Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.88 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

 
NGUYỄN THANH NGA

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC 
NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN BÁO CHÍ  THEO 
TƯ TƯỞNG  ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH .

Ngành : Lý luận và lịch sử giáo dục
Mã số:   62.14.01.02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


 
Hà Nội ­ 2015
Công trình được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: 

PGS.TS.   Phạm   Khắc 

Chương
                                            

PGS.TS. Nguyễn Thành Vinh

Phản biện 1:  GS.TSKH. Thái Duy Tuyên.......................................
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam............................



Phản biện 2:  PGS.TS. Hoàng Đình Cúc......................................
 Học viện Báo chí và Tuyên truyền.............................

Phản biện 3: PGS.TS. Phan Thị Hồng Vinh................................
Trường đại học Sư phạn Hà Nội.............................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp 
Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi ……giờ …… ngày …… tháng…… năm……2015


Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia, Hà Nội
                           hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà 
Nội


1
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐàCÔNG BỐ

1.

Nguyễn Thanh Nga: Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá trình giáo dục , Tạp chí Quản 
Lý Giáo Dục, Tháng 6/2011.

2.

Nguyễn Thanh Nga: Vận dụng một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá trình giáo dục trong  
thời kỳ hiện nay, Tạp chí Quản lý Giáo dục, Tháng 8/2011.


3.

Nguyễn Thanh Nga: Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về hội nhập trong giáo dục đến tình hình hợp tác đào tạo  
Việt ­ Mỹ, Tạp chí Giáo dục số 1, tháng 7/2011.

4.

Nguyễn Thanh Nga: Ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường vào việc giáo dục đạo đức nghề  nghiệp  
cho sinh viên báo chí, Tạp chí Giáo dục số 2, tháng 11/ 2012

5.

Nguyễn Thanh Nga:  Một số  định hướng vận dụng tư  tưởng giáo dục đạo đức nghề  nghiệp báo chí  
của chủ tịch Hồ Chí Minh trong các trường đào tạo báo chí, Tạp chí Giáo dục kỳ 1, Tháng 1/2014

6. Thực trạng giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư  tưởng đạo đức của Hồ  Chí 
Minh, Tạp chí Giáo dục kỳ 2, tháng 2/2015


2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong xã hội vấn đề  đạo đức luôn được mọi người quan tâm  ở  các lĩnh vực  
nghề nghiệp khác nhau, ở mỗi nghề lại có những yêu cầu đạo đức nhất định. Chính  
những yêu cầu này được xem như là những chuẩn mực để  con người rèn luyện bản 
thân. 
  Quá trình hội nhập quốc tế  đã đem đến sự  thay đổi mọi mặt cho đất nước  
nhưng nó cũng lam cho đao đ
̀

̣ ức cua nhiêu thanh thi
̉
̀
ếu niên bi sa sut nghiêm trong,
̣
́
̣  
khiến cho một số người chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, hẹp hòi, lý tưởng sống  
mờ nhạt, quá đề cao vai trò vật chất, tiền tài… ngay cả những nghề được xã hội tôn  
vinh là nghề có đạo đức như  nghề giáo, nhà báo, thầy thuốc,... Những năm gần đây, 
chúng ta liên tiếp phải chứng kiến một số nhà báo vi phạm pháp luật, đạo đức nghề 
nghiệp, lợi dụng tấm thẻ của mình để trục lợi cá nhân, thiếu trách nhiệm xã hội khi 
đưa tin không trung thực. Theo thống kê của Bộ  Thông tin và Truyền thông từ  năm 
2010 đến 2014 có khoảng 3000 nhà báo  vi phạm báo chí đã bị các hình thức kỷ luật 
như cảnh cáo, khiển trách, phê bình, thu hồi thẻ…
 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây  
bút, trang giấy là vũ khí sắc bén trong sự  nghiệp phò chính trừ  tà”. Nghiên cứu tư 
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết để  vận dụng sáng tạo vào quá  
trình giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí để trở thành người chiến sĩ  
có đức, có tài trên mặt trận văn hóa tư tưởng trong quá trình hội nhập. Vì vậy, có thể 
khẳng định việc lựa chọn đề  tài nghiên cứu: “Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho 
sinh viên báo chí theo tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh” là có ý nghĩa lí luận và 
thực tiễn cao.
2. Mục đích nghiên cứu 
Luận án nhằm tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức nghiềp nghiệp và xác định 
giá trị khoa học của những tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình giáo dục đào tạo và  
rèn luyện đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên ngành báo chí, từ  đó đề  xuất các biện 
pháp giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho SV báo chí theo tư  tưởng Hồ  Chí Minh để 
nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trong các trường đào tạo chuyên ngành báo chí.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu 
Tư  tưởng đạo đức của Hồ  Chí Minh đối với giáo dục đạo đức nghề  nghiệp 
người làm báo chí.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư  tưởng  
đạo đức Hồ Chí Minh trong trường đại học. 
4. Giả thuyết khoa học
Những tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh rất phong phú và có ý nghĩa to lớn 
trong sự nghiệp giáo dục ­ đào tạo nói chung. Chính Người cũng là một nhà báo lớn, 


3
Người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam. Do vậy, nếu những tư tưởng  
đạo đức của Người được nghiên cứu một cách hệ  thống, toàn diện và được vận 
dụng phù hợp vào quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên  
ngành báo chí sẽ  nâng cao được chất lượng đào tạo đội ngũ người làm báo có đạo 
đức, tài năng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng CNH – HĐH đất nước hiện 
nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tập hợp, hồi cứu, phân tích làm rõ tư  tưởng đạo đức của Hồ  Chí Minh,  
vấn đề đạo đức, đạo đức nghề  nghiệp và nghiên cứu cơ sở lý luận về  giáo dục đạo 
đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
5.2. Điều tra để đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức và hoạt động rèn luyện 
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh 
trong các trường đào tạo báo chí.
5.3. Đề  xuất một số  biện pháp giáo dục đạo đức nghề  nghiệp theo tư  tưởng  
đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên báo chí trong giai đoạn hiện nay và thực nghiệm  
các biện pháp đã đề xuất.
6. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
­ Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu ở hai trường: Học viện Báo chí và 

Tuyên truyền, Khoa Báo chí truyền thông, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân 
văn. 
­ Giới hạn nội dung nghiên cứu
+ Nghiên cứu và giáo dục một số nội dung trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí 
Minh với tư cách là một bộ phận cấu thành hết sức quan trọng không thể thiếu được  
trong quá trình giáo dục, đào tạo nhân cách sinh viên báo chí có đủ tâm đức trong giai 
đoạn hiện nay.
+ Chúng tôi tiến hành thực nghiệm khoa học với 50 sinh viên chuyên ngành báo 
in khóa (2011 ­ 2015) tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
7. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng kết hợp  
các nhóm phương pháp sau
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi  
(An két); Phương pháp chuyên gia; Phương pháp phỏng vấn;Phương pháp nghiên cứu  
điển hình (Case Study); Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động; Phương pháp  
thực nghiệm sư phạm.
7.3. Phương pháp thống kê toán học 
8. Những đóng góp mới của đề tài
8.1. Về mặt lí luận
Hệ  thống hóa lý luận, tìm ra những tư tưởng đạo đức của Hồ  Chí Minh. Đặc 
biệt các tư tưởng chính trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về  đạo đức nghề  báo, 
giáo dục đạo đức nghề báo. 
8.2. Về mặt thực tiễn 
Đề tài góp phần làm sáng tỏ thực trạng quá trình đào tạo và giáo dục đạo đức  
nghề  báo cho sinh viên báo chí. Tìm ra nội dung và đề  xuất một số  định hướng và  


4
biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức 
Hồ  Chí Minh trong thời kỳ  hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo  ở  các 

trường đào tạo báo chí và tiến hành thực nghiệm sư phạm khẳng định tính hiệu quả 
của các biện pháp đã đề xuất.
9. Bố Cục của luận án.
Ngoài phần Mở  đầu, Kết luận và khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo,  
Phụ lục, luận án gồm 3 chương.

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO 
SINH VIÊN BÁO CHÍ THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu về tư tưởng đạo của đức Hồ Chí Minh
Tư  tưởng đạo đức của Hồ  Chí Minh được rất nhiều tác giả  trong và ngoài 
nước nghiên cứu. Tất cả các tác giả dù nghiên cứu ở khía cạnh nào đi chăng nữa cũng 
khâm phục tấm lòng của Bác đối với dân, với nước. Tư tưởng đạo đức của Người là 
tài sản, là báu vật vô giá để mọi thế hệ con cháu học tập và làm theo tấm gương đạo  
đức của Người.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đạo đức nghề báo
Việc nghiên cứu về đạo đức nghề  nghiệp nói chung và đạo đức nghề  báo nói 
riêng, được nhiều tác giả ở các quốc gia trên thế giới quan tâm sâu sắc. Mỗi quốc gia 
trên thế  giới đều có những quy ước riêng đối với đạo đức người làm báo trên cơ  sở 
quy ước chung của liên đoàn báo chí thế  giới. Báo chí Việt Nam cũng có những quy 
ước riêng phù hợp với truyền thống dân tộc. Cái riêng đó là đạo đức truyền thống dân 
tộc, đạo đức của Hồ Chí Minh, người khai sinh ra nền báo chí các mạng nước ta. Cho  
nên sinh viên báo chí cũng phải được giáo dục để  thực hiện theo những quy  ước đó 
trong công việc của mình khi ra trường.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh với báo chí và đạo đức nghề  
báo
Rất nhiều tác giả đã nghiên cứu chân dung nhà báo Hồ Chí Minh, quá trình hoạt 
động báo chí của Bác ở  nước ngoài, phong cách báo chí của Người, với các yêu cầu  
mà Người đặt ra đối với người cán bộ và nhà báo: viết như thế nào, viết cho ai, nhà 

báo cần có những phẩm chất đạo đức nào. Từ đó, khẳng định một lần nữa Bác là nhà 
báo tài ba và những tư tưởng này đã và đang được các thế hệ nhà báo Việt Nam viết  
và làm theo.


