011, một
phần trách nhiệm thuộc về chính sách điều hành nền kinh tế một cách thiếu bài bản của
Chính phủ, cụ thể gồm:
Liên tục phá giá đồng tiền Việt.
Tăng giá đồng loạt và đột ngột 2 hàng hoá quan trọng là điện và xăng dầu.
+ Phá giá tiền tệ đột ngột
Tính từ thời điểm năm 2010 đến nay, NHNN đã có tổng cộng 3 lần phá giá đồng
VND. Ngày 11/2, Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng mạnh tỷ giá USD/VND tới 9,3%.
Nỗ lực giữ ổn định tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước vào trước đó đã khiến dự trữ ngoại
hối tại thời điểm quý 1/2011 chỉ còn lại tương đương 3,5 tuần nhập khẩu. Tuy nhiên,
căng thẳng ngoại tệ không thuyên giảm, chênh lệch tỷ giá chính thức và chợ đến lên đến
10% là nguyên nhân chính dẫn tới việc điều chỉnh tỷ giá nói trên.
Thời gian
Tỷ giá USD/VND
Tỷ giá USD/VND
trước khi phá
sau khi phá giá
giá
Biên độ
giao dịch
Tỷ lệ %
VND bị phá
giá
11/2/2010
17.941
18.544
+/3%
3,36%
18/8/2010
18.544
18.932
+/ 3%
2,09%
11/2/2011
18.932
20.693
+/ 1%
9,3%
Nhìn chung, nguyên nhân của các lần phá giá đều đến từ việc giữ cố định tỷ giá
bình quân liên ngân hàng trong một thời gian dài, trong khi tỷ giá giao dịch trên thị trường
tự do liên tục lên cao, đến khi chênh lệch giữa 2 thị trường đã lên tới mức cao thì NHNN
mới điều chỉnh giảm giá một cách đột ngột. Việc điều chỉnh tỷ giá một cách bất ngờ như
trên đã có ảnh hưởng rất tiêu cực đến mức giá cả nền kinh tế, đặc biệt với đặc điểm của
nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, việc giảm
giá đồng tiền làm chi phí đầu vào tăng lên đáng kể, kết quả là tình trạng lạm phát leo
thang do chi phí đẩy như thời gian vừa qua.
+ Điều chỉnh tăng giá đồng loạt điện và xăng dầu
Điện và xăng dầu là 2 yếu tố đầu vào quan trọng đối với bất kì ngành sản xuất
nào, việc điều chỉnh giá 2 mặt hàng này đòi hỏi phải xem xét dẫn thận trọng và có một
thời gian tách biệt nhất định để tránh ảnh hưởng đến mức giá cả chung. Trong năm 2010
và 2011, cả 2 mặt hàng này đều được điều chỉnh tăng giá nhiều lần:
11
Ngày 24/2, tại cuộc họp Chính phủ với các địa phương, giá xăng dầu được điều
chỉnh tăng gần 20%, điện tăng 15,28%... Ông Nguyễn Sinh Hùng, lúc đó là Phó thủ tướng
Chính phủ đã dùng cụm từ “tình hình cấp bách” để truyền đạt đi các biện pháp vĩ mô
nhằm ổn định lại lạm phát.
12
Phân 3
̀
CAC GIAI PHAP ĐA Đ
́
̉
́
̃ ƯỢC CHINH PHU Đ
́
̉ ƯA RA TRONG NGHỊ QUYẾT
11/NQCP
Để đối phó với lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô, ngày 22/4/2011 Chính Phủ
ban hành nghị quyết số 11/NQCP về những giải pháp chủ yếu nhằm kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Tóm tắt 6 nhóm giải pháp chủ yếu:
Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thận trọng.
Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân
sách nhà nước.
Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng
tiết kiệm năng lượng.
Điều chỉnh giá điện, xăng, dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo.
Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.
