Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê ngoài màng cứng đoạn ngực bằng bupivacaine phối hợp fentanyl trong và sau phẫu thuật mở vùng bụng trên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.34 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG
ĐOẠN NGỰC BẰNG BUPIVACAINE PHỐI HỢP FENTANYL TRONG
VÀ SAU PHẪU THUẬT MỞ VÙNG BỤNG TRÊN
Trần Đỗ Anh Vũ*, Huỳnh Thị Thỉ*, Trần Thị Ngọc Phượng*, Hà Ngọc Chi*
TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đau sau mổ là một trong những vấn đề quan trọng nhất mà bệnh nhân phẫu thuật phải đối
mặt. Phẫu thuật mở vùng bụng trên gây đau sau mổ rất dữ dội và ảnh hưởng lớn đến sinh lý và tâm lý của bệnh
nhân. Gây tê ngoài màng cứng (NMC) đoạn ngực để giảm đau sau phẫu thuật mở vùng bụng trên đã được
chứng minh có hiệu quả giảm đau tốt và đã được áp dụng rộng rãi.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả giảm đau của phương pháp gây tê NMC đoạn ngực bằng bupivacaine phối hợp
với fentanyl trong và sau phẫu thuật mở vùng bụng trên. Khảo sát các tai biến và biến chứng của gây tê ngoài
màng cứng đoạn ngực.
Thiết kế nghiên cứu: đoàn hệ tiến cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Các bệnh nhân (BN) được gây tê NMC để giảm đau sau phẫu thuật mở vùng bụng
trên từ tháng 09/2014 đến tháng 08/2015 tại bệnh viện Bình Dân.
Kết quả: Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 52,5 ± 14,4 tuổi (26 – 88
tuổi). Thời gian phẫu thuật trung bình là 126,4 ± 67,3 phút (40 – 300 phút). Kỹ thuật gây tê NMC: có 82,6% đi
đường bên để gây tê, số lần đâm kim gây tê dao động từ 1 – 4 lần, đa số chỉ đâm kim 1 lần (58,7%).Thời gian gây
tê NMC trung bình 13,4 ± 4,8 phút. Tỷ lệ biến chứng chạm mạch khi đi kim Tuohy là 4 trường hợp (8,7%), chạm
mạch khi hút cathteter NMC có 1 trường hợp (2,2%), thủng màng cứng khi đi kim Tuohy có 3 trường hợp
(6,5%). Tỷ lệ thất bại khi gây tê NMC là 1 trường hợp (2,2%). Thời gian lưu catheter NMC trung bình là 51,5 ±
9,1 giờ. Mức đau sau mổ đa số chỉ ở mức nhẹ - trung bình. Các biến chứng liên quan đến gây tê NMC trong
nghiên cứu chỉ ở mức độ nhẹ (tê chân ít, đau đầu, buồn nôn, nôn) và hồi phục hoàn toàn.
Kết luận: Phương pháp gây tê NMC đoạn ngực phối hợp gây mê là một kỹ thuật an toàn cho phẫu thuật
vùng bụng trên. Phác đồ phối hợp bupivacaine và fentanyl có hiệu quả giảm đau tốt và không có những tai biến,
biến chứng nặng.


Từ khóa: Gây tê ngoài màng cứng ngực, phẫu thuật bụng trên.

ABSTRACT
THE ASSESSMENT OF THORACIC EPIDURAL ANESTHESIA WITH BUPIVACAINE
AND FENTANYL FOR PERIOPERATIVE UPPER ABDOMINAL SURGERY
Tran Do Anh Vu, Huynh Thi Thi, Tran Thi Ngoc Phuong, Ha Ngoc Chi
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 364 - 369
Background: Postoperative pain is one of the most important problems. The postoperative pain in open
upper abdominal surgery is very intense and significant impact on the physiology and psychology of the patients.
The thoracic epidural anesthesia has been proven effective pain relief and widely adopted.
Objectives: The study determined the analgesic effects of thoracic epidural anesthesia with bupivacaine
combination with fentanyl for during and after upper abdomen surgery. We surveyed complications of thoracic
* Khoa Phẫu Thuật, BV Bình Dân.
Tác giả liên lạc: ThS Trần Đỗ Anh Vũ