5
­ Các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh với hoạt động giáo dục
Trong các công trình nghiên cứu về  Hồ  Chí Minh với hoạt động giáo dục, tuy 
viết dưới các góc độ khác nhưng các tác giả đều đưa ra các tư tưởng lớn của Người  
về giáo dục và giáo dục đạo đức, khẳng định những giá trị to lớn trong tư tưởng giáo 
dục của Hồ  Chí Minh trong việc xây dựng một nền giáo dục Việt Nam, tiên tiến,  
đậm đà bản sắc dân tộc. Từ  đó, các tác giả  rút ra những tư  tưởng chính về  đạo đức 
cách mạng được thể  hiện vắn tắt trong những phẩm chất như: Nhân, Nghĩa, Trí,  
Dũng, Liêm,...
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
1.2.1.1. Đạo đức
Có nhiều quan điểm khác nhau nói về đạo đức và chúng tôi đồng tình với quan 
điểm cho rằng “Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác  
trong quan hệ  giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng xã hội,  
với tự nhiên và với cả bản thân mình”.
­ Đạo đức xét dưới góc độ giáo dục, thì đó là một bộ phận cấu thành nên cấu  
trúc nhân cách của con người, gồm năng lực và phẩm chất.
1.2.1.2. Đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các chuẩn mực đạo đức phản ánh những yêu  
cầu, đòi hỏi của xã hội, của bản thân nghề nghiệp đối với người lao động trong lĩnh 
vực nghề  nghiệp đó, giúp họ  hoàn thành nhiệm vụ  của mình với lương tâm, trách 
nhiệm đạt kết quả cao nhất.
1.2.2. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo
1.2.2.1. Khái niệm báo chí

Báo chí là: Các loại báo và tạp chí nói chung: công tác báo chí vai trò của báo  
chí trong công cuộc đổi mới xã hội.
Báo chí có các loại hình như  sau: Báo in, báo hình, báo phát thanh, báo mạng 
điện tử, báo ảnh, v.v…
1.2.2.2. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo
Với mỗi loại hình báo sẽ  có những đòi hỏi khác nhau về  đạo đức đối với  
người làm báo. Trong khuôn khổ nghiên cứu tác giả đi nghiên cứu sâu vào đối tượng  
sinh viên học chuyên ngành báo in, đây là chuyên ngành được đào tạo lâu nhất tại Học  
viện Báo chí và Tuyên truyền và Khoa báo chí Truyền thông trường Khoa học xã hội  
nhân văn. Đây chính là giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Trên   cơ   sở   các   khái   niệm   của   các   tác   giả,   theo   chúng   tôi:   đạo   đức   nghề  
nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng  
xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp.
1.2.3. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp nhà báo
1.2.3.1. Giáo dục đạo đức 
Giáo dục đạo đức cho thế  hệ  trẻ  là quá trình tác động tới học sinh của nhà  
trường, gia đình và xã hội, hình thành lí tưởng, ý thức và tình cảm đạo đức, tạo nên  
thói quen và hành vi đạo đức của con người  ở  trong đời sống xã hội. Thể  hiện các  
phẩm chất đạo đức như: lòng nhân ái, yêu tổ  quốc, yêu đồng bào, yêu lao động, đức 


6
hy sinh, dũng cảm, tính liêm khiết trung thực, vô tư…
GDĐĐ nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau:
­ Giáo dục ý thức đạo đức;
­ Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức;
­ Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức;
1.2.3.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí
Trên cơ sở phân tích những khái niệm về đạo đức, đạo đức nghề  nghiệp, đạo  
đức nghề nghiệp nhà báo và giáo dục đạo đức chúng tôi có thế  đưa ra khái niệm về 

giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí như sau:
Giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên báo chí chính là làm thay đổi  
nhận thức, thái độ, hành vi của họ trong quá trình học tập và tác nghiệp sau khi  
ra trường.
1.3. Nội dung tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức được xem là một trong những khâu quan 
trọng nhất của việc đào tạo nhân tài, phát triển nhân lực, góp phần trực tiếp vào tiến  
trình lịch sử của dân tộc và thời đại, nội dung tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là  
hết sức rộng lớn, bao quát trên nhiều lĩnh vực. Nội dung tư  tưởng đạo đức  ở  HCM  
bao gồm:
1.3.1. Nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
­ Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế  hoạch, sáng tạo, có 
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,  
không dựa dẫm.
­ Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của  
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ 
cộng lại thành cái  to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa  bãi", không phô 
trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
­ Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ  gìn của công và của dân"; "không xâm  
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không  
tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không  
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ  hủ  hoá. 
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.
­ Chính, " thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu 
khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở 
của bản thân mình.
Chí công vô tư:  Theo tư  tưởng đạo đức của HCM là nhận rõ phải trái, giữ 
vững  lập trường,  tận trung với  nước,  tận hiếu với  dân.  Đối với mình những tư 
tưởng, hành động là lợi ích cho tổ  quốc, đồng bào là bạn bè. Những tư  tưởng, hành 
động có hại cho tổ quốc, cho đồng bào là thù.

1.3.2. Nội dung cơ bản của đạo đức truyền thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Bên cạnh đạo đức cách mạng, một người  cán bộ, một nhà báo chân chính 
muốn thể  hiện được đạo đức cách mạng, phải luôn tự  bồ  dưỡng, trau dồi những 
phẩm chất đạo đức nền tảng cả con người nói chung mà ông cha ta đã chắt lọc, tinh 
luyện mang đạm màu sắc dân tộc: Nhân, nghĩa, trí, tín, dũng.


7
­ Nhân: Là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ  đội của mình. 
Yêu thương con người được thể  hiện ngay chính bài viết về  những nội dung mang  
tính chân thực, khách quan, nhà báo viết bài phải gần dân, phải hiểu tâm tư  nguyện 
vọng của quần chúng, văn phong gần gũi. Theo Người, một nhà báo có đạo đức là 
một nhà báo biết "hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu  
quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng".
­ Nghĩa: Là ngay thẳng, không có làm việc bậy, không làm việc gì giấu Đảng, 
ngoài lợi ích của Đảng, không có gì lợi ích cho riêng tư, việc gì Đảng giao phải hết  
sức cẩn thận, không sợ  phê bình và phê bình người khác phải đúng đắn. Đối với 
người làm báo, sự ngay thẳng, dám nói lên sự thật và viết đúng sự thật là việc nghĩa.
­ Trí: Là sáng suốt, biết địch, biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ, biết người  
xấu thì không dùng, biết cái tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu của mình để 
mà tránh. Người làm báo phải luôn biết xử  lý thông tin một cách sáng suốt,  ứng xử 
thông minh trong mọi trường hợp.
Tín: Nói cái gì phải cho tin, nói và làm cho nhất trí, làm thế nào cho dân tin, cho 
bộ  độ  tin  ở  mình. Báo chí là tiếng nói của Đảng và nhân dân, vì thế  người viết báo 
phải luôn tạo ra lòng tin cho người đọc. Để  viết được những bài báo hợp lòng dân, 
sát với cuộc sống của nhân dân, theo Người, nhà báo phải học cách tìm tài liệu trong  
dân. Năm cách để tìm được tài liệu phục vụ cho bài viết đã được Người đưa ra, đó là: 
Nghe, Hỏi, Thấy, Xem và Ghi. Năm cách này gắn bó chặt chẽ với nhau theo một hệ 
thống có tính logic.
Dũng:  Phải mạnh dạn, quả  quyết nhưng  không phải làm liều. Phải có kế 

hoạch, rồi kiên quyết làm ngay. Nguy hiểm cũng phải làm. Nghĩa là phải có lòng dũng  
cảm trong công việc. Nhà báo luôn phải xông pha đến những nơi gian khó, báo chí là 
nghề nguy hiểm nhất, hàng năm con số nhà báo thiệt mạng vì đến các khu vực nguy 
hiểm lấy tin bài ngày một tăng lên, theo báo Người đưa tin năm 2013 ít nhất 70 nhà  
báo thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ, viết về  chiến tranh, buôn bán ma túy, tham  
nhũng…   như   Syria,  Brazil,   Colombia,   Ấn   Độ,   Bangladesh,   Pakistan,   Nga   và 
Philippines.
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nhà báo cách mạng
1.4.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà báo cách mạng tài năng. Người khai sinh ra nền  
báo chí cách mạng Việt Nam
Chủ  tịch Hồ  Chí Minh,  Người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam 
với tờ báo đầu tiên là tờ Thanh niên mà chính bản thân Người cũng là một cây bút tài 
ba. Hơn 50 năm hoạt động sáng tạo không ngừng, Người đã để  lại một khối lượng  
tác phẩm báo chí đồ  sộ, với trên 2000 bài báo thuộc nhiều thể loại như: kịch, phóng  
sự, bút ký… các tác phẩm của Người còn được viết bằng nhiều thứ tiếng khác nhau,  
đề  cập đến toàn bộ  các vấn đề  rộng lớn của cách mạng cũng như  đời sống xã hội  
Việt Nam. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng Người đã sáng lập ra 9 tờ báo khác  
nhau: Le parie (Người cùng khổ), L’humanite (Nhân đạo), La vie d’ouvriers (Đời sống 
thợ thuyền), La femme (Phụ nữ), với bút danh Nguyễn Ái Quốc. Tạp chí “Đỏ”, “Búa 
Liềm”, “Tranh đấu”, “Tiếng nói của chúng ta” sử  dụng khoảng hơn 150 bút danh 