Các biện pháp trên có sự tương hỗ với nhau và qua 6 tháng thực hiện cho thấy hiệu
quả thực tế của chúng đối với nền kinh tế. Mỗi biện pháp áp dụng, bên cạnh những tác
động tích cực và bao giờ cũng vậy luôn có những tác động trái chiều. Do đó, cần phải cân
nhắc kỹ lưỡng các tác động tích cực và tiêu cực cũng như thời điểm áp dụng và thời
điểm dừng một cách hợp lý. Trong đo hai chinh sach quan trong la chinh sach tiên tê thăt
́
́
́
̣
̀ ́
́
̀ ̣
́
chăt va chinh sach tai khoa thăt chăt.
̣ ̀ ́
́
̀
́
́
̣
3.1 Chính sách tiền tệ thắt chặt
Để kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tổng phương diện thanh toán, dư nợ tín
dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, NHTW đã:
Yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm chỉnh tăng trưởng tín dụng dưới
20% trong cả năm 2011, tập trung vốn tín dụng cho phát triển sản xuất kinh doanh, nông
nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời
giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ tín dụng trong lĩnh vực phi sản xuất xuống mức 22% đến
30/6/2011 và 16% đến 31/12/2011;
Điều chỉnh tăng dần các mức lãi suất chính sách của NHTW và tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ cho phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô và tốc độ tăng của chỉ
số giá tiêu dùng.
Điều hành lượng cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn phù hợp với
nhu cầu của thị trường tiền tệ.
Tái cấp vốn và gia hạn các khoản vay hỗ trợ vốn tín dụng nông nghiệp, nông
thôn đến hạn thanh toám.
Bên cạnh đó, NHTW còn thực hiện một loạt các biện pháp nhằm duy trì lãi suất thị
trường ở mức hợp lý và đảm bảo khả năng thanh khoản của nền kinh tế và hệ thống
ngân hàng:
Điều chỉnh tăng 9,3% tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 11/02/2011 và thu hẹp
biên độ ấn định tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng so với tỷ giá bình quân liên ngân
hàng từ ± 3% xuống ±1%.
13
Biến động các lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
Quy định lãi suất huy động tối đa bằng ngoại tệ, thu hẹp đối tượng cho vay bằng
ngoại tệ.
Theo đó, trọng tâm là phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
theo hướng chặt chẽ, thận trọng. Theo báo cáo của Chính Phủ, cuối quý II/2011, đến nay
đã có những dấu hiệu lạc quan bước đầu:
Do phải tập trung mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2011 có bị ảnh hưởng, ước đạt 5,57%.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu, kế hoạch đề ra.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 6/2011 theo giá cố định tăng 15,2% so với cùng kỳ
năm trước, tính chung 6 tháng đầu năm 2011 tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2010.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục có sự phát triển ổn định. Trong 6 tháng đầu năm
2011, ước giá trị sản xuất nông, lâm, nghiệp và thủy sản theo giá cố định tăng 3,7% so
với cùng kỳ năm 2010.
Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng 6 tháng đầu năm 2011 ước đạt trên 911 nghìn tỷ đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ
năm 2010. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2011 tăng
18,1% so với cùng kỳ năm trước.
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh
xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; tích cực triển khai
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; tăng cường chỉ đạo phòng
chống, khắc phục hậu quả thiên tai bão lũ… làm tốt công tác giải quyết việc làm. Trong
6 tháng đầu năm 2011, ước tạo việc làm cho khoảng 722,8 nghìn người, bằng 45,2% kế
hoạch năm, trong đó xuất khẩu lao động khoảng 44 nghìn người, đạt 50,6% kế hoạch
năm.
14
Các Bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã cẳt
giảm, điều chuyển tổng số vốn trong năm 2011 là 80.550 tỷ đồng (chưa tính số vốn đầu
tư giảm từ NSNN của năm 2011 so với thực hiện năm 2010), bằng khoảng 9% tổng số
vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011.
