Lêi c¶m ¬n
Sự dạy dỗ tận tình của các Thầy, Cô trong bộ môn Thuỷ
văn của Khoa Khí tượng Thuỷ văn và Hải Dương học trong 2
năm qua cùng các đồng nghiệp trong Viện Khoa học Khí tượng
Thuỷ văn và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường và ở khoa
Khí tượng Thủy văn và Hải dương học đã tạo điều kiện cho tôi
hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ vô cùng quý báu
đó của các Thầy, Cô, các bạn đồng nghiệp và đặc biệt là PGS.TS
Nguyễn Thanh Sơn, người hướng dẫn khoa học đã giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lã Thanh Hà và toàn thể
cán bộ Trung tâm Nghiên cứu Thủy văn và Tài nguyên nước
Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường, những người
đã tâm huyết tạo mọi điều kiện để tác giả có thể hoàn thành luận
văn một cách tốt nhất.
Tác giả xin cảm ơn nhóm thực hiện Đề tài QGTĐ.10.06 đã
cung cấp những tài liệu quý giá giúp học viên trong quá trình
thực hiện luận văn.
Trong thời gian thực hiện luận văn, tác giả còn nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ trong các lĩnh vực khác nhau kể cả trong và
ngoài chuyên môn mà ở đây không thể kể ra hết được. Tác giả xin
chân thành bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và
đặc biệt là các bạn học viên khóa 20082010 đã tận tình trao đổi,
đóng góp và động viên tôi rất nhiều để giúp đỡ tôi hoàn thành
được luận văn này.
Hà Nội, tháng 12/2010
Tác giả
Văn Thị Hằng
2
MỞ ĐẦU
Lưu vực sông Nhuệ Đáy trải dài từ 200 đến 21020' vĩ độ Bắc; 1050 đến
106030' kinh độ Đông. Sông Nhuệ và sông Đáy là hai con sông rất quan trọng
trong việc tưới tiêu và điều hoà nước cho một số tỉnh phía Bắc. Lưu vực của hai
con sông này đi qua các tỉnh và thành phố: Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam, Nam Định
và Ninh Bình.
Trong những năm gần đây, tài nguyên nước trên sông Nhuệ sông Đáy thay
đổi rất rõ rệt cả về chất và lượng nước, điều này ảnh hưởng xấu đến tình hình
kinh tế, xã hội và môi trường sống trong khu vực mà hai con sông này đi qua. Bên
cạnh đó, sông Nhuệ và sông Đáy lại có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối với
các tỉnh phía Bắc nằm trong lưu vực, đặc biệt các tỉnh ở dưới hạ lưu.
Mặt khác, dưới tác động của biến đổi khí hậu, đã được tính toán, trong
khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,5 0,7 oC, mực
nước biển đã dâng khoảng 20cm. Biến đổi khí hậu tác động làm cho các thiên tai,
đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Biến đổi khí hậu có thể tác động
đến nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế xã
hội trong tương lai.
Việc tính toán được tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước là
một vấn đề cấp thiết đặt ra cho các nhà quản lý tài nguyên nước. Do vậy,
“Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến biến động tài nguyên nước
trên các lưu vực sông Nhuệ Đáy thuộc thành phố Hà Nội” là một đề tài có
tính khoa học và thực tiễn nhằm góp phần giải quyết bài toán trên đối với các
nhà quản lý tài nguyên nước trên địa bàn Thủ đô để đưa ra được những quyết
định chiến lược phát triển đúng đắn.
Cấu trúc, nội dung của luận văn gồm 3 chương, không kể mở đầu, kết
luận, tài liệu tham khảo và phụ lục.
Mở đầu (tính cấp thiết, mục tiêu, nghiên cứu, phương hướng giải
quyết,...)
Chương 1. Tổng quan lưu vực nghiên cứu
Chương 2. Tổng quan về các nghiên cứu có liên quan
Chương 3. Mô phỏng ảnh hưởng của biến đối khí hậu tới tài nguyên
3
nước.
Kết luận và kiến nghị
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LƯU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG NHUỆ ĐÁY
1.1.1 Vị trí địa lý
Lưu vực sông Đáy Nhuệ nằm ở hữu ngạn sông Hồng trong phạm vi từ
200 đến 21020' vĩ độ Bắc và từ 1050 đến 106030' kinh độ Đông, với tổng diện tích
tự nhiên là 7665 km2, bao gồm một phần Thủ đô Hà Nội, Hoà Bình, Hà Nội, Hà
Nam, Nam Định, Ninh Bình. Giới hạn của lưu vực như sau:
-
Phía Bắc và Đông Bắc được bao bởi đê sông Hồng từ ngã ba Trung
Hà tới cửa Ba Lạt với tổng chiều dài khoảng 242 km.
-
Phía Tây Bắc giáp sông Đà từ Ngòi Lát tới Trung Hà với chiều dài
khoảng 33 km.
-
Phía Tây và Tây Nam là đường phân lưu giữa lưu vực sông Hồng và
lưu vực sông Mã bởi dãy núi Ba Vì, Cúc Phương – Tam Điệp, kết thúc tại núi
Mai An Tiêm (nơi có sông Tống gặp sông Cầu Hội) và tiếp theo là sông Càn dài
10 km rồi đổ ra biển tại cửa Càn.
-
Phía Đông và Đông Nam là biển Đông có chiều dài khoảng 95 km từ
cửa Ba Lạt tới cửa Càn.
Sông bắt nguồn từ cống Liên Mạc (21005’27” vĩ độ Bắc, 105046’12” kinh
độ Đông) lấy nước từ sông Hồng trong địa phận huyện Từ Liêm (thành phố Hà
Nội) và điểm kết thúc là cống Phủ Lý khi hợp lưu với sông Đáy gần thành phố
Phủ Lý (20032’42” vĩ độ Bắc, 105054’32” kinh độ Đông).
Lưu vực sông Nhuệ dài 74 km tính từ nguồn là cống Liên Mạc về đến
cống Phủ Lý (Hà Nam). Trên địa phận Hà Nội sông có chiều dài 61.5km. Độ rộng
trung bình của sông là 3040m. Sông chảy ngoằn ngoèo theo hướng BắcNam ở
phần thượng nguồn và theo hướng Tây Bắc Đông Nam ở trung lưu và hạ lưu.