8
khác nhau như: Nguyễn Ái Quốc, Bình Sơn,Tân Sinh, Lê Ba, CK, ĐX, Trầm Lam … 
đã tuyên truyền vận động đấu tranh cách mạng. Những tư tưởng lớn của Người về 
đạo đức báo chí cách mạng đã nằm trong các bài báo viết, bài nói ngắn gọn, được 
diễn đạt rất cô đọng, hàm súc theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với 
người Việt Nam.
Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người làm báo:  
“Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của 

họ”. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo  
đức cách mạng, “Cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập 
chính trị  để  nắm vững chủ  trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào  
thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động”
Những kinh nghiệm làm báo của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã trở  thành những  
nguyên tắc cơ bản không thể thiếu đối với những người cầm bút. Đây chính là những 
bài học vô cùng quý báu mà Người đã để lại cho các nhà báo.
Tính chân thật luôn được xem là đạo đức của người làm báo cách mạng. Tư 
tưởng cùng những lời dạy của Người về  báo chí mãi còn nguyên giá trị, từ  bài báo  
đầu tiên của Người: “Vấn đề  dân bản xứ” và bài cuối cùng: “Nâng cao trách nhiệm  
chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng” đã có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự 
hình thành nền báo chí cách mạng Việt Nam nói chung, những thế hệ người cầm bút 
nói riêng, ngay từ những thế hệ đầu tiên những tờ báo trước và sau cách mạng tháng 
8/1945 như: Nhà báo Hữu Thọ, Nguyễn Bạch Đằng, Trần Lâm, Phan Quang… và đội 
ngũ đông đảo các nhà báo hôm nay của báo Nhân Dân, báo Quân Đội, Phụ Nữ, Thanh  
Niên, Đoàn Kết, Giáo Dục… Và nhiều tờ báo tạp chí khác đang thực sự góp phần tích 
cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh, tiến bộ.
1.4.2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức nhà báo cách mạng
Những tư tưởng của Người về phẩm chất đạo đức người làm báo cách mạng  
thường có trong các mẩu chuyện, các bức thư hay bài nói chuyện. Nó được tập trung 
ở những điểm sau:
­ Trung thành với lý tưởng của đất nước, nhân dân và Đảng cộng sản:  
Theo Hồ  Chủ  tịch, “đạo đức cách mạng là triệt để  trung thành với cách mạng, một  
lòng, một dạ phục vụ nhân dân là “quyết tâm suốt đời phấn đấu tranh cho Đảng, cho 
cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”.
­ Phản ánh chân thực khách quan:  Tính chân thực là một trong những đặc 
trưng cơ bản của báo chí, cho nên Người thường căn dặn các nhà báo phải luôn trung 
thực, coi đó là một tiêu chuẩn trong phẩm chất đạo đức của người làm báo cách 
mạng.
­ Gần dân, yêu dân, vì quyền lợi của nhân dân:  Nhân dân chính là đội ngũ 

công chúng đông đảo nhất, gần gũi nhất của báo chí, do đó nhà báo phải có ý thức 
phục vụ nhân dân chân thành nhất, tận tâm nhất.
­ Có tinh thần phê bình và tự phê bình: Phê bình và tự phê bình là vũ khí sắc  
bén của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện, xây 
dựng đạo đức cách mạng. Đồng thời cũng là động lực mạnh mẽ giúp cho sự tiến bộ,  
trưởng thành, phát triển của mỗi cá nhân và mỗi tổ chức cách mạng. Theo Người, tự 


9
phê bình và phê bình có mục đích và ý nghĩa tốt đẹp đó là để  mọi người học tập  ưu  
điểm của nhau, giúp nhau nhận ra sai lầm và sửa chữa sai lầm, để  mọi người ngày  
càng tiến bộ, trưởng thành, đoàn kết.
­ Rèn luyện học tập suốt đời: Người làm báo phải lấy đạo đức cách mạng, 
đạo đức nghề nghiệp làm gốc, là điều trước tiên khi đặt bút. Song bản lĩnh chính trị, 
tri thức mọi mặt…. sẽ  là những nhân tố  quan trọng giúp cho nhà báo giữ  được cái  
“tâm” trong sáng  ấy. Hoạt động báo chí là một hoạt động đặc biệt, đòi hỏi phải có 
tầm trí tuệ, có hiểu biết sâu rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú và nhiều năng 
lực nghề  nghiệp. Vì vậy, người làm báo phải luôn luôn học hỏi, luôn luôn cầu tiến 
bộ,…
­Tinh thần quốc tế trong sáng: Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà 
Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em". Với tư 
cách là một nhà báo quốc tế, Bác viết báo đấu tranh đòi sự  công bằng cho dân tộc  
Việt Nam và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
1.5. Những tiêu chuẩn đạo nghề nghiệp của nhà báo.
Những tiêu chuẩn này được thể  hiện khái quát ra 9 điều trong “Quy định đạo 
đức nghề nghiệp của người làm báo Việt nam” và được khái quát như sau:
1.5.1. Trong dân, vì dân – Tiêu chuân hàng đâu đao đ
̣
̉
̀ ̣ ức nghê nghi

̀
ệp nhà báo 
Trong dân 
̣
là nói vê thái đ
̀
ộ   ưng x
́ ử  cua nhà báo khi hành nghê và sáng tao phai
̉
̀
̣
̉ 
luôn kính trong nhân dân, tôn trong lê phép, găn bó ch
̣
̣
̃
́
ặt che v
̃ ơi nhân dân, yêu th
́
ương 
tin tưởng ở nhân dân; luôn lăng nghe và chiu s
́
̣ ự giám sát cua nhân dân. 
̉
Vì dân là nói về 
muc đích hoat đ
̣
̣ ộng nghê nghi
̀

ệp cua nhà báo, phai hêt lòng hêt s
̉
̉
́
́ ưc t
́ ận tuy phuc vu
̣
̣
̣ 
nhân dân; moi hoat đ
̣
̣ ộng sáng tao cua nhà báo phai luôn h
̣
̉
̉
ương t
́ ơi l
́ ợi ích và sự tiên b
́ ộ 
cua nhân dân.
̉
1.5.2. Tính trung thực – đặc trưng nhân cách đao đ
̣ ức nghê nghi
̀
ệp nhà báo
Trung thực là đặc trưng nhân cách cua nhà báo và cung là phâm chât hàng đâu
̉
̃
̉
́

̀ 
mà Đang, Nhà n
̉
ươc, nhân dân đòi hoi các c
́
̉
ơ quan báo chí, các nhà báo phai tôn trong
̉
̣  
và thực hiện.
1.5.3. Trách nhiệm xã hội – Tiêu chuân đao đ
̉
̣ ưc sông còn cua báo chí và nhà báo
́ ́
̉
Trách nhiệm xã hội thuộc pham trù nghia vu đao đ
̣
̃ ̣ ̣ ức. Nhà báo khi hoat đ
̣ ộng  
nghê nghi
̀
ệp mang trên vai hai thứ trách nhiệm. Đó là trách nhiệm trươc c
́ ơ quan báo 
chí, phai hoàn thành tôt moi công vi
̉
́ ̣
ệc được giao. Vượt lên trên trách nhiệm ây là trách
́
 
nhiệm vơi xã h

́
ội. Đê nâng cao trách nhi
̉
ệm xã hội, môi nhà báo phai có ban linh chính
̃
̉
̉ ̃
 
tri và lòng yêu n
̣
ươc, th
́
ương dân, tính trung thực; có kiên th
́ ưc và vôn sông sâu săc
́
́ ́
́ 
nhăm x
̀ ử lý thông tin đúng đăn, h
́ ợp tình hợp lý.
1.5.4. Lương tâm – Thươc đo đao đ
́
̣ ức nghê nghi
̀
ệp nhà báo
Lương tâm nghê nghi
̀
ệp là sự phát triên cao cua trình đ
̉
̉

ộ đao đ
̣ ức vì nó dựa trên 
cơ  sở  tự  ý thưc vê trách nhi
́ ̀
ệm cua ban thân ng
̉
̉
ười lao động khi hoat đ
̣ ộng nghề 
nghiệp. Đao đ
̣ ức nghê nghi
̀
ệp được nâng cao se thành l
̃
ương tâm nghê nghi
̀
ệp. Vì vậy  
lương tâm trở thành thươc đo cua trình đ
́
̉
ộ đao đ
̣ ức nhà báo. Nhà báo có lương tâm, sẽ 
luôn tâm huyêt v
́ ơi nghê nghi
́
̀
ệp mà mình theo đuôi, vì v
̉
ậy mà có lòng yêu nghê, yêu
̀

 
ngươi tha thiêt.
̀
́
1.6. Một số  định hướng giáo dục đạo đức nghề  nghiệp báo chí theo tư  tưởng  


10
Hồ Chí Minh
1.6.1. Đặc điểm của sinh viên báo chí và mục tiêu đào tạo trong nhà trường
Sinh viên ngành báo cũng như sinh viên các ngành học khác, ở ở  độ  tuổi từ  18  
đến 23, độ tuổi trẻ trung, năng động và nhiệt huyết, có sự trưởng thành và chín chắn 
về mặt tâm lý. Xuất thân từ mọi vùng của đất nước, với mong muốn trở thành những  
phóng viên, biên tập viên báo, truyền hình, MC, phát thanh viên truyền hình, những 
người tổ chức sự kiện, …
­ Có năng lực hoạt động nghiệp vụ báo chí ở nhiều loại hình báo chí.
­ Có khả  năng thích  ứng rộng để  có thể  thực hiện các chức trách công tác tại 
các cơ quan đơn vị có liên quan đến báo chí và truyền thông đại chúng.
­ Có khả  năng tham gia vào hoạt động tư  tưởng của Đảng và các nhiệm vụ 
chính trị xã hội của Đảng và Nhà nước
­ Có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định với chủ nghĩa Mác ­ Lênin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi  
lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc.
­ Có đạo đức của người cán bộ  cách mạng với phẩm chất của nhà báo chân  
chính; có ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, có lối sống tích cực, lành mạnh,...
Quá trình đào tạo cho sinh viên báo chí báo sát theo quy  ước của hội nhà báo 
Việt Nam đó là:
1. Tuyệt đối trung thành với sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc Việt xã  
hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.

3. Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.
4. Sống lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề  nghiệp để  vụ  lợi và làm  
trái pháp luật.
5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ  công dân, làm tốt trách 
nhiệm xã hội.
6. Bảo vệ  bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ  bí mật cho người cung cấp thông 
tin.
7. Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ  đồng nghiệp trong hoạt động nghề 
nghiệp.
8. Thường  xuyên học tập, nâng cao trình  độ  chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, 
khiêm tốn cầu tiến bộ.
9. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc các nền  
văn hóa khác.
1.6.2. Một số  định giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư  
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị và tinh hoa của  
nhân loại. Việc vận dụng những tư tưởng đó trong quá trình đào tạo, giáo dục sinh  
viên báo chí hiện nay nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần tạo ra  
một đội ngũ những nhà báo vừa có tài vừa có tâm, phục vụ  cho sự  nghiệp xây dựng 
và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên việc vận dụng để giáo dục cho sinh viên báo chí hiện 
nay cần có sự lựa chọn sao cho phù hợp để phát huy cao độ những giá trị đạo đức tốt 


11
đẹp, cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Người
1.6.2.1. Phát huy cao độ giá trị đạo đức của nhà báo cách mạng
Hồ  Chí Minh “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất” của Việt  
Nam.  Người là nhà thơ, nhà văn, nhà báo vĩ đại. Sự  vĩ đại không chỉ  là người xây  
dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam mà Hồ  Chí Minh còn là nhà báo cách mạng 
chân chính. Có thể nói “Văn đức”, “Đạo đức báo chí” được hình thành từ phong cách  

và đạo đức làm báo, viết văn của Hồ Chí Minh.
1.6.2.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp báo chí theo tư tưởng Hồ Chí Minh là kết hợp  
chặt chẽ học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn sôi động xã hội
Báo chí là tiến nói của Đảng, của nhân dân, cho nên trong quá trình đào tạo đội 
ngũ cán bộ báo chí, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt lên hàng đầu.. Trong quá trình  
đào tạo cán bộ  báo chí thì việc vận dụng những tư  tưởng, lời dạy của chủ  tịch Hồ 
Chí Minh là cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn. Người từng dạy: Trong quá trình 
đào tạo ở trường phải luôn trang bị lý luận, tay nghề cho người học, hay nói cách khái 
quát: học phải đi đôi với hành.
Hồ  Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi đôi với thực  
tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi 
với nhau”, “Lý luận phải liên hệ  với thực tế. Việc gắn lý luận với thực tiễn xây 
dựng đất nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, giúp sinh viên báo chí  
trang bị  cho mình đầy đủ  kiến thức cần thiết đem ngòi bút xây dựng đất nước theo 
quan điểm của Đảng và Nhà nước, giúp họ  có thêm vốn hiểu biết, trải nghiệm thực  
tiễn cuộc sống sinh động, đó là những chất liệu giúp cho những bài viết chính xác,  
gần với thực tế hơn. giúp họ thấy rõ được những ảnh hưởng tích cực cũng như  tiêu 
cực tới hoạt động báo chí.
1.6.2.3. Đảm bảo vận dụng kết hợp đa dạng các con đường giáo dục
Quá trình GD hình thành và phát triển nhân cách của người nói chung và nhà báo 
nói riêng cần thông qua nhiều lực lượng khác nhau, gia đình, nhà trường, xã hội và  
bằng nhiều con đường khác nhau như  qua các môn học khoa học cơ  bản, môn học 
chuyên ngành, giúp SV hiểu được giá trị của nghề nghiệp, thông qua các môn học này 
lồng ghép tư  tưởng đạo đức nghề  báo của chủ  tịch Hồ  Chí Minh vào nội dung GD, 
nhằm hình thành những phẩm chất đạo đức  ở  SV theo tư  tưởng của Người; thông 
qua các hoạt động ngoại khoá như: tổ  chức hội thảo, nghiên cứu chân dung, nghiên 
cứu các bài báo của chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cho SV hiểu rõ hơn về  cuộc đời làm 
báo của Bác.
1.6.2.4. Quan tâm giáo dục đạo đức và đạo đức nghề nghiệp của người chiến sĩ trên  
mặt trận tư tưởng văn hóa

GD nâng cao ĐĐNN cho SV báo chí xét cho cùng là nâng cao trình độ  nhận 
thức, nâng cao phẩm chất chính trị, nghiệp vụ  của người phóng viên tương lại. GD 
phải làm cho người học hiểu được các giá trị đạo đức trong xã hội, hiểu được “ chân, 
thiện, mĩ”, hiểu rõ đạo đức trong nghề nghiệp của mình, những phẩm chất đạo đức  
cần thiết trong nghề  nghiệp, để  khi tác nghiệp họ  hiểu mình có quyền và nghĩa vụ 
như  thế  nào. Như  Hồ  Chí Minh đã căn dặn trong di chúc: “giáo dục đạo đức cách 
mạng cho đời sau là việc làm quan trọng và cần thiết”,
GD ĐĐNN là một trong những nhiệm vụ  quan trọng của các trường đại học 


12
hiện nay, giáo dục tri thức, kỹ  năng, nghề  nghiệp. ĐĐ người làm báo phải gắn với  
những phẩm chất nghề nghiệp, trong đó chứa đựng những tư tưởng đạo đức của chủ 
tịch Hồ Chí Minh. Và những phẩm chất này phải được GD và rèn rũa trước khi họ trở 
thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng.

Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO 
SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁO CHÍ THEO TƯ TƯỞNG 
ĐẠO ĐỨC CỦA HỒ CHÍ MINH
2.1. Đôi nét khái quát về địa bàn nghiên cứu
2.2. Khảo sát thực trạng
2.2.1. Mục đích khảo sát thực trạng
Nhằm xác định cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng các biện pháp GDĐĐNN cho  
SVBC theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
2.2.2. Nội dung khảo sát
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát các nội dung sau: Đánh giá những  ảnh hưởng  
của tư  tưởng đạo đức của Hồ  Chí Minh tới ĐĐNN của nghề  làm báo; đạo đức và 
ĐĐNN của SVBC; nhận thức, thái độ và hành vi NN của SVBC; thực trạng sử dụng 
các biện pháp GDĐĐNN cho SVBC; hiệu quả của GDĐĐNN cho SVBC. Từ đó, xác 

lập cơ  sở  thực tiễn của việc xây dựng các biện pháp GDĐĐNN cho SVBC theo tư 
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
2.2.3. Đối tượng khảo sát
2.2.3.1. Sinh viên báo chí
Trường Học viện Báo Chí và Tuyên truyền với 190 sinh viên khoa Báo in với  
năm 1, 2, 3.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn với 170 sinh viên chuyên ngành  
Báo in với năm 1,2,3.
2.2.3.2. Các lực lượng giáo dục
Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát 120 đối tượng, gồm: Giảng viên báo chí 
tại các trường ĐH, cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lãnh đạo một số khoa, bộ môn,  
cán bộ Phòng Công tác học sinh, sinh viên, phòng Thanh tra, Biên tập, phóng viên tại 
một số tòa soạn, các nhà báo vừa tham gia viết báo và giảng dạy.
2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
2.3.1. Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi về nghề nghiệp và đạo đức nghề  
nghiệp
Về nhận thức của sinh viên về nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp cho thấy 
sinh viên hiểu về tiêu chuẩn nghề nghiệp mình đã lựa chọn cho tương lai chỉ dừng lại 
ở mức trung bình.
Kết quả  điều tra cho thấy có 28 sinh viên cho rằng mình hiểu rất rõ các tiêu 
chuẩn, quy định của nghề  nghiệp chiếm 7.78% nhưng có tới 124 sinh viên cho rằng  