364

ĐT: 0903181976

Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

Nghiên cứu Y học

epidural anesthesia.
Material and Method: A prospective cohort study for all patients received thoracic epidural anesthesia for

upper abdominal surgery from 09/2014 to 08/2015 at Binh Dan Hospital.
Results: The average age of the patients in our study was 52.5 ± 14.4 years (26-88 years). The average
surgical time was 126.4 ± 67.3 minutes (40-300 minutes). The thoracic epidural anesthetic technique: paramedian
approach 82.6%, puncture times from 1- 4 times, most only 1 puncture time (58.7%). The average of thoracic
epidural anesthesia time was 13.4 ± 4.8 minutes. Complication rate touching the circuit when puncture Tuohy
needle was 4 cases (8.7%), touching the circuit when suction cathteter was 1 case (2.2%), dural puncture when
puncture Tuohy needle was 3 cases (6.5%). Failure rate thoracic epidural anesthesia was 1 case (2.2%). The
average retention catheter time was 51.5 ± 9.1 hours. The postoperative pain was only mild-medium level.
Complications related to thoracic epidural anesthesia was only mild (little numbness feet, headache, nausea,
vomiting) and full recovery.
Conclusions: Thoracic epidural anesthesia method is a safe technique for open upper abdominal surgery.
Combination regimens bupivacaine and fentanyl analgesic effects good and there are no severe complications.
Keyword: thoracic epidural anesthesia, upper abdominal surgery.
ngực bằng bupivacaine phối hợp với fentanyl
ĐẶT VẤN ĐỀ
trong và sau phẫu thuật mở vùng bụng trên.
Phẫu thuật mở vùng bụng trên gây đau sau
Khảo sát các tai biến và biến chứng của
mổ rất dữ dội. Đau sau mổ ảnh hưởng đến hệ
GTNMC đoạn ngực.
thống tim mạch, hô hấp, nội tiết làm tăng tỷ lệ tai
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
biến sau mổ và chậm hồi phục(6). Quản lý đau
cấp sau mổ đã được chú ý nhiều trong những
Phương pháp nghiên cứu
năm gần đây. Các phương pháp điều trị đau đã
Thiết kế nghiên cứu là đoàn hệ tiến cứu.
có nhiều tiến bộ nhưng đau sau mổ vẫn còn là
Đối tượng nghiên cứu
một thách thức. Đa số các bệnh nhân thường

chưa được điều trị thỏa đáng và đau sau mổ đã
Các bệnh nhân được GTNMC để giảm đau
trở thành mối lo lắng và không hài lòng của
sau phẫu thuật mở vùng bụng trên tại bệnh viện
bệnh nhân(1). Điều trị đau sau mổ không hiệu
Bình Dân.
quả có thể ảnh hưởng có hại lên sinh lý, tâm lý
Tiêu chuẩn chọn mẫu
của bệnh nhân và để lại những ảnh hưởng bất
1). Bệnh nhân được phẫu thuật mở vùng
lợi lên kinh tế và xã hội.
bụng trên.
Trong các phương thức giảm đau đa mô
2). Bệnh nhân thuộc nhóm ASA I – III.
thức để điều trị đau sau mổ lớn vùng bụng thì
3). Bệnh nhân đồng ý GTNMC đoạn ngực.
giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng
(GTNMC) cho thấy đem lại hiệu quả tốt nhất[4].
Tiêu chuẩn loại mẫu
Vì vậy, chúng tôi thực hiện tiếp tục thực hiện đề
1) Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên
tài: “Đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê
cứu.
ngoài màng cứng đoạn ngực bằng bupivacaine
2). Bệnh nhân có chống chỉ định với TNMC:
phối hợp fentanyl trong và sau phẫu thuật mở
nhiễm trùng toàn thân, nhiễm trùng tại vị trí
vùng bụng trên” với mục đích:
chọc dò, tăng áp lực nội sọ, sốc, dị dạng cột sống
Xác định hiệu quả giảm đau của phương

pháp gây mê ngoài màng cứng (GTNMC) đoạn

ngực, bệnh lý hệ thần kinh trung ương, dị ứng
thuốc tê hay nhóm thuốc Opioid, rối loạn đông
máu hay đang sử dụng thuốc kháng đông.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016

365


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

Phương pháp tiến hành
Thăm khám tiền mê, giải thích và chuẩn bị
BN như một cuộc gây mê bình thường. Giải
thích về phương pháp GTNMC và cho BN ký
cam kết đồng ý gây tê NMC.