Tổng phương tiện thanh toán đến 20/6/2011 ước tăng 1,25% so với tháng trước
và tăng 2,45% so với tháng 12/2010. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng đang dần được
cải thiện. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến ngày
20/6/2011 ước tăng 1,04% so với cuối tháng trước và tăng 2,88% so với cuối năm 2010.
Lãi suất đang có xu hướng giảm do giá cả thị trường giảm, các cân đối và tỷ giá
ngoại tệ đang đi dần vào thế ổn định. Lãi suất huy động VND bình quân hiện ở mức
15,5%, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khoảng 18,7%.
Tỷ giá giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ đang có xu hướng giảm và ổn định ở
mức thấp hơn tỷ giá trần cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Dự trữ ngoại hối cũng đang
dần được cải thiện, đã tăng được gần 3 tỷ USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 tăng 30,3% so với cùng kỳ năm
trước và gấp hơn 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua (10%). Đặc biêt,
nhập siêu tháng 6/2011 ước đạt 0,4 tỷ USD, bằng 5,1% kim ngạch xuất khẩu, đây là tỷ lệ
nhập siêu thấp nhấp trong vòng 6 tháng qua.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2011 tăng 1,09% so với tháng trước, giảm đáng kể so
với các tháng trước và là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm.
Chi phí vay đã lên rất cao 21% 24% và duy trì trong 6 tháng qua của 2011, cung
tiền tăng rất thấp trong 6 tháng đầu năm (tăng 2,6% so với bình quân 9% trong 10 năm quá
khứ) – sức cầu tiêu dùng đã chậm và yếu đi thấy rõ. Tổng mức bán lẻ tăng trưởng của
Việt Nam sau khi loại đi yếu tố trượt giá đã gần về 0, thấp kỷ lục trong nhiều năm nay.
Sức cầu giảm đi thấy rõ, thế nhưng lạm phát vẫn cao. Nếu tiếp tục hay thắt chặt tiền tệ
mạnh thêm có lẽ cái giá phải trả sẽ cao hơn cái được rất nhiều.
Một số chuyên gia kinh tế nên cho rằng nên tăng dự trữ bắt buộc tiền đồng, nhưng
một số lại không cho rằng điều đó là đúng đắn lúc này. Trong 6 tháng đầu năm 2011 tín
dụng chỉ tăng dưới 6%, rất thấp với mức trung bình trong 10 năm qua là 12,7%. Hơn nữa
tín dụng tiền đồng chỉ tăng 2,7% trong 6 tháng. Lãi suất cho vay VND đang rất cao, việc
tăng dự trữ bắt buộc VND thực sự chưa nên bàn lúc này. Tuy nhiên tăng trưởng tín dụng
bằng USD lại là vấn đề đáng nói. Bất chấp việc tăng thêm 3% dự trữ bắt buộc của USD
trong nhiều tháng qua, lãi suất cho vay USD vẫn đang ở mức 67%, điều này dường như
khuyến khích doanh nghiệp vay USD. Việc này lại có thể tạo áp lực lên tỷ giá nếu quản
lý không tốt. Có lẽ NHTW nên tiếp tục tăng mạnh dự trữ bắt buộc của USD để kiểm
soát tín dụng USD và giảm tình trạng dolar hóa. Tuy nhiên mặt bằng lãi suất vẫn giữ rất
cao trong năm 2012 so với thời kì trước.
3.2 Chính sách tài khóa thắt chặt
Thực hiện NQ 11/2011, ngành tài chính đã:
Điều chỉnh linh hoạt chính sách thuế, chính sách chi khác hạn chế nhập khẩu,
khuyến khích xuất khẩu, kết hợp chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong việc rà soát,
15
điều chỉnh tạo điều kiện thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, hỗ trợ phát triển các ngành công
nghiệp phụ trợ, hạn chế nhập khẩu nguyên vật liệu.
Tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên ngoài lương của 9 tháng còn lại; không
cấp kinh phí cho những việc chưa thật sự cấp bách.
