Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục: Tác động của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.15 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, ra đời rất sớm trong  
lịch sử  loài người.  Trong suốt chiều dài tồn tại cùng với sự  phát triển 
của xã hội, tôn giáo đã có những lúc tác động cùng hoặc ngược chiều  
với sự  tiến bộ  của loài người. Tuy nhiên, không thể  phủ  nhận vai trò 
của tôn giáo đối với đời sống tinh thần của nhân loại, bằng chứng là,  
những thăng trầm của lịch sử  đã và đều gắn liền với vấn đề  tôn giáo. 
Trong những năm gần đây, thế  giới chứng kiến những xung đột, bùng 
nổ xã hội, thậm chí là những xung đột vũ trang hay chiến tranh khu vực 
(đặc biệt là cuộc khủng bố của Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS vẫn còn 
đang diễn ra) gây ra nhiều đau khổ, chết chóc mà nguyên nhân của nó có 
liên quan đến vấn đề  tôn giáo và vấn đề  dân tộc. A. Malraux, nhà văn 
hóa nổi tiếng của nước Pháp đã có nhận định tôn giáo trong tình hình 
mới, đòi hỏi xem xét, nghiên cứu tôn giáo trên một mảnh đất mới và đưa 
ra một câu hỏi có tính chất dự  báo: “Vấn đề  then chốt của cuối thế  kỷ 
này là vấn đề tôn giáo được diễn ra dưới một dạng khác với sự hiểu biết  
của chúng ta ngày nay”1.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo tuy xuất hiện 
không giống nhau và cũng đóng những vai trò khác nhau trong sự  phát 
triển của dân tộc nhưng có một điều đặc biệt, mặc dù tôn giáo khác 
nhau, nhưng các tín đồ  đều có một mục đích chung là được thể  hiện 
niềm tin của mình và được đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát 
triển đất nước, để vừa có thể là một công dân tốt, vừa là một người tín 
đồ tốt của tôn giáo mình. 
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tôn giáo và đời 
sống tôn giáo ở Việt Nam cũng có những biến đổi mạnh mẽ. Trong đời 
sống tôn giáo xuất hiện những xu hướng biến  đổi tôn giáo như: xu  
hướng đa dạng hóa và cá nhân hóa tôn giáo; xu hướng vừa cạnh tranh 
vừa đối thoại giữa các tôn giáo; xu hướng quốc tế  hóa và dân tộc hóa 
tôn giáo; xu hướng vừa thế tục vừa tăng tính thiêng của tôn giáo và cuối  


cùng là xu hướng hiện đại hóa tôn giáo. Những xu hướng  đó có cả 
những tác động tích cực và có cả những tác động tiêu cực đến đời sống  
xã hội nói chung và đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam nói riêng. Những 
tác động đó đem lại hậu quả nhất định về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã 
1 Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Nghiên cứu tôn giáo (1994), Những vấn đề tôn giáo hiện 
nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.13


hội.   Trước   những   tác   động  đó,   nhiều   cấp   ủy   và  chính   quyền   ở   địa 
phương còn nhiều lúng túng trong nhận thức giải quyết, thậm chí còn 
những lệch lạc, sơ hở mà các thế lực thù địch lợi dụng gây mất trật tự 
an ninh chính trị xã hội.
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về những xu hướng biến 
đổi tôn giáo, xem xét tác động của chúng đền đời sống tôn giáo, nhận 
thức   rõ   những   xu   hướng   biến   đổi   đó,   làm   rõ   nguyên   nhân,   hệ   quả, 
những mặt tích cực và những tiêu cực trong những tác động đó, đề xuất 
một số  những giải pháp nhằm hạn chế  những tác động tiêu cực, phát 
huy những tác động tích cực là một việc làm có ý nghĩa cả  về  mặt lý 
luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả  lựa chọn vấn đề  “Tác động  
của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt  
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của Luận án Tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu 
Trên cơ sở phân tích, làm rõ một số xu hướng biến đổi của tôn giáo 
và những tác động của chúng đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam, luận án 
đề  xuất một số  quan điểm và giải pháp nhằm phát huy những tác động 
tích cực đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của những xu hướng  
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, qua đó góp  
phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển bền vững xã hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 

Thứ  nhất,  trên cơ  sở  kế  thừa và tiếp thu có chọn lọc những tài  
liệu, công trình khoa học đã nghiên cứu về  xu hướng biến đổi tôn giáo 
của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, Luận án khái quát, tổng 
hợp các tư  liệu có liên quan đến xu hướng biến đổi tôn giáo, tác động 
của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện 
nay, xá định rõ những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ hai, Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về tác động của một 
số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay .
Thứ ba, Phân tích thực trạng tác động của một xu hướng biến đổi 
tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra nguyên  
nhân và một số vấn đề đặt ra.
Thứ  tư,  Đề  xuất một số  quan điểm và giải pháp nhằm phát huy 
những tác động tích cực và hạn chế  tác động tiêu cực của một số  xu 
hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 


3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án đi sâu nghiên cứu một số  xu hướng biến đổi tôn giáo và 
những tác động của chúng đối với đời sống tôn giáo ở Việt Nam trong giai 
đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Có rất nhiều xu hướng biến đổi tôn giáo hiện nay đang diễn ra trên 
thế giới cũng như  ở Viêt Nam, tuy nhiên Luận án lựa chọn 5 xu hướng  
biến đổi tôn giáo nổi bật và tác động mạnh mẽ đến đời sống tôn giáo ở 
Việt Nam, trong giai  đoạn từ  khi đổi mới đến nay, bao gồm các xu 
hướng: xu hướng  đa dạng hóa và cá nhân hóa niềm tin tôn giáo; xu 
hướng vừa cạnh tranh vừa đối thoại giữa các tôn giáo; xu hướng toàn 
cầu hóa và dân tộc hóa tôn giáo; xu hướng vừa thế  tục vừa thiêng hóa 
của các tôn giáo và xu hướng hiện đại hóa tôn giáo.

  Nghiên cứu xu hướng biến đổi tôn giáo cũng như  đánh giá tác 
động của chúng đối với đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đối với  
các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Công giáo và Tin Lành 
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
­ Cơ  sở  lý luận của Luận án là chủ  nghĩa Mác ­ Lê nin, tư  tưởng 
Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật 
của Nhà nước Việt Nam về tôn giáo.
­ Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ 
nghĩa duy vật biện chứng và chủ  nghĩa duy vật lịch sử, đề  tài sử  dụng  
các phương pháp  như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp  
lịch sử ­ logic, phương pháp so sánh, phương pháp kết hợp phân tích lý 
luận với tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia, phỏng vấn sâu,  
phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp liên ngành. 
­ Cách tiếp cận: Cách tiếp cận chủ  đạo của Luận án là cách tiếp cận  
triết học, dựa trên các nguyên lý của chủ  nghĩa duy vậy biện chứng và  
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại  
xã hội và ý thức xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, là 
một thành tố  thống nhất trong đời sống xã hội, có tác động qua lại đối 
với các thành tố  khác của đời sống xã hội. Trong đó, đặc biệt, để  hiểu  
được xu hướng biến đổi tôn giáo, tác giả đặc biệt vận dụng cặp phạm 
trù khả năng – hiện thực, nguyên nhân – kết quả làm cơ sở trực tiếp để 
nghiên cứu về những xu hướng biến đổi tôn giáo hiện nay, đó là cơ  sở 
để  đánh giá những tác động của nó đến đời sống tôn giáo  ở  Việt Nam  
hiện nay.