Tiến hành gây tê NMC
BN nằm nghiêng, xác định vị trí gây tê tùy
theo phương pháp phẫu thuật.
Gây TNMC đoạn ngực từ T6 đến T10, xác
định khoang NMC bằng test mất sức cản với
nước muối, luồn catheter vào khoang NMC với
độ sâu 3 – 5 cm. Liều test bằng hỗn hợp 3 mL
Lidocaine 1,5% và Epinephrine 1/400.000.


Tiến hành gây mê toàn diện
Khởi mê: Sufentanil 0,2 - 0,3 µg/kg, Propofol
1% 1,5-2,5 mg/kg, Rocuronium 0,6 mg/kg, duy trì
mê bằng sevoflurane.
Trong mổ truyền liên tục hỗn hợp:
Bupivacaine 0,1% + Fentanyl 4 mcg/ml với vận
tốc 4-12ml/giờ.

Sau mổ
Tiếp tục truyền hỗn hợp Bupivacaine 0,1%
và Fentanyl 4 mcg/mL (hoặc 2 mcg/mL) với vận
tốc 4 – 8 mL/giờ, duy trì giảm đau qua catheter
NMC tối đa 72 giờ.
Thêm thuốc giảm đau đường toàn thân
(acetaminophen, NSAID, hoặc morphine) nếu
VAS ≥ 4.

Thu thập và xử lý số liệu:
Tất cả các số liệu cần thu thập được ghi vào
một bảng thu thập, mỗi trường hợp một phiếu.
Các số liệu thu thập sẽ được thống kê và xử
lý bằng phần mềm SPSS 18.0.
Các biến số định tính: biểu diễn bằng tỷ lệ %
và trình bày bằng biểu đồ.
Các biến định lượng: biểu diễn bằng số trung
bình và trình bày bằng bảng.
Các kết quả sẽ được so sánh bằng test T
student hoặc phép kiểm χ2 nếu phân phối bình
thường. Hay Mann-Whitney và Fisher nếu phân


366

phối không bình thường. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê khi P < 0,05.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Từ tháng 09/2014 đến tháng 08/2015 tại bệnh
viện Bình Dân, tổng số bệnh nhân thu thập được
là 46 trường hợp phẫu thuật mở vùng bụng trên
kết hợp gây mê toàn diện với GTNMC.
Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi là 52,5 ± 14,4 tuổi, lớn
nhất là 88 tuổi, nhỏ nhất là 26 tuổi. Chúng tôi
không tìm thấy sự liên quan giữa tuổi với các
biến chứng của gây tê ngoài màng cứng, ngộ độc
thuốc, nhiễm trùng vị trí gây tê.
Bảng 1: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Giới Nam
Nữ
2
BMI (kg/m ) < 18,5
18,5–24,9
25–29,9
Phân độ ASA ASA I
ASA II
ASA III

Số BN (n)
26
20

7
36
3
1
43
2

Tỷ lệ (%)
56,5
43,5
15,2
78,3
6,5
2,2
93,5
4,3

Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
tôi có phân độ chỉ số khối cơ thể (BMI) dao động
từ 14,5 – 28,9. Chúng tôi có 1 bệnh nhân rất gầy
với BMI 14,5 kg/m2, bệnh nhân này chỉ 38 tuổi và
không có bệnh lý đi kèm, nhưng gây tê gặp
nhiều khó khăn vì bị thủng màng cứng và chạm
mạch khi đi kim Tuohy, thời gian gây tê kéo dài
hơn cả những bệnh nhân lớn tuổi. Trong nghiên
cứu của chúng tôi không có các bệnh nhân dư
cân và béo phì. Béo phì cũng là một yếu tố nguy
cơ của thủng màng cứng(8). Vì vậy, chúng tôi
không tìm thấy sự liên quan có ý nghĩa giữa BMI
và các biến chứng của GTNMC.

Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi không có bệnh lý đi kèm, chiếm tỷ lệ
63%. Bệnh lý đi kèm thường gặp nhất là tăng
huyết áp chiếm tỷ lệ 15,2%. Một số bệnh nhân có
2 – 4 bệnh lý đi kèm, thường là tăng huyết áp,
đái tháo đường, viêm dạ dày và thoái hóa khớp,
chiếm tỷ lệ 6,5%. Chúng tôi có 2 bệnh nhân có
phân độ ASA III, đều có bệnh đái tháo đường đi

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
kèm nhưng không điều trị tốt và cả 2 bệnh nhân
này đều bị thủng màng cứng khi gây tê ngoài
màng cứng. Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy
sự liên quan giữa phân độ ASA hay đái tháo
đường không điều trị tốt với nguy cơ thủng
màng cứng. Và các nghiên cứu của các tác giả
khác cũng không có ghi nhận sự liên quan giữa
bệnh lý đi kèm và nguy cơ thủng màng cứng khi
GTNMC.
Bảng 2: Các loại phẫu thuật trong nghiên cứu
Loại phẫu thuật
Ung thư dạ dày
Ung thư gan
Sỏi đường mật, ống mật chủ
U bóng Vater
U đầu tụy
Sỏi gan


Số BN (n)
17
6
5
7
3
8

Tỷ lệ (%)
37
13
10,9
15,2
6,5
17,4

Thời gian phẫu thuật trung bình của các đối
tượng nghiên cứu là 126,4 ± 67,3phút. Trong đó,
bệnh nhân có thời gian phẫu thuật ngắn nhất là
40 phút và dài nhất là 300 phút.
Bảng 3: Kỹ thuật và biến chứng khi gây tê ngoài
màng cứng
Số BN (n)
Đi kim Tuohy
Đường giữa
8
Đường bên
38
Số lần gây tê

1 lần
27
2 lần
12
3 lần
6
4 lần
1
Chạm mạch
Đi kim Tuohy
4
Hút catheter
1
Thủng màng cứng
3
Thất bại gây tê
1

Tỷ lệ (%)
17,4
82,6
58,7
26,1
13
2,2
8,7
2,2
6,5
2,2


Thời gian GTNMC trung bình trong nghiên
cứu là 13,4 ±4,8 phút, thời gian gây tê ngắn nhất
là 10 phút và dài nhất là 40 phút.
Các tai biến và biến chứng liên quan đến
GTNMC bao gồm: tổn thương thần kinh, ngộ
độc thuốc tê, thủng màng cứng, suy hô hấp, tụ
máu ngoài màng cứng…
Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào bị
tổn thương thần kinh khi GTNMC. Trên thế giới,

Nghiên cứu Y học

tổn thương thần kinh vĩnh viễn liên quan đến
GTNMC rất hiếm khoảng 3/50.000, tỷ lệ dao
động từ 0,005 - 0,006% [3]. Tỷ lệ thủng màng cứng
trong nghiên cứu của chúng tôi là 6,5%. Tỷ lệ
thủng màng cứng của chúng tôi cao hơn so với
các nghiên cứu khác 0,4 – 1,2%[8]. Do kinh
nghiệm GTNMC đoạn ngực tại bệnh viện Bình
Dân còn ít, và gây tê đoạn ngực khó hơn hơn so
với đoạn thắt lưng. Vì khoảng cách từ da đến
khoang ngoài màng cứng đoạn ngực sâu hơn và
khe giữa các đốt sống ngực hẹp hơn so với đoạn
thắt lưng. Tuy nhiên, chúng tôi không ghi nhận
có trường hợp nào bị tổn thương thần kinh sau
gây tê. Theo nghiên cứu của Imbelloni về giải
phẫu cột sống vùng ngực trên MRI, khoảng cách
từ ngoài màng cứng đến tủy sống đoạn ngực thứ
5 là 7,75mm và ngực thứ 10 là 5,88mm. Các góc
giữa ngực 5 và 6 (gần 500) giúp kéo dài khoảng

cách từ đỉnh kim đến tủy sống. Và ở đoạn ngực
khi thủng màng cứng, kim phải đi đến mặt trước
tủy sống thì mới gây tổn thương tủy sống. Vì
vậy, khi vô tình đâm thủng màng cứng thì tỷ lệ
biến chứng thần kinh cũng thấp[8].
Bảng 4: Thang điểm đau hậu phẫu theo VAS
VAS