13
mình chỉ  hiểu lơ mơ các quy định này chiếm 34,44% và đặc biệt có 3,33% sinh viên 
không hiểu về các tiêu chuẩn và quy định nghề nghiệp.
Đa số  sinh viên được đánh giá có phẩm chất đạo đức  ở  mức độ  trung bình. 
Theo tự đánh giá của sinh viên về  phẩm chất đạo đức của chính họ  có tới 53,33% ý  
kiến cho rằng đạo đức của sinh viên ở mức trung bình. Mặc dù vậy, có 2,22% ý kiến  
cho rằng đạo đức của sinh viên báo chí hiện nay là rất tốt, nhưng cũng có tới 6,66%  

sinh viên đánh giá ở mức độ yếu kém.
Bên cạnh đó chúng tôi cũng tìm hiểu nhận thức của lực lượng giáo dục  và sinh 
viên về các phẩm chất đạo đức nghề báo chí cần giáo dục cho sinh viên. Trên cơ sở 
lý luận, chúng tôi xây dựng hệ  thống tiêu chí với 20 phẩm chất đạo đức của người  
làm báo thu được kết quả như sau:
Hầu hết các phẩm chất chúng tôi nêu ra đều được các giảng viên và lực lượng  
giáo dục khác đánh giá cao. Những phẩm chất đạo đức được đánh giá cao nhất bao  
gồm Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ  bí mật cho người cung cấp thông tin 
và Lòng nhân ái, trung thực cùng với 85% ý kiến đồng ý; Ý thức học tập nâng cao vốn 
sống sâu rộng và Phẩm chất khiêm tốn, liêm khiết có cùng 80% ý kiến đồng ý. Tuy  
nhiên, vẫn có những phẩm chất đạo đức có dưới 50% ý kiến đồng ý đó là Trách 
nhiệm công dân chân chính theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh và   Sống lành 
mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật cùng có  
45% ý kiến đồng ý. Xếp cuối cùng là phẩm chất Ý thức phối hợp với các cơ  quan 
chức năng thực hiện trách nhiệm của nhà báo của dân, do dân, vì dân  chỉ với 35% ý 
kiến đồng ý.
Tất cả  các nội dung trên được sinh viên đánh giá rất cao với điểm trung bình  
rất cao. Xếp thứ nhất là nội dung Ý thức tôn trọng danh dự, uy tín nghề nghiệp chân 
chính theo pháp luật với 208 sinh viên đánh giá ở mức độ rất cần thiết, 102 sinh viên  
đánh giá là cần thiết và không có sinh viên nào cho rằng phẩm chất này là không cần  
thiết với điểm trung bình 4,5. Xếp thứ  2 với điểm trung bình 4,42 là nội dung Lòng  
yêu nghề, có niềm tin vào nghề  nghiệp. Có tới 3 nội dung cùng xếp thứ  bậc 3 với 
điểm trung bình 4,39 là các nội dung Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật 
cho người cung cấp thông tin; Tính sáng tạo, tò mò, năng động và nhạy bén;  Sống 
lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật,... 
Nhìn chung, tất cả các nội dung chúng tôi đưa ra đều được sinh viên đánh giá cao và  
rất cần thiết trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp của nhà báo bởi đây là những 
phẩm chất cốt lõi của người làm báo cần được trang bị  ngay từ  khi còn đang ngồi  
trên ghế nhà trường.
Từ nhận thức đến thái độ là cả một quá trình, mà trong quá trình ấy được trang 

bị  đầy đủ  kiến thức chuyên môn lẫn nghiệp về  nghề  nghiệp trong tương lai của  
mình, được tham gia viết bài, thực hành thực tập trực tiếp vào công việc tạo ra tình 
cảm đối với nghề  nghiệp. Xét tổng thể tình cảm của sinh viên báo chí đối với nghề 
báo có sự  phân tán nhất định và tình yêu nghề  là không cao. Chỉ  có 7,78% sinh viên 
cho rằng mình rất yêu nghề nhưng trong đó lại có tơi 38,89% sinh viên cho rằng mình 
chưa thật yêu nghề  chiếm tỷ  lệ  cao nhất và vẫn còn 2,22% sinh viên tự  nhận mình 
không yêu nghề.
Trên cơ  sở  nhận thức, thái độ  chúng tôi nghiên cứu tiếp hành vi đạo đức của 


14
sinh viên. Đặc biệt đối với nghề  báo, đạo đức càng có vai trò quan trọng trong việc 
rèn luyện đạo đức nghề  nghiệp của sinh viên sau này. Một trong những nội dung để 
thể hiện hành vi đạo đức nghề nghiệp đó chính là việc rèn luyện nghiệp vụ của nghề 
nghiệp, đây cũng có thể coi là một trong những con đường để hình thành và phát triển 
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên. Kết quả thu được ở bảng sau:
Mức độ rèn luyện nghiệp vụ báo chí của sinh viên chỉ ở mức độ trung bình với 
điểm trung bình là 3,37/5. Qua điều tra sinh viên, mức độ rèn luyện đạt tỷ lệ cao nhất  
đó là thường xuyên cũng chỉ chiếm 41,11%, trong khi đó vẫn còn tới 17,78% sinh viên 
chỉ thỉnh thoảng mới rèn luyện nghiệp vụ và không có sinh viên nào là không bao giờ 
rèn luyện.
Để đánh giá hành vi đạo đức trong học tập của sinh viên chúng tôi tìm hiểu về 
việc sinh viên vi phạm đạo đức trong học tập với những hình thức như  thiếu trung  
thực trong học tập, thiếu chuyên cần, đặc biệt là quay cóp bài trong thi cử,… kết quả 
thu được  ở  bảng trên cho thấy, chỉ  có 140 sinh viên chưa bao giờ  vi phạm đạo đức  
trong học tập chiếm 38,89%, trong khi có vẫn có hơn 5% sinh viên báo chí vi phạm  
đạo đức trong học tập nhiều và thường xuyên với tỷ lệ lần lượt là 3,33% và 2,22%.
2.3.2. Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí
Thông qua các kết quả nghiên cứu về đạo đức và đạo đức nghề nghiệp ở trên,  
chúng tôi đi vào nghiên cứu tiếp thực trạng việc giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho 

sinh viên báo chí trong các nhà trường có đào tạo báo chí, kết quả thu được như sau:
Việc thực hiện các nội dung giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên báo  
chí gộp thành các nhóm phẩm chất đạo đức cơ  bản (với mình, với người, tổ  quốc, 
nhân dân với xã hội, công việc). Qua bảng chúng ta thấy mức độ  giáo dục đạo đức  
cho sinh viên chỉ dừng lại ở mức độ trung bình khá. Đứng ở vị trí số một là nội dung  
Giáo dục lòng yêu nghề, có niềm tin vào nghề nghiệp có số  sinh viên cho ý kiến về 
mức độ thực hiện rất thường xuyên và thường xuyên nhiều nhất với điểm trung bình 
cao nhất là 3,97. Nội dung Giáo dục vai trò, vị trí của nghề nghiệp báo chí đứng thứ 2  
với điểm trung bình là 3,94. Những nội dung có mức độ thực hiện thấp nhất trong các 
nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đó là: Ý thức phối hợp với các  
cơ quan chức năng thực hiện trách nhiệm của nhà báo của dân, do dân, vì dân xếp thứ 
19 với điểm trung bình là 3,58 và Bảo vệ  bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ  bí mật  
cho người cung cấp thông tin xếp cuối cùng với điểm trung bình là 3,54.
Để giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên, nhà trường cần có những biện 
pháp cụ thể để hoạt động này đạt hiệu quả. Dựa trên thực tế, chúng tôi đã xây dựng  
các biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp nhằm tìm hiểu xem lực lượng giáo dục  
trong nhà trường đã tiến hành những biện pháp nào để giáo dục đạo đức nghề nghiệp 
cho sinh viên. Các biện pháp được sử  dụng nhiều nhất cũng chỉ  đạt 65% ý kiến của 
lực lượng giáo dục bao gồm: Lồng ghép vào giảng dạy các môn học chuyên ngành; 
Lồng ghép vào giảng dạy các môn học nghiệp vụ; Mời các nhà báo nổi tiếng đến nói  
chuyện. Điều này chứng tỏ  rằng việc giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên  
báo chí chủ  yếu thông qua việc giảng dạy của giảng viên trên lớp với những môn 
chuyên ngành và nghiệp vụ, tiếp đến là các biện pháp Thông qua công tác giáo dục tư 
tưởng­chính trị có 60% lực lượng giáo dục lựa chọn, Thông qua rèn luyện nghiệp vụ 
báo chí thường xuyên thực tế  và thực tập có 55%. Đứng  ở  những vị  trí cuối cùng là  


15
các biện pháp Thông qua công tác Đoàn TNCSHCM, Hội Sinh viên và Giao cho sinh 
viên đi lấy tin để  viết bài cùng chỉ  có 30% ý kiến. Có tới 3 biện pháp chỉ  có 25% ý 

kiến của lực lượng giáo dục nhà trường đó là Thông qua kỷ niệm các ngày lễ, truyền 
thống: 21/6, 26/3; Thông qua khen thưởng người tốt, việc tốt trong các phong trào học 
tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Thông qua thực tập viết bài theo chủ 
đề, tiêu điểm.
Trên cơ  sở  các lực lượng giáo dục tự  đành giá về  vai trò, vị  trí của chính các  
lực lượng giáo dục trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên, chúng tôi 
tiếp tục nghiên cứu các đánh giá của sinh viên về mức độ  tích cực tham gia giáo dục 
đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên của từng lực lượng giáo dục. Kết quả  thu được 
như sau:
Mức độ tích cực tham gia giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên của các  
lực lượng giáo dục chỉ  đạt  ở  mức độ  trung bình khá. Tích cực nhất trong việc giáo 
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đó là giảng viên giảng dạy xếp thứ bậc 1 với  
điểm trung bình là 3,93. Đừng thứ 2 đó là tập thể lớp và chi đoàn với điểm trung bình  
là 3,84 và đứng thứ 3 là Giảng viên chủ nhiệm với điểm trung bình là 3,63. Điều này  
hoàn toàn phù hợp với kết quả thứ bậc các lực lượng tham gia GD ĐĐNN cho sinh  
viên mà chúng tôi đã trình bày.
2.3.3. Thực trạng việc giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho SV báo chí tư  tưởng  
đạo đức Hồ Chí Minh
Đối với sinh viên báo chí, với đặc trưng nghề nghiệp tương lai là làm công tác 
tuyên truyền nên việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh có vai  
trò hết sức quan trọng, đặc biệt là trong việc hình thành và phát triển đạo đức nghề 
nghiệp của sinh viên. Chúng tôi đã tìm hiểu về nhận thức của lực lượng giáo dục và  
sinh viên về  mục đích và sự  cần thiết của việc học tập và làm theo tấm gương đạo  
đức Hồ Chí Minh. Sinh viên nhận thức chưa đầy đủ về mục đích của việc học tập và  
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong 5 mục đích chúng tôi nêu ra không 
có mục đích nào đạt được trên 50% ý kiến. Mục đích có tỷ  lệ  nhận thức cao nhất  
cũng chỉ  đạt 44,44% đó là Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh 
nhằm rèn luyện phẩm chất đạo đức, trong khi đó Học để áp dụng trong nghề nghiệp 
đem lại hạnh phúc chân chính cho cá nhân, gia đình và xã hội chỉ  có 31,11% ý kiến 
của sinh viên. Đặc biệt, mục đích Thực hiện đức nhân: “làm cho ai cũng có cơm ăn áo 

mặc, ai cũng được học hành” chỉ  có 16,67% ý kiến của sinh viên ­ Đây là tỷ  lệ  rất  
thấp.
Lực lượng giáo dục nhận thức được sự cần thiết của việc vận dụng tư tưởng  
đạo đức của Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên với tỷ lệ 
rất cao. Có tới 80% lực lượng giáo dục cho rằng việc vận dụng tư  tưởng đạo đức 
của Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên là cần thiết và rất  
cần thiết, trong đó cơ 30% lực lượng giáo dục đánh giá là rất cần thiết.
Về mức độ thực hiện việc vận dụng và làm theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí 
Minh vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí. Đa số lực lượng giáo 
dục cho rằng nhà trường chưa thường xuyên vận dụng và làm theo tư tưởng đạo đức 