Ngoài ra, Luận án cũng quan tâm đến cách tiếp cận đa ngành như: 
Nhân học tôn giáo khi xem xét đời sống tôn giáo trong sự biến đổi cả về 
thời gian, không gian, trong đời sống cá nhân và đời sống công cộng. 
Thông qua cách tiếp cận này giúp cho luận án có cái nhìn sâu hơn vào  

trong đời sống tôn giáo.
Cách tiếp cận Xã hội học tôn giáo giúp cho luận án có thể  nhìn 
nhận, đánh giá được những tác động của xu hướng biến đổi tôn giáo 
đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam qua các số liệu, biểu bảng, thống kê,

5. Đóng góp mới của Luận án
Thứ  nhất, luận án đưa ra những luận cứ mới về những xu hướng  
biến đổi tôn giáo hiện nay, một số những xu hướng biến đổi mới trong 
đời sống tôn giáo Việt Nam như: xu hướng cạnh tranh – đối thoại tôn 
giáo, xu hướng hiện đại hóa tôn giáo,…. Luận án cũng hệ  thống một 
cách đầy đủ  nhất về khái niệm đời sống tôn giáo và những yếu tố  của 
đời sống tôn giáo, cách tiếp cận của luận án về  mối quan hệ  giữa xu  
hướng biến đổi tôn giáo và đời sống tôn giáo
  Thứ   hai,   luận   án   phân   tích,   đánh   giá   tác   động   của   một   số   xu 
hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở  Việt Nam hiện nay  ở 
trên 3 khía cạnh: ý thức tôn giáo, quan hệ tôn giáo và hoạt động tôn giáo. 
Qua những tác động này, luận án cũng đưa ra một số những vấn đề đặt 
ra đối với sự tác động này của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống 
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
  Thứ  ba,  luận án đề  xuất một số  quan điểm và giải pháp nhằm 
phát huy những tác động tích cực và hạn chế  những tác động tiêu cực 
của một số  xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo  ở  Việt 
Nam hiện nay, đề  xuất những khuyến nghị  cho quá trình quản lý và 
hoạch định chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo đối với việc quản 
lý tôn giáo ở các cấp, các ban ngành, địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ  những vấn đề  có tính lý luận và 
thực tiễn về xu hướng biến đổi tôn giáo ở Việt Nam cũng như tác động 
của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo của Việt  
Nam qua những căn cứ, những số liệu cụ thể.

Kết quả  nghiên cứu của Luận án góp phần cung cấp cơ  sở  khoa  
học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định các chủ trương, chính 
sách, pháp luật trong lãnh đạo và quản lý tôn giáo ở nước ta hiện nay.


 Luận án cũng có thể  làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên 
cứu và giảng dạy lý luận về  tôn giáo và một số  lĩnh vực khoa học xã  
hội nhân văn khác có liên quan trong các trường chính trị, các trường 
Đại học và Cao đẳng.
7. Kết cấu của Luận án
Luận án ngoài phần Mở  đầu, Kết luận, Danh mục các Tài liệu 
tham khảo, Phụ  lục, Các công trình khoa học của tác giả  đã công bố,  
luận án bao gồm 4 chương, 13 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chương 2. Tác động của một số  xu hướng biến đổi tôn giáo đến  
đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề lý luận
Chương 3: Tác động của một số  xu hướng biến đổi tôn giáo đến 
đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay ­ thực trạng và những vấn đề  đặt  
ra
Chương 4. Một số  quan điểm và giải pháp phát huy tác động tích  
cực và hạn chế  tác động tiêu cực của một số  xu hướng biến đổi tôn 
giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu về lý luân tác động của xu hướng 
biến đổi của tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cũng đã tiếp cận  
vấn đề xu hướng biến đổi tôn giáo ở Việt Nam từ những khái niệm và 
trong đó đặc biệt là các xu hướng biến đổi tôn giáo. Hầu hết các công 

trình ở đây đều đưa ra hoặc là 3, 4 xu hướng biến đổi tôn giáo như: Xu 
hướng đa dạng hóa tôn giáo, xu hướng thế  tục hóa tôn giáo, xu hướng 
dân tộc hóa tôn giáo và xu hướng quốc tế hóa tôn giáo. Các khái niệm về 
Đời sống tôn giáo được tiếp cận từ nhiều hướng và tập trung trong các  
đề tài, Luận án gần đây.
1.2.   Những   công   trình   nghiên   cứu   thực   trạng   tác   động   của   xu 
hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo Việt Nam
Có nhiều công trình nghiên cứu, các báo báo cũng như Kỷ yếu khoa 
học về  thực trạng tác động của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời 
sống tôn giáo Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, thực tế, các công trình này 
chủ yếu trình bày về đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay, hoặc những  


biến đổi trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam chứ chưa trình bày dưới sự 
tác động của các xu hướng biến đổi của các tôn giáo.
1.3. Những công trình nghiên cứu về quan điểm và giải pháp nhằm 
phát huy tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của 
một số  xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo  ở  Việt 
Nam hiện nay
Những công trình này chủ  yếu là các đề  tài, sách của các học giả 
trong nước cũng như  kinh nghiệm của nước ngoài trong các công trình 
hợp tác giữa các trường Đại học với vấn đề  luật pháp tôn giáo Việt  
Nam và các nước khác trên thế giới.
1.4. Một vài nhận xét và những vấn đề đặt ra
1.4.1. Một số nhận xét
Điểm qua tình hình nghiên cứu trên, chúng ta có thể  rút ra một số 
nhận xét sau:
Thứ  nhất, tôn giáo là một lĩnh vực thu hút khá đông đảo học giả 
trong và ngoài nước nghiên cứu. Các công trình tùy từng cách tiếp cận 
khác nhau, có nhiều quan điểm khác nhau về các xu hướng biến đổi tôn 

giáo trên thế  giới cũng như   ở  Việt Nam trong những năm gần đây. Có 
những   xu   hướng   đã  không   còn  là   chủ   đạo   mà   lẫn   vào  trong   các   xu 
hướng khác và bị các xu hướng khác chi phối, nhưng cũng có những xu  
hướng mới xuất hiện, chi phối mạnh mẽ  đến các xu hướng khác (xu 
hướng thế  tục hóa tôn giáo, xu hướng đa dạng hóa tôn giáo). Các học 
giả  trong nước và nước ngoài cũng có những nhìn nhận về  “đời sống 
tôn giáo” giống như một thực thể xã hội đang có những chuyển biến rõ 
rệt theo những khuynh hướng nhất định đó
Thứ  hai, trong các công trình nghiên cứu về  thực trạng tác động 
của một số  xu hướng biến đổi về  tôn giáo đến đời sống tôn giáo Việt 
Nam hiện nay, một số  công trình đã khắc họa được sự  biến đổi mạnh 
mẽ  của đời sống tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay dưới những tác động 
của các xu hướng phát triển xã hội nói chung cũng như những xu hướng  
biến đổi tôn giáo nói riêng. Tuy nhiên, cách tiếp cận chủ  yếu theo Tôn  
giáo học, xã hội học tôn giáo nhìn nhận sự  tác động đó  ở  3 phương 
diện: niềm tin tôn giáo, thực hành tôn giáo và cộng đồng tôn giáo. Có 
thể  nói, đó là 3 lĩnh vực lớn của đời sống tôn giáo, song đời sống tôn  
giáo nếu hiểu như  một khái niệm Triết học thì được nhìn nhận trong  
một kết cấu chỉnh thể  của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố  về  ý 
thức tôn giáo, quan hệ tôn giáo và hoạt động tôn giáo.


Thứ  ba,  một số  công trình cũng đã đề  cập đến những giải pháp 
nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực cũng như hạn chế những mặt  
tiêu cực của một số  xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo 
nói chung, các công trình đã chỉ  ra được kinh nghiệm thực tiễn của các 
quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị  xã hội tương tự  với Việt Nam 
như Trung Quốc, Liên Xô, nhưng cũng có những công trình đề cập đến  
kinh nghiệm của các quốc gia có thể chế chính trị và điều kiện tôn giáo  
khác hoàn toàn với Việt Nam (Mỹ, Nhật Bản). Tuy nhiên, chúng tôi cũng 