Sông Đáy là một chi lưu l ớn n ằm bên hữu ngạn của sông Hồng, diện
tích lưu vực kho ảng 6595km 2, chiều dài sông chính khoảng 247km (tính từ
cửa Hát Môn đến cửa Đáy trướ c khi đổ ra biển Đông). Sông Đáy chả y qua
5
đị a phận các tỉnh Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Đị nh. Tọa độ đị a lý:
20033’ đến 21019’ vĩ độ Bắc và 105017’ đến 105050’ kinh độ Đông. [5,7]
6
1.1.2 Địa hình, địa mạo
Nằm trên vùng châu thổ sông Hồng, khu vực nghiên cứu nằm trải dài theo
phương vĩ tuyến, chịu ảnh hưởng của nhiều đới cấu trúc địa chất khác nhau,
khiến cho địa hình có sự phân hoá tương phản thể hiện rõ nét theo hướng Tây
Đông và hướng BắcNam. Xét về mặt cấu trúc ngang đi từ Tây sang Đông có thể
chia địa hình khu vực nghiên cứu thành vùng chính như sau:
7
Hình 1.1. Bản đồ lưu vực hệ thống sông Nhuệ Đáy
a) Vùng đồi núi
Địa hình núi phân bố ở phía Tây và Tây Nam và chiếm khoảng 30% diện
tích, có hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam ra biển và thấp dần từ Tây
sang Đông. Phần lớn là các dãy núi thấp có độ cao trung bình 400 600m được
cấu tạo bởi các đá trầm tích lục nguyên, cacbonat; chỉ một vài khối núi có độ cao
trên 1.000m được cấu tạo bởi đá trầm tích phun trào như khối núi Ba Vì có đỉnh
cao 1.296m, khối núi Viên Nam có đỉnh cao 1.031m và cấu tạo bởi đá xâm nhập
granit như khối núi Đồi Thơi (Kim Bôi Hoà Bình) có đỉnh cao 1.198m. Địa hình
núi trong khu vực cũng có sự phân dị và mang những đặc trưng hình thái khác
nhau.
Địa hình đồi được tách ra với địa hình núi và đồng bằng bởi độ chênh cao
<100m, độ phân cắt sâu từ 15 100m. Trong phạm vi lưu vực sông ĐáyNhuệ địa
hình đồi chỉ chiếm khoảng 10% diện tích có độ cao phần lớn dưới 200m, phân
bố chuyển tiếp từ vùng núi xuồng đồng bằng. Theo đặc điểm hình thái, có thể
chia thành 2 khu vực: vùng đồi phía Bắc và vùng đồi phía Nam.
b) Vùng đồng bằng
Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 60% lãnh thổ, địa hình khá bằng
phẳng có độ cao < 20 m và thấp dần từ Tây sang Đông, từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Bề mặt đồng bằng lại bị chia cắt bởi hệ thống sông và kênh mương chằng
chịt. Có thể chia đồng bằng thành 4 khu vực có đặc điểm khác nhau: vùng đồng
bằng phía Bắc, vùng đồng bằng trung tâm, vùng đồng bằng phía Nam, vùng đồng
bằng thung lũng. Bề mặt lưu vực có hướng dốc thay đổi, đầu nguồn hệ thống
sông hướng Bắc Nam; trung và hạ nguồn: hướng Tây Bắc Đông Nam. Thượng
lưu hệ thống sông uốn khúc, quanh co, hẹp và dốc, nhiều thác ghềnh, nước chảy
xiết, là nguy cơ tạo nên các hiện tượng xói lở, lũ quét...Trung lưu và hạ lưu lòng
sông được mở rộng, dòng sông chảy chậm, khả năng thoát nước kém dẫn đến
tình trạng ngập lũ mỗi khi xuất hiện mưa lớn.[5,7]
1.1.3. Địa chất thổ nhưỡng
a) Địa chất
Vùng đồi núi:. Các dãy núi có độ cao từ 400 – 600 m được cấu tạo bởi đá
8
trầm tích lục nguyên, cacbonat. Một vài khối núi cao trên 1000m được cấu tạo
bởi đá trầm tích phun trào như khối núi Ba Vì, khối núi Viên Nam. Khu vực
huyện Mỹ Đức là vùng núi đá vôi có nhiều hang động và hiện tượng karst mạnh.
Vùng đồng bằng. cCó cấu tạo chủ yếu là đất phù sa, địa chất của vùng
đồng bằng chủ yếu là nền mềm, các lớp đất thường gặp là đất thịt các loại, đất
sét và cát pha, xen kẽ có các lớp cát mịn, cát chảy hoặc bùn. Các lỗ khoan thăm dò
địa chất và các giếng khoan khai thác nước ngầm cho thấy cấu tạo địa chất từ
trên xuống dưới gồm các lớp sau: sét pha và đất sét lẫn cát dày 2 ÷ 16 m; bùn hữu
cơ – bùn cát dày 1,3 ÷ 6 m (10m); tầng cát đá cuội, đá dăm hạt to dày 50 ÷ 90m.
b) Thổ nhưỡng
Do nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nên đất trong khu vực
chủ yếu là đất phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Đáy bồi đắp nên. Mặc dù
được bao bọc bởi các đê sông Hồng, sông Đáy song hầu như hàng năm phần lớn
diện tích đất canh tác ít nhiều đều được tưới bằng nước phù sa lấy từ các cống
tự chảy hoặc các trạm bơm. Quá trình bồi tụ, hình thành và phát triển của các
nhóm đất ở từng khu vực khác nhau đã tạo nên sự đa dạng về loại hình đất trong
hệ thống. Song nhìn chung chúng đều là loại đất ít chua và chua có hàm lượng
mùn và các chất dinh dưỡng ở mức độ trung bình đến nghèo. Những khu vực cao
ven sông Hồng, sông Đáy đất có thành phần cơ giới nhẹ chủ yếu là đất cát hoặc
pha cát khá chua và nghèo chất dinh dưỡng. Các vũng trũng ven sông Nhuệ, Duy
Tiên, Châu Giang đất có thành phần cơ giới nặng hơn chủ yếu là loại đất thịt
nặng và sét nhẹ ít chua và giàu các chất dinh dưỡng hơn. Khu vực nghiên cứu có
5 loại đất: đất phù sa, đất xám có tầng loang, đất phù sa glây, đất xám feralit và
đất glây chua.
