Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thực hiện quyền của người sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.87 KB, 7 trang )

BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT

THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG DỊCH VỤ KHÁM BỆNH,
CHỮA BỆNH VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
Nguyễn Thúy Hà*

* ThS. Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Khoa học lập pháp, Viện Nghiên cứu Lập pháp.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: bảo vệ, chăm sóc sức khỏe,
khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm y tế
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/10/2018
Biên tập : 26/03/2019
Duyệt bài : 07/03/2019

Tóm tắt:
Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 đặt ra mục đích bảo đảm,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bệnh; nâng cao chất
lượng khám, chữa bệnh; giảm phiền hà cho người bệnh; giúp người
bệnh dễ dàng tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh; xác định nền
tảng cho sự phát triển y học vì quyền lợi của người bệnh và là cơ
sở pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giữa người bệnh với người
hành nghề và với cơ sở khám, chữa bệnh. Tuy nhiên, sau một thời
gian áp dụng, Luật đã bộc lộ một số nhược điểm cần được sửa đổi,
bổ sung để phù hợp hơn với thực tế và củng cố quyền lợi của người
sử dụng dịch vụ khám, chữa bệnh.

Article Infomation:
Keywords: protection, health care,
medical examination and treatment,
health insurance


Article History:
Received
: 18 Oct. 2018
Edited
: 26 Mar. 2019
Approved
: 07 Mar. 2019

Abstract
The Law on Medical Examination and Treatment of 2009 set out the
purpose of ensuring and protecting the legitimate rights and interests
of patients; improving the quality of medical examination and
treatment; reducing troubles for patients; helping the patients easily
access medical examination and treatment services; determining
the foundation for the development of medicine for the benefits of
the patients and is also the legal basis for the relationship between
patients and practitioners and medical examination and treatment
establishments. However, for a period of law enforcement, the Law
has revealed a number of shortcomings needing to be amended to
better appropriate with the practices and strengthening the rights of
users of medical examination and treatment services.

L

uật Khám bệnh, chữa bệnh năm
2009 là văn bản pháp lý cao
nhất quy định quyền và nghĩa

vụ của người bệnh, chủ thể chính của hoạt
động khám bệnh, chữa bệnh. Người bệnh,

theo quy định tại Điều 2 của Luật “là người
sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh”.

Quyền của người bệnh được quy định
tại Mục I Chương 2 Luật Khám bệnh, chữa
bệnh năm 2009. Luật quy định 07 quyền cơ
bản mà người bệnh được hưởng, bao gồm:
quyền được khám bệnh, chữa bệnh có chất
lượng phù hợp với điều kiện thực tế; quyền
được tôn trọng bí mật riêng tư; quyền được
tôn trọng danh dự, bảo vệ sức khỏe trong
Số 7(383) T4/2019

39


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
khám bệnh, chữa bệnh; quyền được lựa
chọn trong khám bệnh, chữa bệnh; quyền
được cung cấp thông tin về hồ sơ bệnh án và
chi phí khám bệnh, chữa bệnh; quyền được
từ chối chữa bệnh và ra khỏi cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh; quyền của người bệnh bị
mất năng lực hành vi dân sự, không có năng
lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi
dân sự hoặc người chưa thành niên.
Hiện nay, trong chương trình trị liệu
cho người bệnh, ngoài bác sĩ y khoa còn có
các nhà chuyên môn khác, đó là các điều
dưỡng viên, tâm lý gia, chuyên viên xã hội,

vật lý trị liệu, phục hồi chức năng,… Người
bệnh được xem là những người tiếp nhận
dịch vụ y tế (receiver), còn bác sĩ và các nhà
chuyên môn khác là những người cung cấp
dịch vụ y tế (provider).
1. Thực trạng thực hiện quyền của người
sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh
Mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân về
bản chất là mối quan hệ không tương xứng.
Người thầy thuốc là đại diện cho một ngành
khoa học chuyên biệt, khoa học liên quan
đến mạng sống của con người. Người bệnh
phải chấp nhận mối quan hệ phụ thuộc để
mong được điều trị, chăm sóc, phục hồi sức
khỏe, vượt qua những đau đớn, lo âu. Người
bệnh luôn mong muốn nhận được sự chăm
sóc y tế cũng như được chia sẻ sự hiểu biết
về bệnh tật mà mình đang mang và lo lắng,
băn khoăn về hướng điều trị, tiên lượng diễn
tiến bệnh.
Hiện nay, tại các cơ sở y tế của nước
ta, do tình trạng quá tải bệnh nhân, cơ sở hạ
tầng bệnh viện xuống cấp, máy móc chuyên
dụng thiếu thốn, thầy thuốc phải làm việc
quá sức…, đã làm cho người dân chưa được
hưởng những quyền chính đáng, tối thiểu
mà lẽ ra một người bệnh nào cũng phải được
hưởng. Đó là quyền được thăm khám cẩn
thận, chính xác; quyền được cung cấp thông
tin và tư vấn đầy đủ về tình trạng bệnh, được