Giờ 0
Giờ
(n, %) 8 – 12 (n,
%)
0-1
0
0
> 1 - 3 36 (78,2) 13 (28,3)
> 3 - 5 8 (17,4) 33 (71,7)
> 5 - 7 2 (4,3)
0
>7-9
0
0
> 9 - 10
0
0

Giờ
Giờ
Giờ
16 - 24 24 - 36 (n, 36 - 72 (n,

(n, %)
%)
%)
0
1 (2,7)
2 (6,7)
24 (52,2) 25 (69,4) 20 (66,6)
21 (45,7) 9 (25)
8 (26,7)
1 (2,2)
0
0
0
0
0
0
0
0

Đa số các bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi đều có mức VAS trung bình sau mổ ở
mức đau nhẹ - trung bình. Chúng tôi chỉ có 2
bệnh nhân có mức đau nhiều khi tỉnh hẳn và khi
rút ống nội khí quản. Tuy nhiên, khi chúng tôi
điều chỉnh liều thuốc giảm đau thì gần như
không còn bệnh nhân nào đau nhiều. Như vậy,
nồng độ thuốc tê, opioid và tốc độ truyền thuốc
qua catheter ngoài màng cứng là đủ để giảm đau
sau mổ.
Thời gian lưu catheter trung bình trong

nghiên cứu của chúng tôi là 51,6 giờ, thời gian

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016

367


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

Nghiên cứu Y học

lưu catheter ngắn nhất là 22 giờ, dài nhất là 70
giờ. Thời gian lưu catheter ngoài màng cứng
cũng tùy thuộc vào mức độ đau và thời gian đau
trung bình của mỗi loại phẫu thuật. Chúng tôi có
10 trường hợp rút catheter ngoài màng cứng

Tổng lượng thuốc tê sử dụng cho các bệnh
nhân để giảm đau sau mổ trung bình trong
nghiên cứu của chúng tôi là 218 mg, lượng thuốc
tê sử dụng dao động từ 100 – 300 mg. Trong đó,
tổng lượng thuốc tê được sử dụng nhiều nhất là
200 mg, chiếm tỷ lệ 45,7%.

sớm trong khoảng 24 – 36 giờ do: tắc nghẽn, sút
catheter và loại phẫu thuật bị thay đổi so với dự
kiến ban đầu (phẫu thuật chuyển từ lớn, phức
tạp sang nhỏ, đơn giản nên mức đau và thời gian
đau cũng giảm).
Trong những giờ hậu phẫu đầu tiên, chúng


Toàn bộ bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi, khi rút catheter đều còn nguyên vẹn
và không ghi nhận đầu catheter có mủ hay vị trí
gây tê bị nhiễm trùng.

KẾT LUẬN

tôi ghi nhận có 7 trường hợp (15,2%) cử động

Gây tê ngoài màng cứng đoạn ngực để giảm

bàn chân và gập nhẹ gối (Bromage III). Những

đau sau mổ giúp điều trị đau tối ưu và phác đồ

giờ hậu phẫu tiếp theo số bệnh nhân có Bromage

sử dụng là phù hợp với phẫu thuật vùng bụng

III giảm xuống còn 3 trường hợp (6,5%), sau đó

trên. Kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng đoạn

chỉ còn 2 trường hợp (4,3%). Những trường hợp

ngực khá an toàn và không có nhiều tác dụng

tê chân của chúng tôi đều cải thiện khi giảm liều


phụ đáng kể được ghi nhận. Vì vậy, kỹ thuật gây

hay ngưng thuốc. Nếu sự phong bế vận động

tê ngoài màng cứng đoạn ngực nên được áp

tăng lên hay không giảm, cần xem xét các

dụng rộng rãi, và cần có những hướng dẫn cụ

nguyên nhân như tụ máu ngoài màng cứng, áp-

thể về qui trình gây tê, cách xử trí các tai biến và

xe tủy sống, catheter bị di lệch(10).

biến chứng gây tê.