Đất phù sa chiếm diện tích lớn nhất của toàn bộ lưu vực, tập trung chủ
yếu ở phía Đông, phía Bắc và Đông Bắc. Đất phù sa thích hợp cho trồng cây
nông nghiệp như lúa nước, hoa màu. Phía Tây là nơi tập trung nhiều đất xám
feralit thích hợp cho trồng cây công nghiệp ngắn và dài ngày, cây ăn quả.[8]
1.1.4. Thảm thực vật
Hiện nay rừng đầu nguồn đang bị khai thác, tàn phá nghiêm trọng làm giảm
diện tích rừng tự nhiên và đa dạng sinh học bị giảm sút [8].
Do lưu vực sông Nhuệ Đáy có địa hình đa dạng, với các vùng đồi, núi và
9
2/3 diện tích là đồng bằng, nên trên lưu vực có nhiều hệ sinh thái khác nhau như
rừng trên núi đất, núi đá vôi, các hệ sinh thái thủy vực nước ngọt, các vùng đất
ngập nước.
Phần lớn lưu vực là những vùng đồng bằng đã bị khai phá từ lâu đời.
Nhưng với một phần là diện tích rừng núi thuộc các khu rừng đặc rụng như Cúc
Phương, Ba Vì, khu bảo vệ cảnh quan Hương Sơn, Hoa Lư, Vân Long, ngập
nước mặn với thế giới sinh vật trong lưu vực vô cùng phong phú, đa dạng. Tính
đến năm 2002 toàn lưu vực có khoảng 16770ha rừng, trong đó diện tích rừng tự
nhiên 3922ha, diện tích rừng trồng 12484ha. Hệ sinh thái tự nhiên trong lưu vực
sông Nhuệ sông Đáy gồm:
• Hệ sinh thái rừng kín cây lá rộng
• Hệ sinh thái trảng cây bụi, cỏ trên núi đất
• Hệ sinh thái rừng kín thường xanh cây lá rộng nhiệt đới trên núi đá vôi
• Hệ sinh thái trảng cây bụi, trảng cỏ trên núi đá vôi
1.1.5 Khí hậu
Khu vực nghiên cứu có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa kiểu khí hậu chung
của vùng đồng bằng Bắc Bộ với mỗi năm có một mùa đông lạnh và khô; một
mùa hè nóng, ẩm và mưa nhiều. Giữa hai mùa này có sự chuyển giao về khí hậu,
điển hình là tháng IV và tháng X nên có thể coi khí hậu ở đây có 4 mùa.
Bức xạ mặt trời là nguồn nhiệt chính tạo nên nhiệt độ không khí và nhiệt
độ đất. Phân bố bức xạ trong năm liên quan đến tiến trình năm của độ cao mặt
trời và thời gian chiếu sáng trong ngày. Tổng lượng bức xạ hàng năm ở khu vực
nghiên cứu cỡ 122,8 kcal/cm2/năm. Bức xạ cực đại thường xảy ra vào tháng VII
(15,2 kcal/cm2/tháng) và cực tiểu thường xảy ra vào tháng II (5,2 kcal/cm2/tháng).
Số giờ nắng hàng năm đạt dao động trong khoảng từ 1300 đến 1700 giờ.
Nhiệt độ không khí cao nhất tuyệt đối tới 42,8oC, thấp nhất tuyệt đối chỉ
2,7oC, trung bình năm dao động trong khoảng 23 24oC. Trong những năm gần
đây, do ảnh hưởng chung của sự biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ không khí
có xu hướng tăng cao nên nền nhiệt độ không khí trung bình năm của những năm
gần đây cũng tăng lên (như năm 1998 là 25,1oC).
Mùa có mưa phùn (tháng III và IV hàng năm) là thời kỳ ẩm ướt nhất còn
10
nửa đầu mùa đông (tháng XII và tháng I hàng năm), do ảnh hưởng gió mùa Đông
Bắc khô hanh nên là thời kỳ khô nhất của năm.
Độ ẩm không khí trong khu vực nghiên cứu khá lớn, trung bình năm dao
động trong khoảng 84 86%. Diễn biến của lượng bốc hơi phụ thuộc vào diễn
biến của nhiệt độ và độ ẩm không khí. Lượng bốc hơi tháng bình quân nhiều
năm dao động trong khoảng 60 100 mm. Tháng có lượng bốc hơi lớn nhất
trong năm là tháng VII, tới 98 mm. Thời kỳ khô hanh đầu mùa đông cũng là thời
kỳ có lượng bốc hơi lớn, trung bình dao động trong khoảng 90 95 mm.
Tốc độ gió ở khu vực không lớn lắm.Tốc độ gió trung bình của tháng lớn
nhất (tháng IV) cũng chỉ khoảng 2,5m/s còn của tháng nhỏ nhất (tháng I) rất
thấp, chỉ 1,5m/s. Tuy nhiên, tốc độ gió mạnh nhất có thể đạt tới trên 40 m/s.
Bảng 1.2 thể hiện tốc độ gió mạnh đo được tại trạm Láng ứng với các xác suất
xuất hiện khác nhau. Hướng gió luôn thay đổi theo thời gian trong năm nhưng
chủ đạo là các hướng Đông Nam và Đông Bắc.
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng mưa trung bình của đồng bằng Bắc
Bộ. Lượng mưa năm bình quân nhiều năm ở đây đạt khoảng 1650 mm. Mỗi năm
trung bình có khoảng trên dưới 150 ngày có mưa. Lượng mưa phân phối rất
không đều theo thời gian trong năm. Một năm hình thành hai mùa mưa và khô rất
rõ rệt.
Mùa mưa thường kéo dài 5 tháng, từ tháng V đến tháng X với tổng lượng
mưa chiếm tới xấp xỉ 83% tổng lượng mưa năm. Tháng mưa nhiều nhất thường
là VII hoặc VIII với lượng mưa chiếm tới trên 18% tổng lượng mưa năm. Ba
tháng liên tục có mưa lớn nhất trong năm là VII, VIII, IX. Tổng lượng mưa của
ba tháng này chiếm tới trên 49% tổng lượng mưa năm.