đã nhận thấy những ý kiến có tính chất bản lề  cho việc đề  ra những 
giải pháp để phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh  
hưởng tiêu cực của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn 
giáo Việt Nam hiện nay. Các biện pháp đó đều nhấn mạnh đến cả chủ 
thể và khách thể của chính đời sống tôn giáo trong việc quản lý của Nhà 
nước về vấn đề  tôn giáo để phát huy sự tác động tích cực của tôn giáo 
đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
1.4.2. Những vấn đề nghiên cứu đặt ra đối với Luận án
Tuy nhiên, vấn đề  đặt ra là, dựa trên những xu hướng biến đổi 
tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay và những tác động của chúng đối với 
đời sống tôn giáo, theo chúng tôi phải tiếp tục làm rõ đượ c: 
Thứ  nhất, làm rõ cơ  sở  lý luận và thực tiễn của những xu hướng  
đó, đồng thời, chỉ ra biểu hiện của những xu h ướng bi ến đổi tôn giáo ở 
Việt Nam hiện nay. Để  làm được điều này, luận án cần phải tập hợp  
các tư  liệu có liên quan, phân loại theo chủ  điểm. Trên cơ  sở  chắt lọc 
những kiến thức trong các công trình khoa học đã công bố, phục vụ 
việc triển khai các nội dung của luận án.
 Thứ hai, trên cơ sở các tài liệu đã có liên quan, luận án cần phải 
giải quyết được một cách tường minh những vấn đề  có tính lý luận  
như: những khái niệm về Đời sống tôn giáo, về xu hướng biến đổi tôn 
giáo, về  mối quan hệ  giữa xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống 
tôn giáo theo những khía cạnh nào. Dựa trên những tài liệu đã có, căn 
cứ trên thực tiễn về đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay, luận án phải  
chỉ  ra được một số  xu hướng biến đổi tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay  
một cách cập nhật nhất,  để  có thể  thấy  được cái mới của luận  án 
(những xu hướng biến đổi mới xuất hiện ở Việt Nam).
Thứ ba, điều quan trọng phải phân tích, đánh giá được thực trạng 
tác động của những xu hướng biến đổi tôn giáo đó lên đời sống tôn  
giáo của Việt Nam hiện nay, bằng các số  liệu định lượng hoặc định 



tính thông qua những nghiên cứu, ý kiến chuyên gia. Những tác động 
này làm biến đổi đời sống tôn giáo trên 3 lĩnh vực: ý thức tôn giáo, quan  
hệ tôn giáo và hoạt động tôn giáo. Trên mỗi một phương diện, luận án 
sẽ  đề  cập đến những vấn đề  đặt ra cho công tác tôn giáo, đặc biệt là 
cho công tác quản lý tôn giáo từ chính những tác động này.
Thứ  tư, qua thực trạng tác động của một số  xu hướng biến đổi 
tôn giáo đến đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay và những vấn đề 
đặt ra, luận án cần phải chỉ  rõ đượ c một số  quan điểm và giải pháp 
nhằm phát huy những mặt tích cực, của tác động một số  xu hướng 
biến   đổi   tôn   giáo   đến   đời   sống   tôn   giáo   Việt   nam   hiện   nay   nhằm  
hướng tới xây dựng xã hội Việt Nam giàu mạnh, văn minh, giữ  gìn 
bản sắc văn hóa dân tộc. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa những thành 
quả  nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, Luận án muốn đóng 
góp một sự luận giải về vấn đề này.


CHƯƠNG 2
  TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI TÔN GIÁO 
ĐẾN ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – NHỮNG 
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Quan niệm về “ Đời sống tôn giáo” và “Xu hướng biến đổi tôn 
giáo”
2.1.1. “Đời sống tôn giáo” và các yếu tố của đời sống tôn giáo
2.1.1.1. Quan niệm về “đời sống tôn giáo”
Trên cơ sở tiếp thu các kết quả của các công trình nghiên cứu trong  
và ngoài nước và thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lê nin, luận án đưa  
ra quan niệm về Đời sống tôn giáo như sau: đời sống tôn giáo bao gồm  
toàn bộ  hệ  ý thức, quan hệ  giữa các tôn giáo và các hoạt động của  
những cộng đồng tôn giáo (bao gồm chức sắc và tín đồ  tôn giáo) diễn  

ra trong một không gian và thời gian nhất định. 
Như vậy, đời sống tôn giáo được đề cập đến ở đây là một phạm trù 
triết học, nó bao gồm cả  lĩnh vực đời sống vật chất và đời sống tinh 
thần của những người có tôn giáo, nó bao gồm đời sống cá nhân và đời 
sống cộng đồng tôn giáo, trên bình diện đó, nó cũng bao gồm cả  đời 
sống xã hội của người có tôn giáo. Quan hệ  giữa các tôn giáo cũng là 
yếu tố  quan trọng trong đời sống tôn giáo, đó là  ứng xử, thái độ  của 
người có tôn giáo đối với tôn giáo và đối với đời sống chính trị ­ xã hội.
2.1.1.2. Các yếu tố của đời sống tôn giáo
Thứ  nhất, Hệ  ý thức tôn giáo: bao gồm toàn bộ  những yếu tố 
thuộc về đời sống tinh thần của những người có tôn giáo, nó bao gồm ý 
thức tôn giáo (tình cảm tôn giáo, niềm tin tôn giáo, tâm lý tôn giáo) và hệ 
tư tưởng tôn giáo (giáo lý, giáo luật và tổ chức tôn giáo)
Thứ  hai, quan hệ  giữa các tôn giáo.  Nói đến đời sống tôn giáo 
không thể  không nói đến quan hệ  giữa các tôn giáo, đó là thái độ, cách 
ứng xử của các tôn giáo với nhau.
Thứ  ba, những hoạt động tôn giáo là những sinh hoạt tôn giáo và 
những hoạt động xã hội của người có tôn giáo. Những sinh hoạt tôn giáo  
là những sinh hoạt thuần túy của người có tôn giáo như: việc giảng dạy  
giáo lý tôn giáo, việc học đạo hay truyền đạo,… Những sinh hoạt thuần 


túy tôn giáo có thể kể đến như: Nghi lễ (nghi thức) tôn giáo; Sự kiện tôn  
giáo; Không gian tôn giáo.
2.1.2. “Xu hướng biến đổi tôn giáo” và các tiền đề  cho sự  hình thành  
các xu hướng biến đổi tôn giáo
2.1.2.1. Quan niệm về “Xu hướng biến đổi tôn giáo”
Xu hướng biến  đổi tôn giáo được hiểu như  mối quan hệ  giữa  
phạm trù khả  năng và hiện thực, ngẫu nhiên và tất nhiên, nguyên nhân 
và kết quả, nó là kết quả  của hàng loạt các nguyên nhân chủ  quan và 

khách quan. Theo quan điểm của triết học, xu hướng biến đổi tôn giáo là  
kết quả tác động tổng hợp của những nhân tố khách quan và chủ quan, bên  
trong và bên ngoài, trong nước và quốc tế làm cho tôn giáo biến đổi theo  
những chiều hướng nhất định trong một thời gian dài.
2.1.2.2.. Những tiền đề cho các xu hướng biến đổi tôn giáo ở Việt Nam  
hiện nay
Đó là những tiền đề  về  kinh tế, chính trị  ­ xã hội. Những chuyển  
động trong đời sống kinh tế thế giới cũng như Việt Nam, quá trình toàn cầu 
hóa trên tất cả  các lĩnh vực cũng như  đời sống tôn giáo thế  giới và một 
phần nữa đó chính là những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước  
ta về  vấn đề  tôn giáo là những tiền đề  quan trọng dẫn đến những xu  
hướng biến đổi tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Một số xu hướng biến đổi tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1. Xu hướng đa dạng hóa và cá nhân hóa  tôn giáo
Đời sống tôn giáo Việt Nam một mặt thể hiện sự đa dạng hóa niềm 
tin tôn giáo, một mặt thể  hiện xu hướng các nhân hóa niềm tin tôn giáo.  
Trong đó, khái niệm đa dạng tôn giáo (religious pluralism) có những đặc 
điểm đó là  tính đa dạng của tôn giáo  (religious diversity) và  tính thích 
nghi của tôn giáo. Theo đó, nghĩa rộng của đa dạng tôn giáo phản ánh ý  
tưởng các thành viên với các nền tảng tôn giáo khác nhau có thể  thực  
hành và phát triển niềm tin truyền thống của mình giữa những người  
chống lại nó trong một môi trường bình thường. 
Còn Cá nhân hóa tôn giáo được hiểu là các tôn giáo, hiện tượng  
tôn giáo ra đời và phát triển gắn với cá nhân. Sự phát triển tôn giáo thay  
vì hướng đến đại chúng thì hướng vào phục vụ  nhu cầu của những cá  
nhân riêng biệt.
2.2.2. Xu hướng vừa cạnh tranh vừa đối thoại giữa các tôn giáo
Đây cũng là một xu hướng khá phổ biến và cũng là đặc trưng trong 
đời sống tôn giáo Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại. 