nằm điều trị trong điều kiện tốt, được chăm
sóc chu đáo, đầy đủ, kịp thời…

40

Số 7(383) T4/2019

Mặt khác, việc không đủ nhân lực,
không đủ cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, không
được đào tạo về tâm lý... nhưng vẫn phải
tiếp nhận nhu cầu khám chữa bệnh quá mức,
quá khả năng nên dễ xảy ra xung đột giữa
thầy thuốc và bệnh nhân, khiến cả hai bên
cùng chịu nhiều áp lực, thiệt thòi.
Ngành y tế đã luôn nỗ lực thực hiện
sứ mệnh chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân, nhưng vẫn còn một số biểu hiện của
thái độ ban ơn, thiếu tinh thần trách nhiệm,
vô cảm trước nỗi đau của người bệnh, hoặc
chỉ chú tâm vào y thuật mà coi nhẹ đạo đức
ngành y, cư xử thiếu văn hóa với người bệnh
và gia đình người bệnh. Đồng thời, thủ tục
thực hiện bảo hiểm y tế (BHYT) còn rườm
rà, gây khó khăn, phiền hà khiến cho người
bệnh không được điều trị kịp thời; quy định
về chế độ thanh toán BHYT cho người bệnh
còn nhiều vướng mắc… là những nguyên
nhân dẫn tới tình trạng quyền lợi của người
bệnh chưa được đảm bảo.
Các quy định về quyền của người bệnh

đã được quy định từ Điều 7 đến Điều 13 của
Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, tuy
nhiên, các quy định này trong thực tế chưa
được thi hành hiệu quả. Đây là nguyên nhân
chủ yếu cản trở việc thực thi quyền được tôn
trọng, được đối xử y tế và thụ hưởng các
dịch vụ, cơ sở vật chất y tế của người dân.
1.1 Quyền được khám bệnh, chữa bệnh có
chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 7
của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, thì người
bệnh có quyền được tư vấn, giải thích về
tình trạng sức khỏe, phương pháp điều trị và
dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với
bệnh. Bác sĩ cần giải thích, cung cấp thông
tin về bệnh tật và quá trình điều trị cho bệnh
nhân hoặc người đại diện hợp pháp của bệnh
nhân. Việc cung cấp thông tin này tùy thuộc
vào mức độ cần thiết để phối hợp chứ không
bắt buộc đến mức phải cung cấp cụ thể thành
phần, tác dụng của từng thuốc.


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
Tuy nhiên, do điều kiện hiện nay và
tình trạng quá tải bệnh viện, nên bác sĩ có rất
ít thời gian cho bệnh nhân. Theo một thông
tin trên báo chí1, nếu một ngày, bác sĩ khám
80 bệnh nhân thì mỗi bệnh nhân sẽ chỉ có
6 phút. Nếu dành 5 phút cho giao tiếp và 1

phút cho chuyên môn thì bệnh nhân “sẽ chết
trong sự hài lòng”. Nếu dành 1 phút cho giao
tiếp, 5 phút cho chuyên môn thì bệnh nhân
“sẽ khỏi bệnh trong bức xúc”.
1.2 Quyền được tôn trọng bí mật riêng tư
Điều 8 của Luật Khám bệnh, chữa
bệnh quy định quyền của người bệnh được
giữ bí mật thông tin về tình trạng sức khỏe
và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án.
Thông tin này chỉ được phép công bố khi
người bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ thông
tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng
chẩn đoán, chăm sóc, điều trị người bệnh.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền được giữ bí
mật thông tin đời tư của bệnh nhân hiện nay
còn nhiều hạn chế. Có nhiều đơn vị còn cung
cấp thông tin bệnh tật của bệnh nhân cho các
nhà kinh doanh dược phẩm và các tổ chức
bảo hiểm tư nhân. Trong khi đó, theo quy
định của pháp luật, điều này phải có sự đồng
ý của bệnh nhân bằng văn bản và mức độ
tiếp cận cũng phải được xem xét kỹ lưỡng.
Thực tế cho thấy, không quá khó để
biết thông tin của một bệnh nhân nào đó, bởi
các y, bác sĩ có thói quen không giải thích
trực tiếp cho người bệnh mà thường trao
đổi với thân nhân người bệnh khi phát hiện
bệnh nhân bị bệnh lý ác tính hoặc bệnh hiểm
nghèo. Mục đích của việc giải thích cho thân
nhân người bệnh trong trường hợp này là để