Mùa khô thường kéo dài 7 tháng, từ tháng XI đến tháng IV năm sau với
tổng lượng mưa chỉ chiếm khoảng 17% lượng mưa của cả năm. Tháng ít mưa
nhất thường là tháng XII hoặc tháng I với lượng mưa chỉ chiếm trên dưới 1%
tổng lượng mưa năm. Ba tháng liên tục mưa ít nhất là các tháng XII, I và II. Tổng
lượng mưa của ba tháng này chỉ chiếm khoảng 4,2% tổng lượng mưa năm [8].
1.1.6 Thủy văn
Lưu vực sông Nhuệ Đáy gồm 2 nhánh chính là sông Đáy và Nhuệ, ngoài
ra có rất nhiều các chi lưu như: sông Tích, sông Bùi, sông Thanh Hà.
11
Tại điểm giao nhau giữa sông Đáy và sông Hồng thuộc địa phận thành phố
Hà Nội có 2 công trình kiểm soát lũ trên sông Đáy, điều tiết dòng chảy từ sông Hồng
vào. Khi đập Đáy đóng, phần thượng lưu là một sông chết do không có nước nuôi
lòng.
Sông Tích có chiều dài 91 km, bắt nguồn từ vùng đồi núi Ba Vì, đổ vào
sông Đáy tại Ba Thá. Dòng chảy năm của sông Tích và sông Đáy đo tại trạm Ba
Thá là 1,35 tỉ m3, chiếm 4,7% tổng lượng dòng chảy năm tại cửa ra lưu vực.
Sông Thanh Hà bắt nguồn từ dãy núi đá vôi gần Kim Bôi – Hòa Bình, chảy
vào vùng đồng bằng từ ngã ba Đông Chiêm ra đến Đục Khê, được ngăn cách giữa
cánh đồng và núi bởi kênh Mỹ Hà, đưa nước chảy thẳng vào sông Đáy. Diện tích
lưu vực là 271 km2, sông dài 40 km, chiều rộng trung bình lưu vực 9 km [5].
Chế độ thủy văn lưu vực sông Đáy không những chịu ảnh hưởng của các
yếu tố mặt đệm trên bề mặt lưu vực, các yếu tố khí hậu mà còn phụ thuộc vào
chế độ dòng chảy của nước sông Hồng và các sông khác. Vì thế mà chế độ thủy
văn ở đây rất phức tạp và có sự khác nhau nhất định giữa các đoạn sông. Dòng
chảy trên lưu vực sông phân bố không đều theo không gian và thời gian. Theo
không gian, dòng chảy lớn nhất là ở núi Ba Vì, phần hữu ngạn lưu vực có dòng
chảy lớn hơn phần tả ngạn. Sự phân bố theo thời gian thể hiện rõ nét thông qua
phân phối dòng chảy trong năm. Phân phối dòng chảy năm phụ thuộc vào sự phân
phối theo mùa của lượng mưa năm nên dòng chảy trong năm cũng phân phối
không đều và thể hiện hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng
V đến tháng X chiếm 8085% lượng mưa cả năm . Mùa khô từ tháng XI đến
tháng IV năm sau.
Lượng nước mùa lũ ở hầu hết các sông chiếm từ 70 80% lượng nước
năm. Trong mùa cạn, mực nước và lưu lượng nước nhỏ. Lượng dòng chảy trong
7 tháng mùa cạn chỉ chiếm khoảng 20 25% lượng dòng chảy cả năm. Ngoài các
nhánh sông lớn chi phối chế độ thủy văn trên hệ thống, sông Đáy còn nhận nước
từ các sông tiêu, sông tưới qua các cống La Khê, Ngoại Độ…Các sông này
thường phải đóng lại khi có phân lũ trong thời gian dài, ngắn tùy thuộc vào thời
gian lũ. Sông Đáy có vị trí rất quan trọng, nó vừa là đường thoát nước chính của
sông Hồng, vừa là đường tiêu lũ của bản thân lưu vực sông Đáy [7].
1.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG NHUỆ ĐÁY TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
12
Trên địa bàn thành phố Hà Nội lưu vực sông Đáy trên địa bàn thành phố Hà
Nội có diện tích là 1900km2, lưu vực sông Nhuệ có diện tích khoảng 653km 2.
Giới hạn của lưu vực sông NhuệĐáy trên địa bàn Hà Nội như sau: phía Bắc và
phía Đông được bao bởi đê sông Hồng kể từ ngã ba Trung Hà tới cửa Ba Lạt với
chiều dài khoảng 242 km, phía Tây Bắc giáp sông Đà từ Ngòi Lát tới Trung Hà
với chiều dài khoảng 33 km, phía Tây giáp Hòa Bình, phía Nam giáp Hà Nam.
Xét về mặt cấu trúc ngang đi từ Tây sang Đông có thể chia địa hình khu
vực nghiên cứu thành vùng chính như sau:
a) Vùng đồi núi. Địa hình núi phân bố ở phía Tây và Tây Nam, chiếm
khoảng 30% diện tích, có hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam ra biển
và thấp dần từ Tây sang Đông. Địa hình đồi núi được tách ra với địa hình núi và
đồng bằng độ chênh cao <100m, độ phân cắt sâu từ 15100m. Trong phạm vi
lưu vực sông NhuệĐáy, địa hình đồi chiếm khoảng 10% diện tích có độ cao
dưới 200m.
13
Hình 1.2. Bản đồ lưu vực hệ thống sông Nhuệ Đáy khu vực Hà Nội
b) Vùng đồng bằng. Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 60% lãnh
thổ, địa hình khá bằng phẳng có độ cao < 20m và thấp dần từ Tây sang Đông,
từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Hướng chảy của sông Nhuệ Đáy luôn thay đổi:
14
thượng nguồn hướng BắcNam; trung lưu và hạ lưu hướng Tây BắcĐông
Nam. Thượng lưu sông Nhuệ Đáy uốn khúc quanh co, hẹp và dốc, nhiều thác
ghềnh, nước chảy xiết là nguy cơ tạo ra các hiện tượng xói lở, lũ quét...
Lưu vực sông NhuệĐáy được cấu thành bởi các đá biến chất, trầm tích,
trầm tích phun trào, các đá xâm nhập và trầm tích bở rời tuổi từ Protezozoi đến
hiện đại. Dựa vào thành phần thạch học, các thông số địa chất thuỷ văn và đặc
điểm thuỷ động lực,... có thể phân chia vùng nghiên cứu thành 7 tầng chứa
nước. Lưu vực sông Nhuệ Đáy gồm có các nhóm đất chính: Nhóm đất mặn;
phù sa; xám; vàng đỏ; đất xói mòn trơ sỏi đá...