Mặc dù Việt Nam không có xung đột tôn giáo, không có chiến 
tranh tôn giáo nhưng sự  tồn tại của rất nhiều tôn giáo và các hệ  phái 
khác nhau cũng tạo ra sự cạnh tranh được thể hiện như: 1). Trong việc 
giành, giữ  tín đồ; 2). Cạnh tranh trong việc thể hiện vai trò xã hội của  
mình.
Ngược lại với cạnh tranh và đối thoại giữa các tôn giáo cũng đang 
diễn ra ở Việt Nam ở những mức độ: 1). Các chức sắc và tín đồ tôn giáo  
đều không tuyệt đối hóa vai trò của tôn giáo mình mà tôn trọng các tôn 
giáo khác; 2). Các chức sắc, tín đồ  tôn giáo không chỉ  am hiểu tôn giáo 
mình mà còn am hiểu kinh điển của các tôn giáo khác; 3). Các tôn giáo  
đều lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mẫu số chung.
2.2.3. Xu hướng toàn cầu hóa và dân tộc hóa tôn giáo
Toàn cầu hóa tôn giáo là quá trình các tôn giáo chuyển từ tính quốc  
tế  sang tính xuyên quốc gia, các tôn giáo thoát dần khỏi tầm kiểm soát  
của nhà nước và gây sự ảnh hưởng lên các quốc gia, dân tộc khác.
Đối lập hóa với xu hướng toàn cầu hóa tôn giáo là xu hướng dân 
tộc hóa tôn giáo cũng đang diễn ra ở Việt Nam. 
Dân tộc hóa tôn giáo được hiểu là quá trình trở về với các tôn giáo  
truyền thống của các tôn giáo hoặc thêm vào các đặc điểm tâm lý, văn  
hóa địa phương, dân tộc với các tôn giáo được du nhập từ  bên ngoài  
vào.
2.2.4. Xu hướng vừa “thế tục hóa” vừa “thiêng hóa”của các tôn giáo.
Thế tục hóa tôn giáo ở Việt Nam hiện nay có những biểu hiện sau:  
Thứ  nhất, hành vi nhập thế  của mọi tôn giáo bằng cách tham gia 
vào những hoạt động thế  tục phi tôn giáo như: xã hội, đạo đức, giáo 
dục, y tế…
Thứ  hai, xu hướng thế  tục hóa cũng biểu hiện trong cuộc  đấu 
tranh của bộ phận tiến bộ trong từng tôn giáo muốn xóa bỏ những điểm 
lỗi thời trong giáo lý, những khắt khe trong giáo luật, muốn tiến tới sự 

đoàn kết giữa các tín đồ các tôn giáo khác nhau.
Thứ  ba, xu hướng thế  tục hóa biểu hiện  ở  vai trò của tôn giáo bị 
giảm sút, đặc biệt là ở các nước công nghiệp, nhất là ở các cư dân thành 
thị và tầng lớp thanh niên. Họ cho rằng cuộc sống bản thân được quyết 
định chủ  yếu là là tự  thân, ít phụ  thuộc và không phụ  thuộc vào thần 
linh.
Thứ  tư, xu hướng thế  tục hóa còn biểu hiện  ở  chỗ  con người  
dường như ra khỏi tôn giáo. Một số tín đồ vẫn tiến hành những nghi lễ 


và cầu xin, có khi còn hành hương nhưng lại không hẳn theo giáo lý hay 
giáo luật đã được định sẵn.
Thứ năm, xu hướng thế tục hóa thể hiện rất rõ mặt trái, trong việc 
tham gia vào các hoạt động chính trị của một số tổ chức tôn giáo nhằm 
bảo vệ trực tiếp hay gián tiếp quyền lợi của các thế lực chính trị  phản  
động.
Mặt khác, các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay cũng đang có xu hướng 
“thiêng hóa”. Cái Thiêng trong tôn giáo hiểu hiện trong mối quan hệ giữa 
tín đồ với đối tượng được thờ cúng. Thiêng hóa có những biểu hiện sau:  
1). Các tôn giáo ngày càng đề cao sự tôn kính và biết ơn đối với các đối 
tượng thờ cúng bằng cách thêm những chức năng mới trong những điều  
kiện mới; 2). Các chức sắc tôn giáo có thêm những chức năng – công  
năng mới.
2.2.5. Xu hướng hiện đại hóa tôn giáo
Hiện đại hóa tôn giáo là quá trình làm cho các tôn giáo ngày càng  
trở  nên hiện đại nhờ  vào việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ 
thuật hiện đại vào tất cả các yếu tố của tôn giáo: giáo lý, sinh hoạt tôn  
giáo và hiện đại trong cách “hiện diện” với xã hội.  Biểu hiện như:
Thứ  nhất, các tôn giáo sử  dụng các phương tiện khoa học – kỳ 
thuật công nghệ vào trong sinh hoạt

Thứ  hai, hiện đại hóa tôn giáo thể  hiện đại trong quan niệm, lối 
sống và trong cách ..thể hiện niềm tin của các tín đồ.
Thứ ba, quan niệm mới của các tổ chức, chức sắc tôn giáo sử dụng 
các phương tiện, cơ sở vật chất hiện đại để truyền đạo cũng như việc  
chấp nhận cơ sở thờ tự, các nghi thức thực hành mới của các tín đồ.
Thứ tư, ngay chính giáo lý các tôn giáo cũng phải thể hiện tính hiện 
đại.
Những xu hướng mà luận án đề  cập đến cho thấy, các xu hướng 
biến đổi tôn giáo đang diễn ra ở Việt Nam có những mâu thuẫn, tồn tại 
các xu hướng biến đổi tôn giáo đối lập nhau như: vừa dạng hóa tôn giáo 
vừa cá nhân hóa tôn giáo; vừa cạnh tranh vừa đối thoại giữa các tôn 
giáo; vừa toàn cầu hóa tôn giáo vừa dân tộc hóa tôn giáo; vừa thế  tục  
hóa tôn giáo vừa thiêng hóa của các tôn giáo. Tuy nhiên, các xu hướng  
này cũng thống nhất với nhau, bổ  sung cho nhau, luôn tồn tại đan xen 
cùng chi phối lẫn nhau. Đúng như  trong triết học DVBC đã chỉ  ra các 
mâu thuẫn nhiều khi gặp nhau, các cực đoan lại “hôn nhau”. Các xu 
hướng biến đổi tôn giáo này cũng khác nhau về thời gian xuất hiện, tồn 


tại, song tạo nên những tác động nhiều chiều một cách trực tiếp và gián 
tiếp lên đời sống tôn giáo Việt Nam, hình thành bức tranh đa màu sắc,  
sinh động và phức tạp của đời sống tôn giáo đương đại.
2.3. Tác động của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo  
– những quan điểm lý luận
2.3.1. Quan điểm của chủ  nghĩa Mác – Lê nin về  mối quan hệ  tôn  
giáo và xã hội
Do những điều kiện về lịch sử cũng như sứ mệnh của học thuyết  
Mác – Lê nin, các nhà sáng lập chủ  nghĩa Mác – Lê nin tuy không có 
điều kiện đi vào nghiên cứu kỳ các vấn đề  của tôn giáo, của xu hướng  
biến đổi tôn giáo cũng như mối quan hệ giữa biến đổi tôn giáo với đời 