Rà soát toàn bộ công trình, dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu
Chính Phủ đã được bố trí năm 2011, xác định cụ thể các công trình cần ngừng, đình hoãn,
giãn tiến độ thực hiện trong năm 2011; thu hồi hoặc điều chuyển các khoản bố trí nhưng
chưa cấp bách và không đúng mục tiêu.
Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5%GDP; kiểm tra, rà
soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN, loại bỏ những
dự án đầu tư kém hiệu quả, dàn trải; không được ứng trước vốn ngân sách, trái phiếu
Chính Phủ của năm 2012; không kéo dài thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách,
trái phiếu Chính Phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi toàn bộ số vốn bố trí không đúng quy
định.
Đến cuối tháng 6/2011, ngành tài chính đã cắt giảm tổng số tiền chi thường xuyên
là 3857,7 tỷ đồng, cắt giảm tổng số vốn đầu tư của các bộ, ngành, địa phương và các tập
đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước là 80550 nghìn tỷ đồng, bằng 9% tổng đầu tư xã hội
năm 2011. Giảm tỷ trọng đầu tư Nhà nước trong tổng đầu tư xã hội xuống 34%, thực
hiện an sinh xã hội thông qua tăng lương 100.000 đồng trong doanh nghiệp từ 1/5/2011,
cắt 140 dự án, giảm tiến độ 133 dự án, chỉ tập trung vào dự án trọng điểm, có hiệu quả,
nhất là về xây dựng cơ bản…
Tuy vậy, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì dường như nỗ lực của ngành tài
chính trong cuộc chiến chống lạm phát hiện nay chưa thật sự quyết liệt và quyết tâm như
ngành ngân hàng. Một trong những nguyên nhân lạm phát của năm 2011 là do việc theo
đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, hiệu quả đầu tư thì thấp, khi mà
còn tồn đọng hậu quả của chính sách kích cầu với 10% GDP vào năm 2009 (1 tỷ USD).
Ngành tài chính cũng là một trong các kênh thực hiện chính sách hỗ trợ kinh tế này thông
qua đầu tư công, chi ngân sách (6 tháng đầu năm 2011, bội chi ngân sách là cao nhất so
với năm 2009 và 2010). Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin của Bộ
Tài chính đối với công chúng dường như chưa kịp thời và công khai…
Có thể thấy việc cắt giảm đầu tư công vẫn chưa được thực hiện như mong đợi,
giữa con số được công bố và con số thực tế vẫn có một khoảng cách khá xa. Để chia sẻ
trách nhiệm với chính sách tiền tệ trong việc chữa căn bệnh Lạm phát, thì chính sách tài
chính thắt chặt cần phải thực hiện nghiêm túc, quyết liệt hơn và minh bạch hơn. Nếu
việc thắt chặt tài khóa được thực hiện tốt hơn sẽ giảm gánh nặng cho chính sách tiền tệ
trong việc làm giảm kỳ vọng lạm phát và từ đó giúp giảm mặt bằng lãi suất, giúp các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh “dễ thở” hơn, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nếu không thực hiện được, lãi suất vẫn ở mức cao!
16
Phân 4
̀
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
Dựa trên cơ sở phân tích những nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát cao ở Việt
Nam trong giai đoạn 2010 2011, một phân tích đã đưa ra một số giải pháp nhằm khắc
phục tình trạng trên:
Thứ nhất, đối với hoạt động chi tiêu công và độ độc lập của NHNN:
Xoá bỏ cơ chế bao cấp, xin cho, ràng buộc ngân sách lỏng lẻo đối với các
DNNN, từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động chi tiêu công. Tất nhiên, khu vực công là
khu vực cần có những ưu tiên nhất định để đảm bảo lợi ích xã hội, nhưng ưu tiên cũng
cần có mức độ để đảm bảo trách nhiệm của các DN trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Minh bạch hoá, công khai hoá tình trạng sử dụng vốn, tình hình tài chính của các
DNNN.