phối hợp điều trị và giúp hỗ trợ tinh thần cho
bệnh nhân tốt hơn. Thân nhân người bệnh
lại thường là người dễ loan truyền thông tin.
1
2
3

1.3 Quyền được tôn trọng danh dự, bảo vệ
sức khỏe trong khám bệnh, chữa bệnh
Điều 9 Luật Khám bệnh, chữa bệnh
quy định, người bệnh không bị kỳ thị, phân
biệt đối xử hoặc ép buộc khám, chữa bệnh.
Người bệnh được tôn trọng về tuổi tác, giới
tính, dân tộc, tín ngưỡng; không phân biệt
giàu nghèo, địa vị xã hội. Quy định này đặc
biệt có ý nghĩa đối với bệnh nhân là người
đồng tính, người nhiễm HIV/AIDS…
Trong thực tế, kỳ thị và phân biệt đối
xử vẫn đang là một trong những rào cản đối
với những bệnh nhân là người đồng tính,
những người chung sống với HIV/AIDS…
Mặc dù chúng ta đã có nhiều nỗ lực và ban
hành nhiều chính sách, quy định2 nhằm làm
giảm kỳ thị và phân biệt đối xử, nhưng vấn
đề này trong các cơ sở y tế vẫn chưa được đề
cập và quan tâm đến một cách có hệ thống.
Sự kỳ thị liên quan đến bệnh nhân
HIV tại cơ sở y tế thường bắt nguồn từ nỗi
lo sợ bị nhiễm HIV qua các tiếp xúc thông
thường, cho dù nhân viên y tế đã có sự hiểu

biết nhất định. Bằng cách xác định xem
bệnh nhân nào có HIV và tìm cách hạn chế
tiếp xúc với họ, nhân viên bệnh viện thường
bắt buộc người bệnh phải xét nghiệm HIV,
xếp bệnh nhân có HIV vào những buồng
riêng, giường riêng, đánh dấu vào hồ sơ của
bệnh nhân hay vào đồ vải, quần áo của bệnh
nhân…, họ coi đây là những biện pháp hợp
lý để tự bảo vệ. Nhưng “thực ra, các biện
pháp này không dựa trên cơ sở y học và
chính là các dạng phân biệt đối xử với các
bệnh nhân có HIV, tách biệt họ ra khỏi các
bệnh nhân khác, tạo nên tâm lý sợ hãi cho
tất cả mọi người và khiến cho bệnh nhân có
HIV cảm thấy bị kỳ thị”3.

ThS. BS. Nguyễn Trung Cấp trả lời độc giả báo điện tử Trí thức trẻ và soha.vn tại buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề:
Bác sĩ bị đánh: Lỗi tại ai? ngày 13/3/2018.
Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế và Chỉ thị
10/CT-BYT của Bộ Y tế ngày 26/12/2017 về tăng cường hoạt động giảm kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV
trong các cơ sở y tế.
Trích phát biểu của BS. Khuất Thị Hải Oanh tại Hội thảo giới thiệu báo cáo “Cải thiện chất lượng chăm sóc trong bệnh
viện ở Việt Nam thông qua kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV”, Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS),
Hà Nội, 29/2/2018.
Số 7(383) T4/2019