Do lưu vực sông ĐáyNhuệ có địa hình đa dạng, với các vùng đồi, núi và
2/3 diện tích là đồng bằng, nên trên lưu vực có nhiều hệ sinh thái khác nhau
như rừng trên núi đất, núi đá vôi, các hệ sinh thái thủy vực nước ngọt, các vùng
đất ngập nước. Hiện nay rừng đầu nguồn lưu vực sông đang bị tàn phá nghiêm
trọng. Diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp đáng kể. Theo số liệu khảo sát gần đây
nhất, diện tích rừng trên lưu vực thuộc địa bàn Hà Nội chiếm 160.84km 2 (chiếm
6.36% diện tích lưu vực trên địa bàn Hà Nội), trong đó có 55.2km2 là rừng dự trữ;
105.64km2 là rừng dàynghèo [8].
Khí hậu lưu vực sông NhuệĐáy khá tiêu biểu cho kiểu khí hậu Bắc Bộ
với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông
lạnh, mưa ít. Lượng mưa phân bố không đồng đều, trung bình hàng năm
1.800mm. Hữu ngạn của lưu vực mưa khá lớn (X > 1800mm), nhất là vùng đồi núi
phía Tây (X >2000mm). Trung tâm mưa lớn nhất ở thượng nguồn sông Tích thuộc
núi Ba Vì (X=22004000mm). Ph ầ n t ả ng ạn l ưu vự c l ư ợng mưa tươ ng đối
nh ỏ (X=15001800mm), nhỏ nhất ở th ượng nguồn sông Đáy, sông Nhuệ
(X=1500mm), và lại tăng dần ra phía biển (18002000mm).
Khu vực ô trũng đầm lầy về mùa mưa, thường xuyên bị úng ngập, đặc
biệt những khu vực nằm trong vùng phân lũ của sông Đáy, bởi vậy mỗi khi có
báo động III hoặc phân lũ thì bị ngập nước ở độ sâu từ 1 4m.
Trên toàn lưu vực, mùa mưa bắt đầu từ tháng IVV và kết thúc vào tháng X
XI, tập trung tới 7090% lượng mưa cả năm.
15
Bảng 1.1. : Lượng mưa bình quân năm lưu vực sông Nhuệ Đáy
từ 19711997
STT
Tên trạm
Lượng mưa bình quân năm (mm)
1
Sơn Tây
1809
2
Ba Vì
2068
3
Ba Thá
2019
4
Vân Đình
1699
5
Hà Đông
1595
6
Xuân Mai
1807
7
Hà Nội
1656
Chế độ nhiệt phân hoá khá rõ rệt theo đai cao trong khu vực nghiên cứu.
Nhiệt độ trung bình năm ở vùng thấp đạt từ 25 27oC, ở vùng đồi núi phía Tây và
Tây Bắc nhiệt độ trung bình năm xấp xỉ 24oC.
Lượng bức xạ tổng cộng trung bình hàng năm là 122,8 kcal/cm2 và nhiệt độ
không khí trung bình hàng năm từ 15240C. Mùa đông gió có hướng thịnh hành là
Đông Bắc, tần suất đạt 60 70%. Một số nơi do ảnh hưởng của địa hình, hướng gió
đổi thành Tây Bắc và Bắc, tần suất đạt 25 40%. Mùa hè các tháng V, VI, VII
hướng gió ổn định, thịnh hành là Đông và Đông Nam, tần suất đạt khoảng 60 70%.
Tháng VIII hướng gió phân tán, hướng thịnh hành nhất cũng chỉ đạt tần suất 20
25%. Các tháng chuyển tiếp hướng gió không ổn định, tần suất hướng thay đổi
trung bình từ 10 15%.
Bốc hơi là một trong những thành phần chính của cán cân nhiệt và cán cân
nước. Lượng bốc hơi từ bề mặt trải trên lưu vực chủ yếu quyết định bởi tiềm năng
nhiệt và ẩm. Do đó, sự phân bố của lượng bốc hơi năm phụ thuộc vào sự phân bố
không gian của nhiệt và ẩm. Ngoài yếu tố mưa, yếu tố bốc hơi từ bề mặt lưu vực
cũng tham gia trực tiếp vào cán cân nước, ảnh hưởng rõ rệt tới sự hình thành dòng
chảy. Do nền nhiệt độ trên lưu vực cao làm cho quá trình bốc hơi trên lưu vực diễn
ra đều khá lớn. Lượng bốc năm dao động trong khoảng 9001000mm. Do chịu ảnh
hưởng của biển độ ẩm tương đối trung bình hàng năm của lưu vực là 7580%, lớn
nhất vào đầu mùa mưa, và thấp nhất trong mùa khô.
Mạng lưới sông ngòi khu vực nghiên cứu tương đối phát triển, mật độ
lưới sông đạt 0,7 1,2km/km2. Lưu vực có dạng dài, hình nan quạt, gồm các sông
16
chính:
Sông Đáy nguyên là một phân lưu lớn đầu tiên ở hữu ngạn sông Hồng, bắt
đầu từ cửa Hát Môn chảy theo hướng Đông Bắc Tây Nam. Nhưng đến năm 1937,
sau khi xây dựng xong đập Đáy nước sông Hồng không thường xuyên vào sông Đáy
qua cửa đập Đáy trừ những năm phân lũ, vì vậy phần đầu nguồn sông (từ km 0 đến
Ba Thá dài 71km) sông Đáy coi như đoạn sông chết. Lượng nước để nuôi sông Đáy
chủ yếu là do các sông nhánh, quan trọng nhất là sông Tích.