16
của Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên chiếm tới 50% ý  
kiến của lực lượng giáo dục. Trong khi đó mức độ  rất thường xuyên chỉ  có 10% ý 
kiến.
Việc thực hiện các nội dung giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên báo  
chí theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần có những hình thức và biện pháp phù hợp để đạt 
được hiệu quả cao. Các cách thức học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh 
viên báo chí bao gồm học tập: Thông qua các tác phẩm văn học viết về Hồ Chí Minh;  
Thông qua các tác phẩm nghiên cứu về  đạo đức Hồ  Chí Minh; Thông qua tuyển tập  
Hồ  Chí Minh; Đã được học  ở  trường và Thông qua bảo tàng, thư  viện, hội thảo, 
mạng internet và tự học. Xét về tổng thể ta thấy các cách thức học tập trên được sinh 
viên sử  dụng không nhiều. Không có cách thức nào đạt được 50% ý kiến của sinh  
viên. Cách thức đạt tỷ lệ  sinh viên lựa chọn cao nhất đó là Thông qua bảo tàng, thư 
viện, hội thảo, mạng internet và tự  học có 45,55% ý kiến. Cách thức có tỷ  lệ  thấp  
nhất đó là thông qua tuyển tập Hồ Chí Minh chỉ có 7,78% ý kiến.
Bên cạnh việc học tập tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh, chúng ta cùng tìm 
hiểu các cách thức, con đường giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên theo tư 
tưởng Hồ  Chí Minh. Đa số  lực lượng giáo dục cho rằng: giáo dục đạo đức nghề 

nghiệp nghiệp cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua lồng ghép qua các 
môn học như: Luật Báo chí và đạo đức nghề báo, Tư tưởng Hồ Chí Minh ở  trên lớp 
với 80% ý kiến. Xếp thứ 2 là cách thức Mời các nhân chứng lịch sử, các nhà báo lão  
thành đã có dịp làm việc tiếp xúc với Bác đến nói chuyện về đạo đức nghề  báo của  
Bác với 70% ý kiến. Bên cạnh đó các cách thức dù đã được tổ chức thực hiện nhưng  
chưa được đánh giá cao đó là Thường xuyên tổ  chức học tập tư tưởng của Chủ tịch 
Hồ  Chí Minh về  đạo đức nghề  làm báo cho sinh viên và Tổ  chức tổng kết, rút kinh  
nghiệm qua các đợt thi đua học tập và làm theo lời Bác trong lĩnh vực rèn luyện đạo 
đức nghề nghiệp cho sinh viên có cùng 35% ý kiến.
Hiệu quả
Qua nghiên cứu về  nhận thức và việc tổ  chức giáo dục đạo đức nghề  nghiệp 
cho sinh viên báo chí nói chung và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên theo tư 
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh nói riêng, chung tôi tiếp tục nghiên cứu về hiệu quả 
của các cách thức tổ chức giáo dục đó theo đánh giá của sinh viên.
Nhìn chung các cách thức, con đường giáo dục đạo đức nghề  nghiệp và giáo  
dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên đạt hiệu quả ở mức độ  trung bình với điểm 
trung bình chung xoay quanh điểm 3 và số lượng sinh viên đánh giá mức độ hiệu quả 
chủ yếu ở mức trung bình và ít hiệu quả. Cách thức, con đường được sinh viên đánh  
giá đạt hiệu quả cao nhất đó là Thông qua dạy học các môn nghiệp vụ như luật báo 
chí, đạo đức nghề  báo,… với điểm trung bình chỉ  là 3,31 xếp thứ  nhất. Cách thức 
Thông qua giáo dục truyền thống nghề  báo xếp thứ  2 với điểm trung bình là 3,26  
điểm. Đáng chú ý là cách thức Thông qua dạy các môn học chuyên ngành chỉ đứng ở 
vị chí thứ 8 với điểm trung bình khá khiêm tốn là 3,07 điểm. Cách thức này đều được 
sinh viên và lực lượng giáo dục đánh giá cao ở mức độ cần thiết và mức độ thực hiện 
nhưng mức độ hiệu quả lại chưa đạt như mong muốn.
Những cách thức có tỷ  lệ  đánh giá ít hiệu quả  và không hiệu quả  cao như 
Thông qua công tác giáo dục tư  tưởng chính trị đầu khóa xếp thứ 13 với điểm trung 


17

bình chỉ  đạt 2,88 điểm; Tổ  chức ngày lễ  truyền thống như  ngày Báo chí cách mạng 
21/6, ngày thành lập Đoàn 26/3, ngày thành lập Đảng 03/2,… xếp thứ  14 với điểm  
trung bình chỉ 2,86 điểm. Đặc biệt cách thức Thông qua các biện pháp truyền thông đa  
dạng xếp cuối cùng với điểm trung bình chỉ đạt 2,74 điểm.
2.3.4. Đánh giá thực trạng
2.3.4.1. Những ưu điểm và nguyên nhân
Với một đội ngũ các nhà giáo, nhà báo dày dặn kinh nghiệm giảng dạy và làm 
báo, thì đây là một thuận lợi lớn trong công tác đào tạo nghề báo. Theo số liệu khảo 
sát, có tới 60% lực lượng giáo dục cho rằng thuận lợi trong giáo dục đạo đức nghề 
nghiệp cho sinh viên báo chí đó là: Các giảng viên báo chí tại Việt Nam không chỉ có  
kỹ năng sư  phạm, kỹ năng làm báo mà bản thân họ  có trình độ  lý luận cao. Họ  luôn 
tuân thủ  mục tiêu báo chí là tiếng nói của Đảng, của nhân dân, nên ngoài việc hiểu 
quy  ước báo chí quốc tế, họ  hiểu và luôn làm theo quy  ước của hội nhà báo Việt 
Nam.
Về  phía đội ngũ quản lý: Đây là một lực lượng có kinh nghiệm quản lý, am  
hiểu về mục tiêu đào tạo của nhà trường, luôn thực hiện đúng chủ trương, đường lối 
chính sách của Đảng, Pháp luật và Nhà nước về  quản lý giáo dục và đào tạo. Đặc 
biệt nhà trường luôn có ý thức trong việc phát động phong trào học tập và làm theo  
tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh trong cán bộ, sinh viên. Tuyên truyền các giá trị 
đạo đức đó tới quá trình giáo dục đối với sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói  
riêng.
Sinh viên có trình độ  đầu vào điểm cao hơn một số  ngành khác, họ  có sự  yêu  
thích nghề nghiệp, năng động và có ý thức tự học để nâng cao trình độ chuyên môn và  
nghiệp vụ. Ngoài học ở trường, bản thân sinh viên báo chí còn tham gia vào các hoạt 
động xã hội, làm thêm tại các tòa soạn báo, nhằm nâng cao nhận thức về các vấn đề 
xã hội, là cơ sở quan trọng để làm việc với nghề báo.
Cơ  sở  vật chất của các trường đào tạo báo chí đáp  ứng được nhu cầu ngày 
càng phát triển của các loại hình báo chí từ báo in tới báo truyền hình, mỗi khoa báo  
đều có các diễn đàn và trang báo dành cho chuyên ngành đào tạo. Phòng thu studio, các  
câu lạc bộ báo chí như: Câu lạc bộ kỹ năng điều tra, kỹ năng thu thập xử lý thông tin,

… có sự tham gia của sinh viên, các thầy cô và nhiều nhà báo có kinh nghiệm của các  
tờ báo lớn. Các sinh viên thường xuyên được đi thực tế xuống cơ sở lấy tin viết bài, 
đi thực tế  tại các tòa soạn. Mời các nhân chứng lịch sử  là các nhà báo lão thành đến 
giảng bài và nói chuyện trong các sự  kiện quan trọng của nghề  báo chí. Các nhà  
trường đào tạo sinh viên báo chí cũng mở rộng sự hợp tác quốc tế với các trường đại 
học nước ngoài nhằm trang bị cho sinh viên hiểu hơn thong lệ báo chí thế giới và từ 
đó họ  có sự trân trọng đối với những tư tưởng đạo đức, đặc biệt là những tư  tưởng 
đạo đức trong nghề nghiệp báo chí của Hồ Chí Minh.
2.3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Cùng với nhiều thuận lợi trong công tác giáo dục đạo đức nghề  nghiệp thì 
trong quá trình này cũng gặp không ít những khó khăn.
Những khó khăn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ  quan. 
Trước hết trong xu thế hội nhập hiện nay những tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh  
chưa thực sự được các trường áp dụng trong quá trình đào tạo sinh viên, đặc biệt với 