sống tôn giáo, nhưng những lý luận về mối quan hệ giữa tôn giáo và xã  
hôi cũng là cơ  sở  để  luận án có thể  phân tích tác động của xu hướng  
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 
2.3.2. Quan điểm của các nhà xã hội học tôn giáo và các nhà nghiên  
cứu tôn giáo học
Các quan điểm này tập trung khai thác sự  tác động – sự  biến đổi  
của đời sống tôn giáo trên các khía cạnh: giáo lý tôn giáo, sinh hoạt tôn  
giáo và cộng đồng tôn giáo.
2.3.3. Cách tiếp cận của luận án về tác động của một số xu hướng  
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay 
Cơ sở lý luận của luận án đó là những nguyên lý, quy luật của triết 
học Mác – Lê nin, đặc biệt là vận dụng các cặp phạm trù: nguyên nhân 
– kết quả, ngầu nhiên – tất nhiên, khả  năng­ hiện thực để  phân tích, 
đánh giá.
Trên cơ sở khái niệm về “đời sống tôn giáo”, luận án đề cập đến 
sự tác động của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo Việt 
Nam hiện nay ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất: những biến đổi trong ý thức tôn giáo
Thứ hai, những biến đổi trong quan hệ tôn giáo
Thứ ba, những biến đổi trong hoạt động tôn giáo.
Tiểu kết chương 2
Lý thuyết về  đời sống tôn giáo và xu hướng biến đổi tôn giáo  ở 
Việt Nam cũng như trên thế giới đang có những nghiên cứu rất mới mẻ. 
Những nghiên cứu này cho chúng ta thấy về  đời sống tôn giáo được 
hiểu không chỉ  đơn thuần là một sự  tách bạch riêng biệt, đời sống tôn  


giáo là một bộ phận của đời sống xã hội của những người có tôn giáo, 
bao gồm hệ  ý thức tôn giáo và các hoạt động tôn giáo của chức sắc và 
tín đồ các tôn giáo. 

Tôn giáo thế giới cũng như tôn giáo Việt Nam trong những năm trở 
lại đây có những sự  biến đổi nhanh chóng và phức tạp theo nhiều xu 
hướng: Xu hướng thế  tục hóa, xu hướng đa dạng hóa, xu hướng toàn 
cầu hóa, xu hướng dân tộc hóa, xu hướng cá nhân hóa tôn giáo,… Có thể 
còn có nhiều những xu hướng khác nữa đang xuất hiện trong đời sống 
tôn giáo hiện nay, nhưng thiết nghĩ, đây là những xu hướng nổi trội 
nhất, có  ảnh hưởng trực tiếp đến sự  biến đổi của đời sống tôn giáo 
Việt Nam. 
Có nhiều cách tiếp cận về mối quan hệ giữa xu hướng biến đổi tôn 
giáo đến đời sống tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu cho những  
cách tiếp cận đó là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin về mối quan hệ 
giữa tôn giáo và xã hội; quan điểm của xã hội học tôn giáo, tôn giáo học 
về  tôn giáo và vai trò của tôn giáo đối với xã hội. Dựa trên cơ  sở  học  
thuyết của chủ nghĩa Mac – Lênin về tôn giáo với xã hội, luận án cũng đã 
cố gắng đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá tác động của một số xu hướng  
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo  ở  3 khía cạnh: ý thức tôn giáo  
quan hệ tôn giáo và hoạt động tôn giáo.
CHƯƠNG 3
TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI TÔN GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY ­ THỰC TRẠNG 
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Tác động của một số  xu hướng biến đổi tôn giáo đến ý thức 
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Tác động của một số  xu hướng biến đổi tôn giáo đến ý thức  
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay – cấp độ cá nhân
3.1.1.1. Sự thức tỉnh, đa dạng niềm tin tôn giáo ở cấp độ ý thức cá nhân  
của đời sống tôn giáo
Sự  thức tỉnh của niềm tin tôn giáo thể  hiện rất rõ trong những số 
liệu về số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam trong những năm vừa qua. 
Điều này bắt nguồn từ  chính những xu hướng biến đổi tôn giáo, đó 

chính là do sự đa dạng hóa tôn giáo, cá nhân hóa tôn giáo, sự cạnh tranh,  
đối thoại giữa các tôn giáo làm cho “thị trường” tôn giáo Việt Nam ngày 
càng phong phú và đa dạng. Hơn nữa, trong một số  gia  đình cũng có 


trường hợp đa dạng niềm tin tôn giáo, mỗi thành viên trong gia đình lại 
có những niềm tin tôn giáo khác nhau. 
Con số  15 tôn giáo và 41 tổ  chức tôn giáo được nhà nước công 
nhận với khoảng 25.323.650 tín đồ  là một minh chứng rõ nét nhất cho  
sự “thức tỉnh” và sự đa dạng hóa niềm tin tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.1.1.2. Phai, nhạt đạo, cải đạo, chuyển đạo trong đời sống cá nhân tôn  
giáo Việt Nam hiện nay
Đối với đời sống tôn giáo Việt Nam cũng nằm trong xu hướng 
biến đổi và phát triển chung đó. Theo những kết quả điều tra xã hội học 
của Viện Nghiên cứu tôn giáo Việt Nam thì số  lượng hành vi tôn giáo 
một cá nhân thực hiện cũng khác nhau giữa bộ  phận có tôn giáo và bộ 
phận không tôn giáo.
Trong đời sống của người Công giáo, khái niệm “ngoan đạo” cũng 
đã có những sự thay đổi. Nếu trước đây, việc tin vào Chúa, việc tham dự 
các Thánh lễ là bắt buộc, việc thuộc Kinh thánh là bắt buộc, thì hiện nay,  
trong giới trẻ, đặc biệt tại các đô thị  lớn, việc tham dự các Thánh lễ  đã  
giảm xuống. Nhiều người trẻ đã không còn siêng năng đến nhà thờ, tham 
dự Thánh lễ, nhiều người trẻ cũng đã nghi ngờ cả phép màu nhiệm của  
Chúa, thậm chí, họ còn hạ tiêu chuẩn trong xem xét đánh giá tín đồ xuống  
còn: chỉ  cần đi lễ, không cần phải thuộc các sách Kinh thánh (các sách 
đọc hàng ngày) như vậy cũng đã là thực hiện lời Chúa.
Sự “nhạt đạo” còn thể hiện ở vị trí của các vị chức sắc trong các tôn 
giáo đã giảm sút ít nhiều, khoảng cách giữa tín đồ  và các chức sắc thể 
hiện gần gũi hơn
Chưa có con số  thống kê chính xác xem số  lượng tín đồ  chuyển 

đạo, cải đạo cụ  thể  từ  các tôn giáo, nhưng có những chuyển biến mà 
chúng ta có thể nhìn thấy, đó là có một bộ phận những người Tin Lành  
chuyển sang Công giáo. Trường hợp thứ  hai là những người Công giáo 
quay trở lại với Phật giáo (xuất hiện nhiều ở các vùng đồng bằng châu 
thổ  Sông Hồng), nhưng cũng có nhiều những hiện tượng chuyển từ tín 
ngưỡng dân gian sang Tin Lành (đó chủ yếu là ở Tây Bắc, Tây Nguyên) 
và cũng từ  các tín ngưỡng dân gian sang Phật giáo (đặc biệt là sau khi 
Giáo hội đã có mặt ở tất cả các tỉnh Tây Bắc).
3.1.1.3. Sự xuất hiện của cộng đồng người nước ngoài có tôn giáo ở Việt  
Nam 
Chưa có một con số  thống kê chính thức của Ban tôn giáo Chính 
phủ  hay của Mặt trận tổ  quốc Việt Nam về số  lượng tín đồ  cũng như 
các tổ  chức tôn giáo nước ngoài sinh hoạt thường xuyên hoặc không  


thường xuyên  ở  Việt Nam. Tuy nhiên, qua một vài sự  kiện, chúng ta có 
thể  thấy, số  lượng người có tôn giáo là người nước ngoài sinh hoạt tại 
Việt Nam đã đăng ký cũng khá lớn. Điển hình là cộng đồng Tin Lành Hàn 
Quốc tại Việt Nam, cụ thể, tại miền Bắc cũng rất lớn.
3.1.2. Tác động của một số  xu hướng biến đổi tôn giáo đến ý thức  
tôn giáo – cấp độ cộng đồng tôn giáo
Các tôn giáo hiện đang cải cách mạnh mẽ  về  giáo lý, về  nghi lễ,  
về tổ chức và phương thức truyền đạo
3.1.2.1. Những biến đổi về giáo lý,nghi lễ, tổ chức của các tôn giáo lớn
Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo và Tin Lành hiện nay dưới 
tác động của các xu hướng biến đổi tôn giáo cũng như những thay đổi về 
điều kiện kinh tế, chính trị, khoa học – kỹ thuật cũng đang biến đổi mạnh 
mẽ về nghi lễ và giáo lý. 
Về  mặt tổ  chức, các tôn giáo đều thay đổi cách thức tổ  chức theo  
hướng hiện đại, đáp ứng được tất cả các tầng lớp, thành phần tín đồ tham 