Sông Nhuệ lấy nước từ sông Hồng qua cống Liên Mạc để tưới cho hệ thống
thủy nông Đan Hoài. Sông Nhuệ còn tiêu nư ớc cho thành phố Hà Nội, thị xã Hà
Đông và chảy vào sông Đáy tại thành phố Phủ Lý . Nước sông Tô Lịch thường
xuyên xả vào sông Nhuệ với lưu lượng trung bình từ 1117m 3/s, lưu lượng cực đại
đạt 30m3/s. Các sông chính trong lưu vực: sông Nhuệ, sông Thanh Hà, sông Tích,
sông Bùi và Sông Tô Lịch là nhánh chính của sông Nhuệ, nhận nước từ sông Lừ,
Kim Ngưu, Sét [9]
1.3. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI
a) Phân bố dân cư
Dân số trên lưu vực sông Nhuệ sông Đáy trên lưu vực nghiên cứu ước
tính đến năm 2009 là 10,77 triệu người, mật độ trung bình đạt 1405 người/km2,
cao gấp 5,5 lần so với bình quân chung của cả nước (252 người/km 2). Đặc biệt
là thủ đô Hà Nội, nơi tập trung đông dân nhất, tổng số dân của Hà Nội tính đến
1/4/2009 là 6472200 người, mật độ dân số trung bình là 1979 người/ km 2 . Mật
độ dân số đông nhất thuộc quận Đống Đa lên tới 35341 người/km2.
Kết quả điều tra dân số 4/2009 cho thấy, nguồn nhân lực lao động của
toàn lưu vực tăng nhanh, đặc biệt là ở thành thị. Cho đến năm 2009 tốc độ tăng
của lực lượng lao động đạt 2,5%/năm, ở thành thị tốc độ tăng của lực lượng lao
động là 5,7%, trong khi đó vùng nông thôn chỉ đạt 1,75%.
Tốc độ tăng lao động nhanh không phù hợp với tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế, nên số người thất nghiệp và thiếu việc làm ở đây khá cao, tác động
xấu đến môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Sự phân bố nguồn nhân lực và tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực giữa các
vùng, các địa phương cũng rất khác nhau, không tương ứng với nguồn tài nguyên
thiên nhiên như đất, nước, rừng và khoảng sản cũng như không phù hợp với tốc
17
độ tăng của nền kinh tế. Điều đó dẫn đến những luồng di chuyển dân cư lao
động từ vùng này sang vùng khác, cũng là nguyên nhân gây mâu thuẫn, xung đột
trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên trong vấn đề tìm kiếm việc làm.
Bảng 1.2: Tình hình phát triển dân số giai đoạn 19902009 (1000
người)
Năm
1990
1995
2000
2003
2009
Toàn vùng
8143,9
8888,2
9510,5
9934,6
10813.7
Hà Nội
2119,1
2431,0
2739,2
3007,0
Hà Tây
2116,7
2299,0
2414,1
2479,4
Hà Nam
722,3
763,7
795,5
814,9
785,0
Nam Định
1715,9
1820,5
1904,1
1935,0
1825,7
Ninh Bình
792,1
855,5
889,8
906,0
898,5
Hoà Bình
677,8
718,5
767,8
792,3
832,5
Tỉnh
6472
b)Tình hình phát triển kinh tế
Lưu vực sông Nhuệ sông Đáy là khu vực có nền kinh tế xã hội phát
triển liên tục từ rất lâu đời, cho đến ngày nay đây vẫn là một vùng kinh tế xã
hội phát triển nhất đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra, vùng còn có nhiều thị trấn,
huyện lỵ với qui mô dân số mỗi thị trấn, huyện lỵ khoảng 3000 5000 người.
Những năm qua các cơ sở hạ tầng của các khu đô thị đang phát triển mạnh,
nhưng chưa được đầu tư thích đáng và chưa đáp ứng được nhu cầu phất triển.
Trong tương lai định hướng phát triển đô thị vùng được bố trí theo cụm hay theo
chùm. [8]
1.4. HIỆN TRẠNG TÀI NGUYÊN NƯỚC
a) Lưu vực sông Đáy
Lưu vực sông Đáy trên địa bàn thành phố Hà Nội với chiều dài 114 km.
Các chi lưu của sông Đáy: sông Tích, sông Bùi, sông Thanh Hà. Mùa lũ kéo dài từ
tháng 6 đến tháng 9, lượng dòng chảy chiếm 70 – 80% tổng lượng dòng chảy
năm.
Bảng 1.3: Tài nguyên nước mặt trên lưu vực sông Đáy
Tần suất
Tài nguyên nước mặt ( tỷ m3)
18
Tổng (tỷ m3)
xuất hiện
50%
75%
80%
95%
Sản sinh trên
lưu vực
6,88
4,75
3,74
2,16
Sông Đào
22,2
20,5
17,4
15,8
Sông Ninh Cơ
6,94
36,02
6,41
31,66
5,44
26,58
4,94
22,9
Nguồn: Cục quản lý tài nguyên nước
Bảng trên cho thấy tần suất xuất hiện của lượng nước tự sản sinh trong
lưu vực và lượng nước được chuyển từ sông Hồng qua sông Đào, sông Ninh Cơ,
hai con sông cung cấp nước chính cho phía hạ lưu sông Đáy.
Trong mùa mưa, mực nước và lưu lượng các sông suối lớn thay đổi nhanh,
tốc độ dòng chảy đạt từ 2 3 m/s, biên độ mực nước trong từng con lũ thường 4
5 m. Mực nước và lưu lượng lớn nhất năm có có khả năng xuất hiện trong tháng
VII, VIII, hoặc IX, nhưng phổ biến vào tháng VIII. Phân phối dòng chảy năm lưu
vực sông Đáy được trình bày trong bảng (1.4) [5].
Bảng 1.4: Phân phối dòng chảy năm các trạm thuộc lưu vực sông Đáy
Tháng
Sông Bùi
Q (m /s)
Tỷ lệ %
0 ,313
2 ,38
0 ,255
1 ,94
0 ,205
1 ,56
0 ,27
2 ,05
0 ,544
4 ,13
1 ,04
7 ,9
1 ,62
12 ,3
2 ,52
19 ,1
3 ,31
25 ,1
1 ,79
13 ,6
0 ,911
6 ,92
0 ,388
2 ,95
2 ,06
78 ,1
0 ,41
21 ,9
1 ,1
100
3
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Mùa lũ
Mùa cạn
Năm
Sông Tích
Q (m3/s)
Tỷ lệ %
8 ,27
2 ,35
8 ,49
2 ,42
7 ,22
2 ,05
13 ,4
3 ,81
24 ,5
6 ,97
33 ,6
9 ,36
34 ,4
9 ,79
56 ,5
16 ,1
77 ,1
21 ,9
46 ,8
13 ,3
22 ,8
6 ,49
18 ,3
5 ,21
49 ,7
70 ,7
14 ,7
29 ,3
28 ,5
100
Sông Đáy
Q (m /s) Tỷ lệ %
12 ,1
1 ,93
2 ,8
2 ,04
11 ,5
1 ,84
18 ,2
2 ,91
34 ,2
5 ,47
55 ,4
8 ,85
81 ,8
13 ,1
135
21 ,6
145
23 ,2
74 ,4
11 ,9
32 ,8
5 ,24
12 ,5
2
98 ,3
78 ,6
19 ,2
21 ,4
52 ,9
100
3
Nguồn: Cục Bảo Vệ Môi Trường 2006
b) Lưu vực sông Nhuệ
Sông Nhuệ là một con sông nhỏ dài 74 km, nhận nước từ sông Hồng và
19
lượng mưa trên toàn lưu vực khống chế của sông Nhuệ cuối cùng đổ vào sông
Đáy qua cống Lương Cổ ở khu vực thành phố Phủ Lý. Về mùa kiệt cống Liên
Mạc luôn mở để lấy nước sông Hồng vào sông Nhuệ, còn về mùa lũ chỉ mở khi
mực nước sông Hồng dưới báo động cấp I và trong đồng có nhu cầu cấp nước.