41


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT

1.4 Quyền được lựa chọn trong khám
bệnh, chữa bệnh
Điều 10 của Luật Khám bệnh, chữa
bệnh quy định quyền được cung cấp thông
tin, giải thích, tư vấn đầy đủ về tình trạng
bệnh, kết quả, rủi ro có thể xảy ra để lựa
chọn phương pháp chẩn đoán và điều trị.
Như vậy, khi vào một bệnh viện để khám
bệnh thì người bệnh phải được biết mình
bệnh gì và hướng điều trị ra sao. Song một
số nơi chưa thực hiện quyền này cho người
bệnh một cách đầy đủ. Nguyên nhân khách
quan có thể là do bệnh nhân quá đông, nên
bác sĩ không có thời gian để giải thích đến
nơi đến chốn.
Khi có sai sót về chuyên môn hoặc có
hậu quả xảy ra cho bệnh nhân, điều đầu tiên
mà những người có trách nhiệm buộc phải
xem xét đến không phải là vấn đề chuyên
môn điều trị, kỹ thuật khám, chữa bệnh mà
là quyền của bệnh nhân có bị xâm phạm hay
không. Cụ thể, bệnh nhân có được giải thích
đầy đủ, hiểu và đồng ý với hướng điều trị hay
không. Tiếp đó, họ mới xem xét tới chuyên
môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của
đội ngũ hành nghề. Sau đó mới đến quá trình
chăm sóc và điều trị người bệnh.
Nghị định số 96/2011 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính về
khám bệnh, chữa bệnh có quy định xử phạt

bác sĩ về việc không cung cấp thông tin bệnh
tật cho bệnh nhân nhưng quy định này chỉ áp
dụng cho các cơ sở y tế tư nhân. Còn đối với
công chức, viên chức trong bệnh viện công
thì sẽ bị xử lý kỷ luật. Tuy nhiên, việc xác
định hành vi vi phạm là rất khó bởi trong
phòng khám chỉ có bác sĩ với bệnh nhân.
Nếu bệnh nhân nói bác sĩ không giải thích
nhưng bác sĩ nói là đã giải thích đầy đủ thì
4

42

cũng khó xác minh. Nếu người bệnh phải
chứng minh được là bác sĩ không giải thích
cho mình thì rõ ràng là không thể.
1.5 Quyền được cung cấp thông tin về hồ
sơ bệnh án và chi phí khám bệnh, chữa
bệnh
Điều 11 của Luật quy định chỉ cung
cấp thông tin tóm tắt về hồ sơ bệnh án nếu có
yêu cầu bằng văn bản. Như vậy, cơ sở điều
trị có quyền không trả hồ sơ bệnh án nhưng
sẵn sàng cung cấp bản tóm tắt bệnh án cho
bệnh nhân. Bản tóm tắt bệnh án vẫn đầy đủ
thông tin cần thiết, kể cả những kết quả xét
nghiệm, chẩn đoán hình ảnh. Do vậy, bệnh
viện này có thể dựa vào bản tóm tắt bệnh án
của bệnh viện kia để thực hiện những bước
điều trị tiếp theo. Tuy nhiên, trên thực tế ở

nước ta, việc bệnh nhân yêu cầu cơ sở điều
trị cung cấp bản tóm tắt bệnh án cho mình
còn ít xảy ra, do quy định của Luật chưa
được phổ biến rộng rãi và cũng do thói quen
khám chữa bệnh của người dân. Chỉ một số
ít bệnh viện đã chủ động cung cấp hình ảnh
chẩn đoán, các kết quả xét nghiệm… cho
bệnh nhân, ngay cả khi bệnh nhân không
yêu cầu.
Tham khảo kinh nghiệm một số quốc
gia như Anh, Mỹ, Singapore, Các Tiểu
vương quốc Ả Rập thống nhất…, pháp luật
của các quốc gia này đều xác định rõ thông
tin trong hồ sơ bệnh án là tài sản của bệnh
nhân, nhưng cơ sở điều trị có quyền giữ
những thông tin đó để bảo vệ quyền riêng
tư cho bệnh nhân và phục vụ các mục đích
nghiên cứu, khảo sát y học4.
Nhưng nguyên tắc chung là bệnh
nhân, luật sư đại diện bệnh nhân, người hay
tổ chức được bệnh nhân ủy quyền đều có
quyền làm văn bản yêu cầu cơ sở điều trị

Duy Tính, Minh bạch: Quyền của người bệnh, Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh 17/11/2013.
Số 7(383) T4/2019