gia ở các mức độ khác nhau.
3.1.2.2.. Các tôn giáo đều có những phương thức mới, hiện đại trong  
cách truyền đạo, phát triển tín đồ
Sự ra đời và phát triển của các dòng điện thoại thông minh cùng với 
cơ  sở  vật chất được trang bị  là Internet đã làm cho các tín đồ  dù  ở  đâu, 
bất cứ  nơi nào cũng có thể  nghe được các mục sư, linh mục, các sư 
giảng giải đạo. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo cũng sử dụng triệt để thành  
tựu này để  có thể  mở  rộng sự   ảnh hưởng của tôn giáo mình. Sự  lan 
truyền mạnh mẽ của các Clip được ghi hình trực tiếp hoặc gián tiếp trên 
các trang Youtube là điều kiện thuận lợi cho các tín đồ được nghe giảng  
đạo và truyền tai nhau, cùng ảnh hưởng lẫn nhau (qua sự chia sẻ của các  
phần mềm như Face book, Zalo, Sky,… ).
3.1.2.3.  Các tổ chức tôn giáo đều chú trọng công tác đào tạo chức sắc  
và tín đồ tôn giáo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam có khoảng 44 cơ sở đào tạo Phật học,  
gồm các hệ: Học viện, Cao đẳng, trung cấp và sơ cấp học Phật, đào tạo 
được khoảng 30.566 chức sắc. Ngày 4.01.2018 tại Học viện Phật giáo 
Việt Nam tại Hà Nội đã công bố chủ trương của Thủ tướng Chính phủ về 
việc đào tạo Thạc sỹ, Tiến sĩ của Học viện Phật giáo Việt Nam, như vậy, 
đứng trên phương diện pháp lý, Giáo hội Phật giáo Việt Nam có đủ căn cứ 
pháp lý để đào tạo các chức sắc đạt trình độ Thạc sĩ và Tiến sĩ Phật học  
và thế học


Đối với Công giáo Việt Nam. Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng 
luôn coi trọng công tác đào tạo các chức sắc cũng như tín đồ. Đối với các 
chức sắc Công giáo, từ trước đến nay chúng ta đều biết đến những quy 
định nghiêm ngặt về quy trình đào tạo như đầu vào phải tốt nghiệp đại  
học và có một bằng ngoại ngữ.  Ở  Việt Nam hiện có 8 đại chủng viện 
tuyển sinh hàng năm và tỷ  lệ  chọi thường là 1/20. Năm 2010 có 1582 

chủng sinh và có 2191 thí sinh dự  bị. Riêng năm 2012 chúng ta đào tạo 
được gấp 3 lần số  tân linh mục được đào tạo suốt thời gian trong giai 
đoạn từ 1863 đến 1945 (300 vị tân linh mục so với 137).
Đối với Đạo Tin Lành, việc đào tạo các chức sắc cũng đã được 
chú ý. Tổng Hội thánh Tin Lành Việt Nam được thành lập đồng thời với  
sự xuất hiện của Viện Thánh Kinh thần học tại Hà Nội. Sự  ra đời của 
Viện Thánh kinh thần học là cơ  sở  rất lớn cho việc nâng cao trình độ 
cũng như chất lượng của công tác giáo dục chức sắc của Tin Lành.
3.2. Tác động của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến các quan 
hệ tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đang có cái nhìn cởi mở, sẵn  
sàng đối thoại với các tôn giáo khác
Trong xu hướng đa dạng hóa, đối thoại tôn giáo  ở  Việt Nam hiện 
nay, các tổ chức tôn giáo có thái độ cởi mở hơn với các tôn giáo khác. Chủ 
trương của các tổ  chức tôn giáo hiện nay là thực hiện đối thoại liên tôn  
giáo.
Các cuộc trao đổi, thăm viếng giữa các tôn giáo là biểu hiện rõ 
nhất về sự cởi mở của các tôn giáo với các tôn giáo bạn. 
3.2.2.  Mối quan hệ  giữa các tôn giáo Việt Nam với các tổ  chức tôn  
giáo thế giới ngày càng mở rộng và chặt chẽ. 
Các cuộc thăm viếng của các lãnh tụ  tôn giáo trên thế  giới đến 
Việt Nam cũng như  việc trao đổi du học sinh là các chức sắc tôn giáo 
Việt Nam với quốc tế là tiền đề cho mối quan hệ giữa các tổ  chức tôn  
giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo thế giới.
Phật giáo Việt Nam đã 2 lần tổ chức thành công  Đại hội Phật giáo  
thế  giới (hiện nay đang chuẩn bị  cho lần thứ  3 vào năm 2019 tại Kim  
Bảng, Hà Nam), chứng tỏ  địa vị,  ảnh hưởng của Phật giáo Việt Nam 
đối với Phật giáo quốc tế.
Các tôn giáo Việt Nam cũng được truyền bá rộng rãi trên thế giới., 
xuất hiện những cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại nước ngoài, hoặc 

các hỗ trợ từ các hệ phái Tin Lành đối với các hệ phái Tin Lành ở  Việt  


Nam trong những năm vừa qua là những biểu hiện mới cho việc mở 
rộng quan hệ quốc tế của các tổ chức, tôn giáo Việt Nạm
3.3. Tác động của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến các hoạt  
động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Các hoạt động tôn giáo hướng vào việc giải quyết các vấn đề  
xã hội (các hoạt động từ thiện, giáo dục, ý tế, các hoạt động kinh tế  
của tôn giáo,…)
Trong các xu hướng biến đổi tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay, các  
chiều hướng thế  tục hóa, hiện đại hóa và dân tộc hóa đã làm biến đổi 
mạnh mẽ vai trò của các tôn giáo đối với đời sống xã hội nói chung, và 
đặc biệt đến đời sống tôn giáo, làm tăng vai trò tác động của các tôn giáo 
lên xã hội. Nếu như hoạt động của các tôn giáo trước đây chỉ chú ý đến  
chức năng tâm linh, chăm sóc đời sống tinh thần cho các tín đồ của mình 
và những hoạt động chuyên biệt, tách rời với các hoạt động xã hội (giảng 
giải kinh sách, chăm lo giáo dục đạo đức, truyền giáo,…).
3.3.1.1. Các tôn giáo hướng vào các hoạt động từ thiện xã hội
Qua mỗi một hành động cứu giúp, công tác từ thiện của Phật giáo, 
Công giáo hay Tin Lành đều cho tín đồ thấy được nét đẹp, tính nhân văn, 
tính giáo dục trong mỗi tôn giáo, để  tín đồ  có thể  tin tưởng hơn vào  
những hành vi đẹp của mình, nhằm xây dựng một “thiên đường” ngay 
trong cuộc sống trần gian này. 
3.3.1.2. Các tôn giáo tích cực tham gia cung cấp các dịch vụ  y tế  dưới  
dạng các công tác từ thiện
Đời sống tôn giáo của Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 
XXI đã mang những sắc thái mới. Chức năng của các tổ  chức tôn giáo 
không chỉ đơn thuần là “truyền đạo”, tải đạo mà còn bao gồm cả chức 
năng xã hội. Tôn giáo Việt Nam cũng đã mang những chức năng đặc 

biệt mới trong cộng đồng tín đồ  đông đảo. Chữa bệnh, hoặc cung cấp 
các dịch vụ y tế tương tự như: viện dưỡng lão, cô nhi viện, …
Có thể nói, chính những hoạt động từ thiện, tham gia các hoạt động 
y tế hiện nay của các tổ chức tôn giáo đã làm nổi bật tính “thiện” của các  
tôn giáo, mang lại sự  gần gũi về  một sự  giải thoát ngay trong đời sống 
hiện thực của các tôn giáo. Điều này giúp cho các tín đồ  ­ những người 
được cứu giúp, được thụ hưởng từ những hoạt động từ thiện của các tôn 
giáo thấy gần gũi, có thiện cảm hơn với các tôn giáo. Ngược lại, những 
tín đồ  tôn giáo – là những người đóng vai trò chủ  nhân của những hoạt  
động này cũng được thỏa mãn, bởi đã được thực hành những giá trị  tốt  