Cống Lương Cổ về mùa lũ luôn luôn mở để tiêu nước và chỉ đóng lại khi có phân
lũ qua đập Đáy. Nước sông Tô Lịch thường xuyên xả vào sông Nhuệ với lưu lượng
trung bình từ 1117m3/s, lưu lượng cực đại đạt 30m3/s .
c) Tình trạng ô nhiễm nước trên lưu vực
Trong những năm gần đây, tình hình phát triển kinh tế xã hội diễn ra rất
mạnh đem lại nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, ngoài
những lợi ích mang lại, thì tình trạng ô nhiễm do những mặt trái của các hoạt
động trên gây ra đang ở mức báo động. Môi trường nói chung và môi trường
nước nói riêng trong khu vực đang bị ô nhiễm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khoẻ người lao động cũng như người dân sống quanh vùng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến môi trường bị ô nhiễm, hầu hết là do việc
xả thải vào môi trường không đảm bảo tiêu chuẩn và quy trình gây nên tình
trạng mất cân bằng, dẫn đến ô nhiễm. Các nguồn gây ô nhiễm đó chủ yếu là
do các hoạt động: nước thải từ sinh hoạt và đô thị; từ công nghiệp; từ các làng
nghề và tiểu thủ công nghiệp; từ nông nghiệp, thuỷ sản và từ các nguồn khác
(bệnh viện, dịch vụ).
Theo thống kê của Trung tâm quan trắc môi trường (Tổng cục môi
trường), mỗi ngày sông Nhuệ Đáy phải gánh trên 2,5 triệu m3 nước thải từ
sản xuất nông nghiệp. Sản xuất Công nghiệp 610000 m3/ngày, nước thải sinh
hoạt 630 m3/ngày, nước thải bệnh viện 15500m3/ ngày... chưa kể đến nước
thải của hoạt động du lịch, hoạt động sản xuất của làng nghề...
Hiện nay, chất lượng nước sông Nhuệ Đáy đang bị ô nhiễm, nhiều
đoạn bị ô nhiễm tới mức báo động. Theo một số kết quả phân tích nước
sông Nhuệ Đáy gần đây, chất lượng nước sông đang bị ô nhiễm nặng, vượt
tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần .Mẫu nước sông Nhuệ lấy tại Cầu Hà Đông
cho thấy, hàm lượng ô xy hòa tan có trong nước thấp hơn quy chuẩn tới 7 lần,
hàm lượng chất hữu cơ vượt tiêu chuẩn 10 lần, NH4 vượt quy chuẩn 35 . , 6
lần....
20
Ở sông Đáy, mức độ ô nhiễm mang tính cục bộ, trong đó nặng nề nhất là
đoạn cầu Hồng (Phủ l Lý, Hà Nam hợp lưu sông Nhuệ, Đáy và sông Châu
Giang). Tại đây, nước sông bị ô nhiễm hữu cơ cao. Các thông số như BOD5,
COD, các hợp chất Nitơ và Coliform đều không đạt tiêu chuẩn cho phép. Tình
trạng này diễn ra tương tự như tại đoạn hợp lưu của sông Hoàng Long đổ vào
sông Đáy (cầu cẩu Gián Khẩu Gia Viễn – Ninh Bình). [9]
21
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
2.1. CÁC KỊCH BẢN BIẾN DỔI KHÍ HẬU
Biến đổi khí hậu, theo cách sử dụng của IPCC, chỉ sự biến đổi trong trạng
thái khí hậu nhận biết được thông qua những thay đổi về giá trị trung bình hoặc
tính chất của nó diễn ra trong một thời đoạn dài hàng thập kỷ hoặc hơn thế. Nó
chỉ ra bất cứ thay đổi nào của khí hậu theo thời gian cho dù là do biến đổi tự
nhiên hay do tác động của con người [1,2].
Theo số liệu quan sát cho thấy xu thế chung từ cuối thế kỷ XIX đến nay,
nhiệt độ trung bình không khí và đại dương toàn cầu tăng lên. Kết quả đo đạc và
nghiên cứu cho thấy thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ vừa
qua (IPCC, 2001). Từ 19952006 có đến 11 năm nằm trong số 12 năm nhiệt độ
lớn nhất theo số liệu đo đạc nhiệt độ toàn cầu từ 1850. Nhiệt độ trong 100 năm
19062005 tăng 0.,74 (0.,560.,92) lớn hơn so với giai đoạn 100 năm 19012000
(0.,6 0.,4:0.,8). Xu hướng trong 50 năm từ 19562005 ((0.,13[0.,10 to 0.,16]°C)
gần gấp đôi so với giai đoạn 100 năm từ 1906 đến 2005. Nhiệt độ tăng lên cao
hơn ở các vĩ độ cao ở Bắc bán cầu: nhiệt độ ở Bắc bán cầu trung bình tăng gần
gấp đôi của toàn cầu trong giai đoạn 100 năm qua. Nhiệt độ ở đất liền tăng
nhanh hơn đại dương. Theo quan sát từ 1961 thì nhiệt độ đại dương tăng ở cả độ
sâu ít nhất là 3000 m. Đại dương đã chiếm 80% lượng nhiệt của hệ thống khí
hậu.Theo kết quả phân tích từ khinh khí cầu và vệ tinh thì tốc độ nóng lên ở giữa
tầng đối lưu và thấp hơn giống với tốc độ của nhiệt độ bề mặt [3,4].