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
cung cấp bản sao toàn bộ chi tiết hồ sơ bệnh
án cho bệnh nhân, bao gồm toàn bộ các văn

bản, ghi chú, chẩn đoán, quá trình điều trị,
tiên lượng bệnh, các kết quả xét nghiệm, toa
thuốc, các hóa đơn viện phí... Nếu bệnh nhân
thay đổi nơi điều trị, họ có thể yêu cầu nơi
điều trị cũ chuyển hồ sơ bệnh án của mình
sang nơi điều trị mới.
Luật Tiếp cận hồ sơ bệnh án của
Vương quốc Anh năm 1988 quy định rõ, các
công ty nơi bệnh nhân làm việc, các công ty
bảo hiểm hoặc các tổ chức nào đó nếu muốn
được cung cấp hồ sơ bệnh án của bệnh nhân
đều phải được sự đồng ý của bệnh nhân. Cơ
sở điều trị phải để bệnh nhân xem qua hồ sơ
bệnh án trước khi cung cấp cho bên thứ ba
nếu bệnh nhân yêu cầu.
Thông thường ở các nước, bệnh nhân
sẽ nhận hồ sơ bệnh án trong vòng 30 ngày kể
từ ngày yêu cầu. Tuy nhiên, tùy trường hợp
mà cơ sở điều trị có quyền từ chối cung cấp
nếu nhận thấy việc này có thể gây bất lợi cho
sức khỏe tâm thần và thể chất của bệnh nhân,
có thể khiến bệnh nhân tự làm hại mình hoặc
làm hại người khác. Trong trường hợp này,
cơ sở điều trị phải có văn bản trả lời, giải
thích rõ ràng cho bệnh nhân hiểu.
1.6 Quyền được từ chối chữa bệnh và ra
khỏi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
Điều 12 Luật Khám bệnh, chữa bệnh
quy định người bệnh có quyền từ chối thực
hiện các xét nghiệm hoặc sử dụng thuốc,

áp dụng các thủ thuật và phương pháp điều
trị, nhưng phải cam kết tự chịu trách nhiệm
bằng văn bản. Riêng trường hợp mắc bệnh
truyền nhiễm nhóm A và mắc bệnh tâm thần
thì không được phép từ chối điều trị. Người
bệnh được ra khỏi cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh khi chưa kết thúc điều trị nhưng phải
cam kết tự chịu trách nhiệm bằng văn bản
về việc ra khỏi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh

trái với chỉ định của người hành nghề, trừ
trường hợp bắt buộc theo quy định.
Hiện nay, có rất nhiều trường hợp,
dù người bệnh biết rõ bệnh viện tuyến dưới
không đủ điều kiện để chữa trị bệnh, song
khi đề nghị được cho chuyển tuyến thì bệnh
viện tìm đủ mọi lý do để giữ chân bệnh nhân
ở lại. Và trong nhiều trường hợp, chỉ đến khi
người bệnh lâm vào tình thế nguy kịch thì
bệnh viện mới vội vàng gọi xe cấp cứu cho
chuyển tuyến. Không chỉ riêng bệnh nhân
tuyến dưới bị làm khó, bệnh nhân có bảo
hiểm y tế (BHYT) khám, chữa bệnh tại các
bệnh viện tuyến Trung ương muốn chuyển
sang bệnh viện cùng tuyến cũng vô cùng
khó khăn và đã có không ít hậu quả xảy
ra. Lý do bệnh viện hạn chế cho bệnh nhân
BHYT chuyển tuyến điều trị chính là cơ chế
thanh toán chi phí khám, chữa bệnh. Chi phí
cho người bệnh chuyển tuyến vượt quá cao,

trong khi số tiền mà BHYT thanh toán chỉ
theo mức quy định, còn rất khiêm tốn, và
phải chờ cấp bù.
1.7 Quyền của người bệnh bị mất năng lực
hành vi dân sự, không có năng lực hành vi
dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi
Trường hợp người bệnh bị mất năng
lực hành vi dân sự, không có năng lực hành
vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi thì người đại diện hợp pháp
của người bệnh quyết định việc khám bệnh,
chữa bệnh. Như vậy, nếu người đại diện của
người bệnh không đồng ý khám, chữa bệnh
thì bệnh viện không được thực hiện đối với
người bệnh. Chỉ trong trường hợp cấp cứu,
nếu không có mặt người đại diện hợp pháp
của người bệnh thì người đứng đầu cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh mới quyết định việc
khám bệnh, chữa bệnh.
Số 7(383) T4/2019