đẹp của tôn giáo mình, họ  đã được “cứu vớt” về  mặt linh hồn trong 
những hành động thực tế này, từ  đó kích thích họ hơn trong những việc 
“hành thiện” tiếp theo của mình trong đời sống giác ngộ đức tin tôn giáo.
3.3.1.3. Các tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động giáo dục hướng  
nghiệp.
Mặc dù so với sự tiến bộ của thế giới (khi mà việc ứng dụng tôn  
giáo vào trong việc điều trị các căn bệnh xã hội, các căn bệnh liên quan 
đến sự bất ổn tâm lý) nhưng các tôn giáo cũng như các ngành khoa học 
Việt Nam chưa thực sự  có những mối liên hệ  và chú ý đến hoạt động 
liên ngành này. Những kết quả  mà thế  giới đạt được đã chứng tỏ, sự 
kết hợp giữa tôn giáo và tâm lý học hiện đại là sự  kết hợp mang lại 
hiệu quả  cao để  chữa trị  các căn bệnh về  tâm lý. Nhưng nhìn vào số 
lượng cơ  sở  các trung tâm hướng nghiệp, các việc làm, chương trình 
hành   động   của   các   tôn   giáo   Việt   Nam   trong   vấn   đề   giáo   dục,   định  
hướng nghề nghiệp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội cũng đã đủ 
thấy sự  “dấn thân” vào đời sống xã hội, để  giá trị  tốt đẹp của các tôn 
giáo có điều kiện được thể  hiện ngay trong “nước trần gian”, điều mà 
trước đây các tôn giáo chưa hoặc không có điều kiện thực hiện. Chính 

những tác động tích cực này đã góp phần củng cố địa vị của các tôn giáo 
đối với xã hội, gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động xã hội, thúc đẩy 
vai trò cải tạo xã hội của các tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện 
nay. 
3.3.2. Địa bàn hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay ngày  
càng được mở rộng
Sự  xuất hiện của tôn giáo  ở  những vùng đất mới như: Phật giáo 
ngày càng phát triển mạnh mẽ   ở  các tỉnh Tây Bắc và miền Trung, Tin  
Lành phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh, thành phố, tại các khu công nghiệp  
là những biểu hiện mạnh mẽ về sự chuyển dịch địa bàn hoạt động của 
các tôn giáo. Có thực trạng này là do trong những năm gần đây, đời sống 
tôn giáo phát triển theo các xu hướng dân tộc hóa, toàn cầu hóa, cạnh 
tranh và đối thoại cũng như nhờ chính xu hướng hiện đại hóa để các tổ 
chức có được những kinh nghiệm, những bài học để  không ngừng mở 
rộng địa bàn hoạt động của các tôn giáo này.
3.3.3. Một số  hoạt động tôn giáo đang bị  các thế  lực thù địch lợi  
dụng
Vấn đề tôn giáo và dân tộc là vấn đề hết sức nhạy cảm. Hiện nay 
ở  nước ta, các thế  lực thù địch đã và đang kết hợp và lợi dụng cả  hai 


vấn đề này. Các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo và dân tộc để gây khó 
khăn cho việc thực hiện đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và 
Nhà nước nhằm chống phá cách mạng, phá vỡ  khối đại đoàn kết toàn  
dân tộc. Lực lượng phản động trong tôn giáo  ở  nước ngoài và bọn cực 
đoan trong tôn giáo thường tìm cách móc nối với nhau để  chống Việt  
Nam. Các tổ  chức tôn giáo thường xuyên tìm cách xuyên tạc tình hình 
tôn giáo  ở  Việt Nam, thậm chí dựng chuyện “vi phạm quyền tự do tôn 
giáo” ở Việt Nam. 
Các thế lực thù địch luôn lợi dụng tôn giáo để  thực hiện âm mưu  

chia rẽ đoàn kết dân tộc giữa các tôn giáo, các hình thức mê tín dị đoan,  
vẫn còn có những tranh chấp, khiếu kiện
Tôn giáo vẫn luôn bị  các thế  lực thù địch trong và ngoài nước lợi 
dụng để  thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” hòng gây chia rẽ  sự 
đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Trong những năm vừa qua, mặc dù 
các tổ chức tôn giáo đã có những cảnh giác cũng như nâng cao tinh thần 
yêu nước, gắn kết giữa Đạo và Đời nhưng các sự  kiện tôn giáo cũng  
như các sự kiện chính trị vẫn thường xuyên là những “cơ hội” tốt để kẻ 
thù lợi dụng hòa trộn vấn đề tôn giáo và vấn đề chính trị  cũng như với  
vấn đề dân tộc.
Cách thức hoạt động chủ yếu của những lần lợi dụng các sự kiện 
chính trị hoặc các vấn đề dân tộc để gắn mác vấn đề tôn giáo đó là: các  
tổ  chức, cá nhân sẽ  lựa chọn những sự  việc, nhân vật có thật, thường 
thì đó là những nơi mà cơ sở thiếu và yếu về trình độ quản lý hoặc các 
cá nhân lãnh đạo có những biểu hiện sa sút về  mặt đạo đức hoặc một 
số  vùng, một số  nơi các dân tộc thiểu số  còn khó khăn, căn cứ  vào 
những con số, sự  kiện cụ  thể  để  quy kết về  những vấn đề  thuộc về 
bản chất của chế  độ, về  đường lối lãnh đạo của Đảng, về    cơ  chế, 
quản lý của Đảng và Nhà nước, thông qua đó bôi nhọ Nhà nước, gây sự 
phẫn nộ của quần chúng nhân dân, khơi dậy sự bất bình, phản đối của 
quần chúng nhân dân với Nhà nước, với Đảng dẫn đến tình trạng mất 
ổn định chính trị  ­ an ninh – xã hội. Những sự  kiện liên quan đến tôn  
giáo vừa qua hầu như  đều được thực hiện theo mô típ đó. Chúng ta có 
thể thấy dễ dàng qua các sự kiện ở trong và ngoài nước.
3.4. Vấn đề  đặt ra từ  sự  tác động của một số  xu hướng biến đổi  
tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam đối với công tác tôn giáo  
hiện nay.


3.4.1.   Nâng cao nhận thức toàn diện, sâu sắc về  những xu hướng  

biến đổi của đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay.
Thực tế tác động của các xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống 
tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay, có thể  thấy, các tôn giáo  ở  Việt Nam 
đang phục hồi và phát triển rất mạnh và cũng rất mau lẹ trên tất cả các  
phương diện: giáo lý, quan hệ  tôn giáo và quan hệ  tôn giáo. Khi hệ 
thống tôn giáo không ngững thay đổi, phát triển và ngày càng trở nên đa 
dạng đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa các tôn giáo với nhau. Vì vậy,  
cần không ngừng nâng cao nhận thức và hiểu biết về  những xu hướng  
biến đổi cũng như  những biến đổi của đời sống tôn giáo  ở  Việt Nam  
hiện nay.
3.4.2. Đổi mới công tác tôn giáo, đặc biệt là công tác quản lý tôn giáo.
Các phương thức truyền giảng đạo của các tôn giáo cũng vô cùng 
phong phú và da dạng. Thay bằng các hình thức sinh hoạt tôn giáo tại các 
cơ  sở  thờ  tự đã đăng ký, ngày nay các tôn giáo, kể cả  Phật giáo cũng có 
thể giảng, nghe giảng online, tín đồ có thể theo dõi mọi lúc, mọi nơi.
Những cộng đồng tín đồ  mạng cũng được hình thành, nhất là với 
những tôn giáo vốn gắn với những xã hội hiện đại (như  các hệ phái Tin 
Lành) gây khó khăn trong kiểm soát trong việc theo dõi các cộng đồng này 
có chấp hành các quy định của Nhà nước về  việc thành lập hội, những 
quy định hoạt động cũng như đường hướng hoạt động,… 
3.4.3. Nhận rõ những tác động của một số  xu hướng   biến đổi tôn  
giáo đến đời sống tôn giáo  ở Việt Nam hiện nay để  khai thác các tác  
động tích cực hạn chế tác động tiêu cực của tôn giáo nhằm phát huy  
sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc
Tất cả  các tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay  ở  các mức độ  khác nhau 
đều bị sức ép của thế tục hóa, hiện đại hóa, điều này đòi hỏi chính bản  
thân các tôn giáo cũng phải tìm phương hướng thay đổi về  giáo lý, về 
các hình thức sinh hoạt, đồng thời đòi hỏi nhập thế mạnh hơn nữa.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để nhà nước, xã hội có thể kết 
hợp với các tổ  chức tôn giáo với các tổ  chức xã hội và nhà nước để  có 