Nâng cao tính độc lập của NHTW trong việc hoạch định chính sách tiền tệ, xác
định mức cung tiền cho nền kinh tế. Hơn nữa, chính sách tiền tệ nên ưu tiên mục tiêu rõ
ràng trong từng giai đoạn, không nên theo đuổi cùng lúc các mục tiêu mâu thuẫn với nhau,
cụ thể trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế đã có dấu hiệu tăng trưởng quá nóng
nhiều năm liền, lạm phát tăng cao, thì nên ưu tiên hơn cho mục tiêu kiềm chế lạm phát và
để mục tiêu tăng trưởng lại phía sau.
Thứ hai, đối với việc điều hành nền kinh tế của Nhà nước:
Đối với vấn đề tỷ giá, tỷ giá bình quân liên Ngân hàng nên được điều chỉnh một
cách linh hoạt ( như cách đã áp dụng từ tháng 2/2011) để tránh những cú sốc cho nền kinh
tế khi đột ngột phá giá.
Việc điều hành giá điện, giá xăng dầu đòi hòi nhiều hơn sự thận trọng, không đề
cập đến lý do tăng giá có là hợp lý hay không, nhưng các lần điều chỉnh cần có một
khoảng cách nhất định về mặt thời gian để nền kinh tế có thời gian đề thích nghi, tránh
tình trạng tăng giá ồ ạt, đồng loạt như thời gian vừa qua, tạo sức ép đẩy lạm phát lên cao.
17
KẾT LUÂN
̣
Lạm phát không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến mọi mặt
đời sống của xã hội. Xét nguyên nhân sâu xa trong những năm gần đây, lạm phát Việt
Nam luôn có sức ép tăng, và ở mức cao so với các nước trong khu vực, chủ yếu do cơ cấu
kinh tế chưa hợp lý, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao,
hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp làm tăng chi phí trung
gian, hiệu quả sử dụng vốn thấp (đặc biệt là khu vực nhà nước). Bên cạnh đó, độ mở
của nền kinh tế là khá lớn làm cho sức đề kháng và khả năng thích ứng với những biến
động của thị trường nước ngoài còn yếu…
Từ các nhà làm chính sách, các nhà kinh tế trong và ngoài nước, đến các bà nội trợ,
lạm phát có lẽ là vấn đề đáng bàn nhất trong 4 năm trở lại đây. Và hậu quả mà nó để lại
cho nền kinh tế cứ dai dẵng như một căn bệnh nan y dù đã biết cách chữa trị nhưng vẫn
không thể nào chế ngự nó. Kiềm chế lạm phát không phải là bài toán không có lời giải,
vấn đề là cần chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho
ngân sách nước nhà. Vì vậy, cần có đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp
và nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp và bình
tĩnh hơn. Các Bộ, các ban ngành từ trung ương đến địa phương cần làm hết sức mình,
bằng những kế hoạch cụ thể để triển khai các chỉ đạo mà Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành. Những kết quả tốt đẹp sẽ đến với kinh tế Việt Nam nếu chúng ta đoàn kết và có
quyết tâm cao theo một đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Hường (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng, lạm phát và việc làm.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, tổng quan đề tài cấp cơ sở, Viện Kinh tế
và Phát triển Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn. (2009). Kinh tế Việt Nam 2008, một số vấn đề về
điều hành kinh tế vĩ mô. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân.
3. Nguyễn Văn Ngọc, Giáo trình kinh tế vĩ mô
4. TS Đinh Thế Hiển, Lạm phát 2011 và bài toán đầu tư
5. TS Nguyễn Trọng Hoài, Ổn định lạm phát: Cái giá phải trả
6. Nghị quyết 11/NQCP của chính phủ
7. Các Website: www.mof.gov.vn
www.gso.gov.vn
www.sbv.gov.vn
www.imf.org
www.Vnexpress.net
……..
8. Một số tài liệu khác
19