43


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp
luật về quyền của người sử dụng các dịch

vụ khám bệnh, chữa bệnh
Thứ nhất, tình trạng quá tải bệnh viện
đang là vấn đề nhức nhối nhất hiện nay trong
ngành y. Nó có thể làm giảm chất lượng
khám, chữa bệnh, dẫn đến nguy cơ tăng tai
biến, nhiễm trùng, nảy sinh thái độ và hành
vi tiêu cực của nhân viên y tế. Thực tế cho
thấy lâu nay, bệnh nhân dường như đã quá
quen với tình trạng quá tải và xem đó như
một khó khăn không thể tránh khi phải đến
bệnh viện, đặc biệt là với những người bệnh
đi khám bệnh, chữa bệnh bằng thẻ BHYT.
Ngành y tế đã đưa ra các giải pháp
như: các cơ sở có số lượt khám bệnh tăng
phải tăng số bàn khám để bảo đảm tối đa
không quá 65 bệnh nhân/bàn khám5, điều
tiết tăng nhân lực cho phòng khám vào các
giờ cao điểm để bảo đảm bác sỹ có thời gian
khám, tư vấn cho người bệnh. Tăng cường
điều trị ngoại trú, điều trị ban ngày, chỉ định
người bệnh điều trị nội trú theo đúng quy
định, tăng cường công tác chăm sóc, chống
nhiễm khuẩn để giảm số ngày điều trị nội
trú. Đồng thời, tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị hiện đại và nâng cao trình
độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho
những người hành nghề y, nhất là đối với
các cơ sở y tế tuyến dưới, nhằm tạo dựng
niềm tin cho người dân, hạn chế tình trạng
bệnh nhân đổ dồn về các bệnh viện tuyến

trung ương, gây ra tình trạng quá tải. Từ đó,
góp phần giảm áp lực trong việc khám bệnh,
chữa bệnh đổ dồn vào các thành phố lớn.
Mô hình bệnh viện vệ tinh hướng về cơ sở,
giảm quá tải bệnh viện sẽ là giải pháp cơ bản
chủ yếu để những người dân ở địa phương
5
6

44

được thụ hưởng dịch vụ khám, chữa bệnh kỹ
thuật cao, thụ hưởng quyền của người bệnh
ngay tại quê hương mình. 
Khi mà hầu hết người dân đều tham
gia BHYT, thì việc bảo vệ quyền của người
dân phải theo hướng tăng cường quyền lợi
khám, chữa bệnh BHYT. Cần tăng cường
đầu tư và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế
tuyến cơ sở; yêu cầu tuyến y tế cơ sở phải
làm tốt công tác dự phòng, nâng cao sức
khỏe, quản lý, theo dõi, điều trị các bệnh
không lây nhiễm, phát hiện sớm bệnh tật để
giảm tỷ lệ mắc bệnh.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những biện
pháp chỉ đạo thường nhật của ngành y tế.
Cần thiết phải luật hóa các quy định phù hợp
với thực tiễn khám chữa bệnh ở nước ta, ví
dụ như quy định về việc người dân có quyền
khám chữa bệnh ở bất kỳ cơ sở y tế nào,

được thanh toán BHYT 100% ở ngay nơi
mình khám chữa bệnh, quy định về chuẩn
hóa các cơ sở y tế kể cả về nhân lực, trang
thiết bị…
Thứ hai, tạo cơ chế thuận lợi và khuyến
khích sự phát triển mạnh mẽ của mạng lưới
y tế tư nhân, thúc đẩy việc nâng cao chất
lượng công tác y tế, công tác phục vụ người
bệnh nói chung6. Đồng thời, phải có cơ chế
giám sát chặt chẽ hoạt động của mạng lưới
y tế tư nhân để bảo vệ quyền lợi chính đáng
của người dân.
Thứ ba, nâng cao đạo đức nghề nghiệp,
trình độ chuyên môn của đội ngũ y bác sỹ,
đảm bảo cho người bệnh được hưởng chế độ
dịch vụ y tế tốt nhất phù hợp với điều kiện
thực tế, để họ yên tâm điều trị bệnh.
Thứ tư, Luật Khám, chữa bệnh năm

Thông tư số 15/2018/TT-BYT ngày 30/8/2018 đã quy định định mức tối đa về số lượt khám là 65 lượt bệnh nhân/1 bác
sĩ/1 ngày.
Đinh Thị Thanh Thủy, Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ khám chữa bệnh của các cơ sở y tế tư nhân, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số tháng 4 (301) năm 2017.
Số 7(383) T4/2019