Hiện tượng mưa cũng biến động đáng kể, lượng mưa tăng đáng kể trong
giai đoạn từ 1900 đến 2005 ở các nước nằm ở phía Tây của Bắc và Nam Mỹ,
Châu Âu, Bắc và Trung tâm Châu Á. Trong khi đó nó giảm ở Sahel, Địa Trung
Hải, Bắc Phi và Nam Châu Á. Tương ứng với sự nóng lên toàn cầu, mực nước
trung bình đại dương cũng tăng lên do bằng tan và sự giãn nở nhiệt đại dương.
Mực nước biển tăng với tốc độ trung bình 1.,8 [1.,3 2.,3] mm một năm trong
giai đoạn 19612003. Tốc độ là 3.,1 [2.,4 3.,8] mm trong giai đoạn 19932003.
Cùng với xu thế tăng nhiệt độ toàn cầu là sự phân bố dị thường của nhiệt độ.
Trên các đại lục ở Bắc Bán Cầu, trong những năm gần đây xuất hiện hàng loạt
kỷ lục về nhiệt độ cao và thấp.[14]
22
a) Biểu hiện của Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo các kết quả phân tích các số liệu khí hậu cho thấy các yếu tố của khí
hậu tại Việt Nam những năm trước đây có những đặc điểm dưới đây [2].
Nhiệt độ: Trong 50 năm qua ( 1958 – 2007), nhiệt độ trung bình ở Việt
Nam tăng lên khoảng 0.,50C đến 0.,70C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt
độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn ở các vùng
khí hậu phía Nam (hình 2.1 a). Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây
(1961 – 2000) cao hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó ( 1931 – 1960).
Nhiệt độ trung bình năm của thập kỷ 1991 – 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành
phố Hồ Chí Minh đểu cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 – 1940 lần lượt là
0,8; 0,4 và 0,60C. Năm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn
trung bình của thập kỷ 1931 – 1940 là 0,8 – 1,30C và cao hơn thập kỷ 1991 – 2000
là 0,4 – 0,50C.
Hình 2.1:. Diễn biến của nhiệt độ (a) và lượng mưa (b) ở Việt Nam 50 năm
qua
Lượng mưa: Trên từng địa điểm cụ thể, xu thế biến đổi của lượng mưa
23
trung bình năm trong 9 thập kỷ vừa qua (1991 – 2000) không rõ rệt theo các thời
kỳ và trên các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống.
Lượng mưa giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng lên ở các vùng khí hậu
phía Nam (hình 3.1 b). Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa trong 50 năm
qua (1958 – 2007) đã giảm khoảng 2%.
Không khí lạnh: Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi
rõ rệt trong 2 thập kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị thường lại thường xuất
hiện mà đợt gần đây nhất là đợt không khí lạnh kéo dài 38 ngày trong tháng 1
đến tháng 2
năm 2008 ở Bắc Bộ.
Bão: Những năm gần đây, bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn.
Quỹ đạo của bão có nhiều dịch chuyển dần về phía Nam và mùa bão kết thúc
muộn hơn, nhiều cơn bão có đường đi dị thường hơn.
Mưa phùn: Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần từ thập
kỷ 1981 – 1990 và chỉ còn một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây.
Mực nước biển: Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn dọc ven biển Việt
Nam cho thấy tốc độ dâng lên của mực nước biển trung bình ở Việt Nam hiện
nay là khoảng 3mm/năm (1993 2008), tương đương tốc độ trung bình trên thế
giới. Trong 50 năm qua, mực nước biển tại Hòn Dấu dâng lên khoảng 20cm.
Hình 2.2: Diễn biến mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dấu
b) Cơ sở xây dựng kịch bản biến đổi khí hậu
Theo ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), kịch bản biến đổi
24
khí hậu là bức tranh toàn cảnh của khí hậu trong tương lai dựa trên một tập hợp
các mối quan hệ khí hậu, được xây dựng để sử dụng trong nghiên cứu những
hậu quả của biến đổi khí hậu do con người gây ra và thường được dùng như là
đầu vào các mô hình đánh giá tác động. Hiện nay có nhiều quốc gia, nhiều khu
vực xây dựng kịch bản biến đổi khí hậu với quy mô khu vực, quốc gia và các
vùng khí hậu hoặc phạm vi nhỏ hơn. Về khung thời gian, hầu hết các kịch bản
biến đổi khí hậu thường được xây dựng cho từng thập kỷ của thế kỷ 21.
Biến đổi khí hậu hiện nay cũng như trong thế kỷ 21 phụ thuộc chủ yếu
vào mức độ phát thải khí nhà kính, tức là phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã
hội. Vì vậy, các kịch bản biến đổi khí hậu được xây dựng dựa trên các kich bản
phát triển kinh tế xã hội toàn cầu. Con người đã phát thải quá mức khí nhà kính
vào khí quyển từ các hoạt động khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông vận tài, phá rừng,… Do đó, cơ sở xác định các kịch bản phát thải khí nhà
kính là :
Sự phát triển kinh tế ở quy mô toàn cầu
Dân số thế giới và mức độ tiêu dùng
Chuẩn mực sống và lối sống
Tiêu thụ năng lượng và tài nguyên năng lượng
Chuyển giao công nghệ
Sử dụng đất
…
Trong Báo cáo đặc biệt về các kịch bản phát thải khí nhà kính năm 2000,
IPCC đã đưa ra 40 kịch bản, phản ánh khá đa dạng khả năng phát thải khí nhà
kính trong thế kỷ 21. Các kịch bản phát thải này được tổ hợp thành 4 kịch bản
gốc là A1, A2, B1 và B2 với các đặc điểm chính sau:
Kịch bản gốc A1: Kinh tế thế giới phát triển nhanh; dân số thế giới
tăng đạt đỉnh vào năm 2050 và sau đó giảm dần; truyền bá nhanh chóng và hiệu
quả công nghệ mới; thế giới có sự tương đồng về thu nhập và cách sống, có sự
tương đồng giữa các khu vực, giao lưu mạnh mẽ về văn hóa và xã hội toàn cầu.
Họ kịch bản A1 được chia thành 3 nhóm dựa vào theo mức độ phát triển của
25