thể tạo ra những dịch vụ công để có thể mang lại những nguồn lợi lớn  
hơn đối với các cộng đồng xã hội. 
Tiểu kết chương 3
Dưới tác động của một số xu hướng biến đổi tôn giáo, đời sống tôn giáo 
ở Việt Nam hiện nay đang có những biến đổi mạnh mẽ trên các phương 
diện ý thức tôn giáo, quan hệ tôn giáo và các hoạt động tôn giáo. Sự tác 


động này theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, tuy nhiên cũng khó 
có thể phân định rạch ròi tác động nào là tích cực và tác động nào là tiêu 
cực, bởi có những tác động vừa mang tính tích cực vừa ẩn chứa những 
yếu tố tiêu cực và ngược lại. Chính những biến đổi trong đời sống tôn 
giáo ở Việt Nam hiện nay, dưới sự tác động của một số xu hướng biến 
đổi tôn giáo cũng đồng thời đặt ra những vấn đề đối với các nhà quản lý 
tôn giáo trong nhận thức những xu hướng biến đổi đó; Bản thân các cộng 
đồng tôn giáo làm thế nào để có thể thích nghi trước những xu hướng 
biến đổi này; làm thế nào để phát huy vai trò của tôn giáo trong những 
điều kiện mới, tạo ra sự đồng thuận đối với sự phát triển xã hội, lại 
ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, tránh lợi dụng những xu hướng biến 
đổi tôn giáo hiện nay đã và đang là một việc làm có tính cấp bách đối với 
sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc 
Việt Nam. Để có thể phát huy được tốt vai trò của các tôn giáo cũng như 
hạn chế ít nhất những tác động tiêu cực của các xu hướng biến đổi tôn 
giáo đến đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay, cần phải có các quan 
điểm và giải pháp cụ thể.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG 
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA MỘT 
SỐ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

 
4.1. Quan điểm nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế 
tác động tiêu cực của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn  
giáo Việt Nam hiện nay.
4.1.1. Phát huy những giá trị tích cực và hạn chế những tác động tiêu  
cực của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở  
Việt Nam hiện nay
Vì tác động của các xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn 
giáo nói riêng và đến đời sống xã hội nói chung nên cần phải nhận thấy  
được những giá trị  tích cực, để  khơi dậy nguồn lực tôn giáo cũng như 
ngăn ngừa những  ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với sự  nghiệp xây 
dựng và bảo vệ tổ quốc.


4.1.2. Đảm bảo quyền tự  do tôn giáo đồng thời chống lợi dụng tôn  
giáo thực hiện các âm mưu chính trị. 
Khi thừa nhận tôn giáo còn tồn tại trong một thời gian dài, trước 
tiên quan niệm coi tôn giáo là “mê tín dị đoan” cần phải loại bỏ dần đã 
được thay thế  bằng nhận thức “tôn giáo còn là nhu cầu của một bộ 
phận  nhân dân”,  các tôn  giáo  cũng  có  thể   đồng hành  cùng với  chủ 
nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước (1991) cũng khẳng định: 
tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ  phận nhân dân. 
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín 
ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡ ng để  làm tổn hại  
đến lợi ích Tổ quốc và nhân dân
4.1.3. Đảm bảo lợi ích dân tộc và hòa bình quốc tế qua các quan hệ  
tôn giáo Việt Nam và các tổ chức tôn giáo quốc tế
Trong quan hệ ngoại giao cũng như trong đường hướng hoạt động 
của các tôn giáo, chúng ta phải biết vận dụng khéo léo vấn đề  tôn giáo 
và quan hệ  quốc tế, một mặt thúc đẩy quan hệ  ngoại giao của Việt  

Nam đối với các nước trên thế  giới, mặt khác, thúc đẩy sự  phát triển 
của các tôn giáo, làm cho các tôn giáo của Việt Nam có cơ  hội để  phát 
triển ra thế  giới, thông qua đó góp phần củng cố  sự   ổn định chính trị,  
hòa bình của Việt Nam.
4.2. Một số  giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và 
hạn chế  tác động tiêu cực của một số xu hướng biến đổi tôn giáo  
đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
4.2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp  ủy Đảng và các cấp chính  
quyền về các xu hướng biến đổi tôn giáo hiện nay
Nhóm giải pháp này cần chú ý:
  Trước hết cần nhận thức rằng, các xu hướng biến đổi tôn giáo 
Việt Nam cũng như thế giới đang diễn ra phức tạp.
Thứ hai, các cấp ủy Đảng và chính quyền cần nâng cao cảnh giác 
trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực  
hiện âm mưu và hoạt động “Diễn biến hòa bình”.
Thứ ba, nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về các hiện 
tượng tôn giáo mới 
4.2.2. Tăng cường công tác quản lý tôn giáo từ  Trung  ương đến địa  
phương


Để thực hiện giải pháp này cần: 
Một là. tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo
Hai là, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, thủ tục hành chính trong  
quản lý các tôn giáo
4.2.3. Tăng cường vận động quần chúng trong công tác tôn giáo
Để  tăng cường công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo 
cần chú ý:
Thứ  nhất, công tác vận động quần chúng là nòng cốt của công tác 
tôn giáo

Thứ hai, luôn chú trọng, tranh thủ sự  ủng hộ, hợp tác của các chức  
sắc tôn giáo
4.2.4. Phát triển kinh tế ­ xã hội, nâng cao đời sống nhân có tôn giáo
Trong nhóm giải pháp này, cần xác định những nhiệm vụ chính như:
 
Một mặt,  phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất cho vùng 
có đông quần chúng theo tôn giáo, mặt khác cần nâng cao các dịch vụ 
chăm sóc ý tế, giáo dục, văn hóa tại các vùng có đông đồng bào có tôn 
giáo.
Tiểu kết chương 4
Có quan điểm đúng đắn, các biện pháp vừa có thể phát huy những 
giá trị  tích cực và ngăn ngừa hạn chế  những tác động tiêu cực của tác  
động của các xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo Việt 
Nam hiện nay là một việc làm có ý nghĩa quan trọng. Các tổ  chức, cá  
nhân tôn giáo cũng là những lực lượng sẽ góp phần phát huy những giá 
trị tích cực của các tôn giáo, làm cho tôn giáo ngày càng đóng vai trò lớn 
vào trong đời sống xã hội. Trên cơ  sở  đó, các giải pháp được đưa ra 
như: nâng cao nhận thức của các cấp  ủy Đảng và các cấp chính quyền  
về  các xu hướng biến đổi tôn giáo hiện nay; tăng cường công tác quản 
lý tôn giáo từ  TW đến địa phương; tăng cường vận động quần chúng 
làm tốt công tác tôn giáo và phát triển kinh tế ­ xã hội, nâng cao đời sống 
nhân dân có tôn giáo là những giải pháp có tính chất đồng bộ của cả hệ 
thống chính trị. Hệ thống giải pháp này nhằm khơi dậy được tình cảm 
gắn bó với dân tộc, ý thức xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của các tổ 
chức, chức sắc và các tín đồ  tôn giáo để  công tác tôn giáo không chỉ  là 
của người quản lý, nó là công việc của những người có tôn giáo và của  


cả tôn giáo, thực hiện theo phương châm, dù là người tôn giáo nào cũng 
muốn sống “tốt đời, đẹp đạo”. Có như  vậy, tạo điều kiện hoàn thành 

mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


×