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
2009 hiện hành không điều chỉnh các dịch
vụ y tế như chăm sóc sức khỏe sinh sản,
phẫu thuật thẩm mỹ, y tế dự phòng… Đây

là các dịch vụ y tế không phải là khám bệnh,
chữa bệnh và chưa có pháp luật điều chỉnh.
Vì vậy, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh của
Luật Khám bệnh, chữa bệnh, làm cơ sở cho
việc quy định trách nhiệm và quyền lợi của
các bên liên quan cũng như bao quát được hết
các hoạt động cung ứng dịch vụ y tế. Đồng
thời, khái niệm “người bệnh” cần được thay
thế bằng khái niệm “người sử dụng dịch vụ
y tế” để bao hàm được đầy đủ những người
có sử dụng dịch vụ.
- Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện
nay, cần nghiên cứu bổ sung quyền lựa chọn
bác sĩ. Bệnh nhân có quyền lựa chọn bác sĩ
hoặc các nhân viên y tế thích hợp với nhu
cầu trị bệnh của mình. Bệnh nhân có quyền
tham khảo ý kiến với bác sĩ hoặc nhà cung
cấp dịch vụ y tế khác khi thấy cần. Trong
thực tế, các dịch vụ phẫu thuật hiện nay ở
các bệnh viện lớn đã sử dụng quyền này.
- Bổ sung quyền than phiền, khiếu nại
của người bệnh. Bệnh nhân có quyền được
giải quyết một cách công bằng, nhanh chóng
và khách quan mọi than phiền của mình đối
với cơ sở điều trị, phác đồ trị liệu, bác sĩ
hoặc các người cung cấp dịch vụ y tế khác.
Các than phiền này bao gồm thời gian chờ
đợi quá lâu, giờ giấc không thích hợp, cách
đối xử của nhân viên y tế, tiện nghi của cơ
sở điều trị.

- Việc giữ bí mật thông tin cho bệnh
nhân rất khó thực hiện ở một số tình huống
tại bệnh viện. Ví dụ, không phải bác sĩ nào
cũng có đủ trình độ, kỹ năng để giải thích
cho một bệnh nhân biết rõ tình trạng bệnh
mà người bệnh không bị sốc…; hoặc bệnh
nhân có thể có những suy nghĩ tiêu cực mà
7

đạo đức bác sĩ không cho phép họ gây hại
bệnh nhân. Bởi vậy, nhiều bác sĩ chọn giải
pháp là giải thích cho người nhà. Trong khi
đó, người nhà lại không tôn trọng quyền giữ
bí mật thông tin cho bệnh nhân. Do đó, các
quy định pháp luật cần phải cụ thể hơn để áp
dụng cho nhiều trường hợp, giúp bệnh viện
có cách ứng xử phù hợp, bệnh nào thì cho
bệnh nhân biết, bệnh nào thì chỉ cho người
nhà biết.
- Quyền của người sử dụng dịch vụ
khám, chữa bệnh được cung cấp “thông tin
tóm tắt về hồ sơ bệnh án nếu có yêu cầu
bằng văn bản, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác”. Quy định này là một trong
những nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp
khiếu nại của người bệnh khi xảy ra các sự
cố y khoa. Một hồ sơ bệnh án tóm tắt không
thể là chứng cứ pháp lý để chứng minh sai
sót từ người hành nghề, hay là chứng cứ
trước cơ quan tố tụng. Vì vậy, cần thiết sửa

đổi quy định này theo hướng người sử dụng
dịch vụ khám, chữa bệnh có quyền được
xem hồ sơ bệnh án và được cung cấp bản
sao lục hồ sơ nếu có yêu cầu, trừ trường hợp
pháp luật quy định khác7.
Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng
cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới
đã định hướng những giải pháp tăng cường
quyền của người dân khi sử dụng dịch vụ
khám bệnh, chữa bệnh, đó là: thiết lập hệ
thống sổ sức khoẻ điện tử đến từng người
dân; thực hiện cập nhật các thông tin, chỉ số
sức khoẻ khi đi khám sức khoẻ, chữa bệnh;
quản lý bệnh tật, tiêm chủng, hồ sơ sức khoẻ
người dân gắn với quản lý thẻ BHYT. Các
nội dung này cần phải được thể chế hóa
trong các quy định của pháp luật về khám,
chữa bệnh

Đinh Thị Thanh Thủy, Bảo đảm quyền của người sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh - Một số vấn đề pháp lý, tlđd.
Số 7(383) T4/2019

45



×