Bảng 5: Các biến chứng sau gây tê ngoài màng cứng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Biến chứng
Buồn nôn, nôn
Đau đầu

Số BN (n)
8
1


Tỷ lệ (%)
17,4
2,2

Tỷ lệ buồn nôn và nôn ói trên các bệnh nhân
chỉ nhận 1 liều opioid vào trục thần kinh thấp

1.

2.

hơn những bệnh nhân nhận opioid liên tục và
tùy thuộc liều(7). Tỷ lệ buồn nôn và nôn ói ở bệnh
nhân gây mê toàn diện cao hơn bệnh nhân gây

3.

mê toàn diện kết hợp GTNMC đoạn ngực(5).
Trong các biến chứng sau GTNMC, chúng

4.

tôi chỉ ghi nhận 1/3 trường hợp bị đau đầu sau
thủng màng cứng khi gây tê, chiếm tỷ lệ 33,3%.

5.

Tuy nhiên, đau đầu chỉ ở mức trung bình và có
cải thiện với paracetamol. Tỷ lệ đau đầu sau


6.

thủng màng cứng của chúng tôi tương đương
với nghiên cứu của các tác giả khác(3).

368

7.

Ahmed A, Latif N, Khan R (2013), Post operative
analgesia for major abdominal surgery and its
effectiveness in a tertiary care hospital, Journal of
Anaesthesiology Clinical Pharmacology, 29(4), pp.472477.
Aromaa U, Lahdensuu M, Cozanitis DA (1997), Severe
complications associated with epidural and spinal
anaesthesias in Finland 1987-1993. A study based on
patient insurance claims, Acta Anaesthesiol Scand, 41, pp.
445-452.
Choi PT, Galinski SE, Takeuchi L, et al (2003), PDPH is a
common complication of neuraxial blockade in
parturients: a meta-analysis of obstetrical studies,
Canadian Journal of Anesthesia, 50, pp. 460-469.
Doi K, Yamanaka M, Shono A, et al (2007), Preoperative
epidural fentanyl reduces postoperative pain after upper
abdominal surgery, Br J Anaesth, 98(3), pp.380-384.
El-Morsy GZ, El-Deeb A (2012), The outcome of thoracic
epidural anesthesia in elderly patients undergoing
coronary artery bypass graft surgery, Saudi Journal of
Anaesthesia, 6(1), pp.16-21.
Giebler RM, Scherer RU, Peters J (1997), Incidence of

neurologic complications related to thoracic epidural
catheterization, Anesthesiology, 86, pp. 55-63.
Gudaityte J, Germaniene O, Juknyte A, Ubartiene G
(2010), The quality of postoperative epidural analgesia

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

8.

9.

after upper and lower abdominal surgery: A survey of
postoperative records, EUR J ANAESTH, 27(47), pp. 220.
Hollister N, Todd C, Ball S, et al (2012), Minimising the
risk of accidental dural puncture with epidural analgesia
for labour: a retrospective review of risk factors, Int J
Obstet Anesth, 21(3), pp. 236-241.
Siriussawakul A, Suwanpratheep A (2013), Epidural
Analgesia for Perioperative Upper Abdominal Surgery,
Journal of Anaesthesiology Clinical Pharmacology, 29(4).

10.

Nghiên cứu Y học

Võ Thị Nhật Khuyên, Nguyễn Thị Ngọc Đào, Phan Tôn
Ngọc Vũ, và Nguyễn Văn Chừng (2010), Máu tụ ngoài

màng cứng sau gây tê ngoài màng cứng, Y học TP Hồ Chí
Minh, số 14(1), tr. 278-282.

Ngày nhận bài báo:

22/11/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

22/12/2015

Ngày bài báo được đăng:

22/02/2016

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016

369



×