18
sinh viên báo chí. Một số tờ báo và nhà báo có xu hướng thực dụng chạy theo tin bài,  
không quan tâm nhiều tới chất lượng và lương tâm, đạo đức nghề  nghiệp. Điều này  
ảnh hưởng lớn tới sinh viên báo chí trong thời kỳ  mạng internet phát triển như  hiện 
nay. Họ đặt giá trị vật chất lên hàng đầu.
Thứ hai theo đánh giá của các LLGD có tới 31% lực lượng giáo dục cho rằng:  
Chương trình tài liệu học tập, mặc dù có môn chuyên ngành luật báo chí và đạo đức 
nghề  báo, nhưng với thời lượng, cấu trúc chương trình như  hiện nay là chưa đủ  để 
giáo dục tốt đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên. Còn lại các môn đều học theo kiểu  
lồng ghép, nội nội về đạo đức của Hồ Chí Minh chưa có môn riêng nên sẽ  khó khăn  
trong việc giảng dạy và vận dụng đạo đức của Người vào giáo dục đạo đức nghề 
nghiệp cho sinh viên báo chí.
Có tới 39% ý kiến cho rằng nhiều nhà giáo có tư  tưởng hướng đến kỹ  năng 
nhiều hơn là tri thức và đạo đức, đôi khi những kỹ năng sư  phạm còn thiếu và yếu.  

Họ  chỉ  cần sinh viên viết được bài và đánh giá cao kỹ  năng. Không quan tâm nhiều 
đến tư tưởng đạo đức của Hồ  Chí Minh trong việc giảng dạy cho sinh viên học tập  
và làm theo
Sinh viên mặc dù có đầu vào cao, các e hứng thú với việc học tập và rèn luyện  
kỹ  năng nhưng thường có mâu thuẫn, sự  chuyển biến và biến đổi tâm lý nhanh của  
sinh viên cũng là vấn đề cần quan tâm.
Những nội dung học trong nhà trường đôi khi khác với thực tế nên dễ  làm cho 
sinh viên hoang mang. Hay nói cách khác vốn kiến thức và kinh nghiệm thường mâu 
thuẫn với nhau. Kiến thức sinh viên được trang bị trong nhà trường và vận dụng vào  
thực tế thường làm cho các em bối rối và khó khăn trong cách xử lý. 30% giảng viên  
nhận xét rằng các em học và thích thú khi nghe các tình huống về  đạo đức nghề 
nghiệp mà thầy cô đưa ra, nhưng lại lúng túng xử  lý và nhận biết ra vấn đề  là gì.  
Chính vì thế  sinh viên khi ra trường thường có nhiều sai lầm trong đạo đức nghề 
nghiệp của mình.

Chương 3
CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP 
CHO SINH VIÊN BÁO CHÍ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG 
NHÀ TRƯỜNG
3.1. Những căn cứ để đề xuất các biện pháp
3.1.1. Căn cứ  vào định hướng lý luận đã giải trình  ở  chương 1, đó là mục đích,  
nhiệm vụ và giả thuyết khoa học của luận án đã xác định.
3.1.2. Căn cứ  khảo sát thực trạng trong 21 bảng biểu số liệu về các mặt và tiêu  
chí đánh giá các mặt tích cực và tồn tại ở chương 2.
3.1.3. Căn cứ vào một số nguyên tắc của khoa học giáo dục.


19
3.2. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp
Biện pháp vận dụng tư tưởng ĐĐ Hồ  Chí Minh vào GD ĐĐNN cho sinh viên 

báo chí cần đảm bảo các nguyên tắc 1) Đảm bảo tính hệ  thống; 2) Đảm bảo tính 
thực tiễn; 3) Đảm bảo tính kế thừa; 4) Đảm bảo tính hiệu quả  và 5) Đảm bảo theo  
quá trình giáo dục các khâu.
3.3. Các biện pháp đề xuất
3.3.1. Thường xuyên nâng cao nhận thức, thái độ, hành vi đạo đức nghề  nghiệp  
cho sinh viên báo chí thông qua các đợt học tập, làm theo tấm gương đạo đức của  
Hồ Chí Minh 
a. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:
Biện pháp này nhằm nâng cao nhận thức hay là khai sáng tri thức đạo đức nghề 
nghiệp cho sinh viên nghề  báo theo tư  tưởng Hồ  Chí Minh là khâu đầu tiên mà nhà 
trường phải quan tâm thực hiện. Các biện pháp học tập, giáo dục theo chuyên đề đạo  
đức của Hồ  Chí Minh đề  giúp cho họ  hiểu biết một cách sâu sắc, rõ ràng những 
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp nhà báo trong tư tưởng của Hồ Chí Minh.
b. Tổ chức thực hiện
Để  thực hiện biện pháp này Đảng  ủy, Ban giám đốc học viện phải có thông 
báo, chỉ thị cho các khoa, phòng ban thực hiện nghiêm túc cuộc vận động của Đảng, 
chính phủ về “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh”.
Phải thực hiện truyền thông bằng con đường chính khóa, tức là thông qua nội 
dung các môn học, trong đó có những môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức học, tiếp 
đó là những môn chuyên ngành, nghiệp vụ.
Xác định mục đích giáo dục: “Học tập và làm theo đạo đức của Hồ Chí Minh” 
cho cán bộ  và sinh viên trong việc tổ chức đi viếng lăng Bác hoặc đi viện bảo tàng, 
nơi ở của Bác. Và đưa mục đích đó vào cả những đợt thực tập, thực tế trong quá trình 
học tập của sinh viên trong các ngày lễ, ngày hội.
c. Điều kiện thực hiện
Phải có sự  thống nhất cao giữa Đảng  ủy, ban giám hiệu nhà trường đến các 
khoa, phòng, ban và giáo viên trong toàn trường. Phải đưa việc thực hiện chủ đề trên  
vào kế hoạch của năm học trong toàn trường, trong các khoa, các trung tâm, bằng các  
hoạt động cụ thể trong nhà trường. tập trung vào dạy và học cùng với các hoạt động  
ngoài nhà trường một cách phong phú, đa dạng, cho sinh viên được tham gia thể 

nghiệm, rèn luyện.
Nhà trường cần tổ chức những hình thức đánh giá lồng ghép vào trong các hoạt 
động trên lớp bằng những câu trắc nghiệm ngắn hoặc những tình huống có thật hay 
giả định trong một số môn học. Đặc biệt là trong nội dung tổng kết, đánh giá đối với 
các hoạt động ngoài giờ lên lớp
3.3.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng Hồ Chí  
Minh bằng các phương pháp lồng ghép, tích hợp dạy học ở trên lớp thông qua các  
môn học cơ bản
a. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp: Biện pháp nhằm khẳng định chức năng và 
nhiệm vụ cơ bản của các môn học lý luận nói chung là xây dựng thế giới quan khoa 
học và nhân sinh quan cách mạng cho người học. Nó được hình thành trên cơ  sở  hệ 


20
thống các tri thức, các nguyên lý và quy luật. Tất cả  các môn học lý luận đều thực  
hiện chức năng phương pháp luận, hình thành niềm tin, đây là yếu tố  then chốt của 
nền đạo đức mới của sinh viên.
b. Cách thức tổ  chức:Lựa chọn các nội dung thích hợp, có liên quan đến đạo 
đức nghề  nghiệp nhà báo; xác định khả  năng lồng ghép của mỗi môn học; tích cực 
lồng ghép, tích hợp các nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí  
vào các nội dung của các một học một cách khéo léo, tinh tế; tạo nên mối quan hệ 
chặt chẽ giữa nhà trường đào tạo báo chí vơi tòa soạn báo, môi trường báo chí, không 
làm mất đi logic của môn học.
c. Điều kiện thực hiện: Giáo viên dạy các môn lý luận phải ý thức được việc 
lồng ghép các môn mình đảm nhiệm khi giảng dạy cho sinh viên báo chí, thông qua 
lấy ví dụ, tình huống gắn với đạo đức nghề nghiệp nhà báo. Làm cho người học hiểu 
được tầm quan trọng của các môn lý luận đối với nghề nghiệp của mình. Từ đó sinh  
viên có ý thức trau dồi bản thân thông qua học các môn lý luận như là một tiền đề, cơ 
sở trang bị kiến thức.
3.3.3. Rèn luyện giáo dục nội dung đạo đức nghề  nghiệp báo chí theo tư  tưởng  

đạo đức Hồ  Chí Minh tập trung vào các chuyên ngành chủ  yếu như  Triết học,  
Đạo đức học, Luật báo chí, Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh,…
a. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp: Giúp cho sinh viên học và làm theo những 
tư  tưởng đạo đức của Người một cách nhanh nhất thông qua các môn học chuyên 
ngành, gắn lý thuyết với thực tiễn nơi các sinh viên làm việc, viết bài. Những kiến 
thức chuyên ngành cung cấp cho sinh viên báo chí những giá trị  nghề  thông qua các  
môn học lý thuyết và thực hành. Các môn học chuyên ngành cung cấp cho người học  
những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, để có thể thực hành và làm việc với nghề.
b. Cách thức tổ  chức: Các môn học chuyên ngành là những nội dung học bắt  
buộc của sinh viên báo chí. Khi học những môn học này sinh viên rất thích thú, vì đó  
là những môn học gắn với kỹ năng nghề nghiệp.
Đưa ra những câu chuyện về  quá trình làm báo của Bác trở  thành các tình 
huống trong giáo dục, để sinh viên xử lý và đưa ra các chính kiến của mình về những  
vấn đề đó.
c. Điều kiện thực hiện: Tài liệu, giáo trình phải được biên soạn đầy đủ, nội 
dung phù hợp với đạo đức nghề báo Việt Nam và những quy tắc làm báo thế giới; Tổ 
chức cách học đa dạng cho sinh viên từ  lý thuyết tới thực hành, cêmina, tình huống, 
tạo ra hứng thú học tập cho sinh viên; Gắn những câu chuyện làm báo của Bác Hồ 
vào trong các tình huống giảng dạy về  luật báo chí và đạo đức nhà báo; Bản thân 
giảng viên và sinh viên phải ý thức được vai trò của các môn học này, từ việc học các 
môn học chuyên ngành sinh viên báo chí phải có ý thức vận dụng và rèn luyện đạo  
đức của bản thân thông qua cách viết bài và xuống thực tế lấy tin bài.
3.3.4. Lựa chọn, biên soạn một số nội dung cơ bản về tư tưởng đạo đức của Hồ  
Chí Minh làm tài liệu giáo dục đạo đức nghề  nghiệp cho sinh viên báo chí trong  
các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
a. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp: Giúp sinh viên báo chí được thấm nhuần 
sâu sắc và rèn luyện thường xuyên những phẩm chất đạo đức cơ  bản và đạo đức  


21

mang tính chất nghề nghiệp theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì sau khi ra trường để hành 
nghề, lập nghiệp không dễ gì bị  những tệ  nạn xã hội dễ  dàng lôi cuốn, không dễ  gì 
bị sức mạnh đồng tiền của nền kinh tế thị trường che mắt, lạc lối đến hủy hoại nhân  
cách.
b. Tổ  chức thực hiện:  Đảng  ủy, ban giám hiệu nhà trường, phòng giáo dục 
chính trị, cần kết hợp với các khoa nói chung, đặc biệt là các khoa lí luận chuyên 
giảng dạy các môn Chủ nghĩa Mác ­ Lênin, chính trị, Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí 
Minh, khoa Báo chí chọn lọc, biên soạn tập tài liệu “ đạo đức ­ đạo đức nghề nghiệp 
báo chí trong tư  tưởng của Hồ Chí Minh” một cách tóm tắt, cô đúc, ngắn gọn dùng 
cho giáo viên, sinh viên tham khảo khi lên lớp hoặc trao đổi, tọa đàm trong các buổi 
sinh hoạt thường xuyên của chi đoàn sinh viên và cán bộ  giảng dạy trẻ. Với các nội  
dung, Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, liêm, cần, kiệm, chính.
c. Điều kiện thực hiện: Để  giúp sinh viên báo chí phát triển được tình cảm 
thiết tha, thái độ  đúng đắn và hành vi cụ  thể  theo những giá trị  đạo đức cốt lõi của  
Hồ  Chí Minh phải thực hiện bằng nhiều con đường, trong đó có con đường học tập 
trên lớp thông qua các môn khoa học cơ bản, môn chuyên ngành, con đường thực tế,  
thực tập, con đường hoạt động ngoài giờ  lên lớp và sinh hoạt đoàn thanh niên đều 
cần thiết.
3.2.5. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua hoạt động thực tế, kiến thực tập,  
trải nghiệp nhằm nâng cao năng lực tự rèn luyện tự giáo dục
a. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:  Giúp cho SV có điều kiện tiếp xúc với 
người thực, việc thực và họ sẽ có điều kiện trải nghiệm cuộc sống. Để  từ  đó họ  có 
thể viết bài đảm bảo tính khách quan, chân thực.
b.Cách thức tổ chức: Khi thực hiện biện pháp này cần tổ chức có kế hoạch cụ 
thể. Trong quá trình học ngoài thời gian kiến và thực tập, cần cho sinh viên tới các tòa  
soạn báo, trao đổi, học hỏi các kỹ năng làm báo.
Nhà trường cần đặt ra những yêu cầu trong quá trình kiến thực tập đó đối với 
sinh viên. Toà soạn cũng phải có những nhiệm vụ cụ thể yêu cầu sinh viên phải thực 
hiện để  tránh tình trạng copy bài, xuất hiện theo kiểu hình thức. Cho nên cần có sự 
phối hợp giữa nhà trường với các cơ sở mà sinh viên xuống thực tế.

c. Điều kiện khi thực hiện:  Để  thời gian kiến thực tập thành công, trước hết  
Ban giám hiệu nhà trường cần có kế  hoạch cụ  thể  giám sát quá trình kiến thực tập 
của sinh viên, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên được học tập và rèn luyện nghề 
nghiệp. Cử  giảng viên, cán bộ  của trường xuống các cơ  sở  đó theo dõi và đánh giá 
quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên.
Có kế  hoạch về  nguồn kinh phí hỗ  trợ  cho sinh viên trong quá trình học tập 
này.
Có kế  hoạch tổ  chức cho sinh viên xuống cơ  sở, thực tế  lấy tin bài phục vụ 
cho hoạt động học tập, cũng như kỹ năng nghề nghiệp mà sinh viên còn thiếu và yếu.
3.3.6. Thông qua các cuộc toạ đàm, trao đổi, hội thảo với các tấm gương nhà báo  
báo điển hình, người thực việc thực tác động trực tiếp vào quá trình hình thành,  
phát triển đạo đức nghề nghiệp báo chí.
a. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:  Mục đích của biện pháp này tạo cơ  hội 


22
cho sinh viên học hỏi và biết được thực tế làm báo có thuận lợi và khó khăn như thế 
nào thông qua quá trình trao đổi, tiếp xúc với các nhà báo điển hình hiện nay. Từ  đó  
giúp cho các em nhận thức sâu sắc hơn tính chất nghề  nghiệp của mình, từ  đó cũng 
cố niềm tin và tình cảm nghề nghiệp cho bản thân.
b. Cách thức tổ chức: Cần giới thiệu cho sinh viên biết hoặc là giao nhiệm vụ 
cho sinh viên tự tìm hiểu về chân dung các nhà báo giỏi trong làng báo. Đưa ra những 
mong muốn của sinh viên về các nhà báo điển hình hiện nay.
Tổ chức cho họ tiếp xúc với các nhà báo giỏi viết về lĩnh vực xã hội tại các tòa 
soạn, hoặc mời họ về nói chuyện.
Mời các nhà báo đến giảng dạy một số  bài trong các môn chuyên ngành như: 
đạo đức nghề báo, kỹ năng làm báo, nói chuyện theo các chủ đề khác nhau mà xã hội  
đang quan tâm, đặc biệt nhấn mạnh đến kỹ năng và đạo đức cho nghề báo hiện nay.
Lựa chọn các điển hình phù hợp với với nội dung và chủ đề học tập theo tiến 
trình lịch sử, cả những nhà báo lão thành và những cây viết trẻ xuất sắc hiện nay.

Cần khách quan, công bằng đúng mực khi nêu gương, không được thổi phồng 
thành tích, hoặc nói quá đến những sai phạm.
c. Điều kiện thực hiện: Ban chủ nhiệm khoa cần có kế hoạch cụ thể, mời ai và  
thời gian nào, chủ đề  nói chuyện là gì. Mục đích của hoạt động này là gì? Thời gian  
tổ  chức có thể  tổ  chức gặp tại trường, lớp học nơi diễn ra các hoạt động học tập 
hoặc tổ chức cho sinh viên đến các toà soạn báo để gặp một cách trực tiếp
Ban giám hiệu cần có sự đồng tình và hỗ trợ về nguồn kinh phí để mời các nhà  
báo điển hình đến nói chuyện, giảng dạy. Hoặc tổ  chức cho sinh viên đến toà soạn 
để gặp các nhà báo đó.
3.2.7. Đầu tư  cơ  sở  vật chất, trang thiết bị, kinh phí để  tổ  chức các hoạt động  
ngoài giờ lên lớp phong phú có ý nghĩa giáo dục đạo đức nghề nghiệp
a. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:  Biện pháp này nhằm tổ  chức các hoạt 
động phong phú, hấp dẫn lôi cuốn sinh viên báo chí tham gia tích cực. Biến quá trình 
giáo dục, rèn luyện thành tự giáo dục, tự rèn luyện, phát huy khả năng chủ động, sáng  
tạo và tích cực góp phần hình thành các phẩm chất đạo đức nghề  nghiệp cho sinh  
viên báo chí.
b. Cách thức tổ chức: ­ Ngoài cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động dạy học 
thì công cụ lao động chính, quan trọng nhất của hoạt động dạy học, giáo dục ở  trên 
lớp là micro giảng bài của giáo viên phải đảm bảo âm thanh rõ ràng, trong trẻo, không 
thường xuyên xảy ra tình trạng hỏng hóc, hết pin gây ra nhiều buồn bực cho giáo viên 
khi lên lớp,…
  ­ Nhà trường nói chung, khoa Báo chí nói riêng cần tích cực thực hiện chủ 
trương xã hội hóa giáo dục bằng các biện pháp linh hoạt, phù hợp, huy động nguồn  
lực tự nguyện của các doanh nhân, doanh nghiệp có con em dang học tập ở khoa Báo 
chí xây dựng bổ sung, đổi mới các phương tiện kỹ thuật thông tin, dạy học cần thiết  
đối với khoa Báo chí.
­ Tổ  chức kết nghĩa, giao lưu với các lớp nhà báo đàn anh đã ra trường đang 
công tác  ở  các tòa soạn tài trợ  kinh tế, tài chính hoặc các phương tiện nhằm tăng 
cường các đợt thực tế lấy tin, viết bài theo các chủ điểm cần thiết có ý nghĩa thời sự.



×