Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Một số đặc tính của các chủng Acinetobacter baumannii gây nhiễm khuẩn bệnh viện mang gen NDM-1 kháng carbapenem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.47 MB, 87 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bản
g

Tên Bảng

Trang

1.1

Phân loại một số nhiễm khuẩn bệnh viện

7

1.2

Sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn

12

1.3

Một số đặc tính của các enzym ly giải carbapenem của các 
chủng vi khuẩn Gram âm

21


2.1

Trình tự mồi để phát hiện gen NDM­1 của vi khuẩn

38

2.2
3.1
3.2

2

Các trình tự mồi sử dụng trong kỹ thuật MLST đối với chủng A. 
baumannii
Nồng độ kháng sinh tối thiểu ức chế vi khuẩn (MIC) của 23 
chủng vi khuẩn A. baumannii mang gen NDM­1 phân lập trong 
nghiên cứu
Phân tích kết quả MLST các chủng A. baumannii

40
53
61


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình

Tên Hình

Trang


1.1

Sơ đồ nhiễm khuẩn bệnh viện
Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập 
cao
Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập 
thấp và trung bình
Cơ chế kháng kháng sinh của các vi khuẩn Gram âm

6

1.2
1.3
1.4
1.5
1.6
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
3.9
3.10
3.11
3.12
3.13


3

Cấu trúc phân tử của carbapenem
Sự phân bố và cách thức di truyền của các kiểu gen OXA trong 
A. baumannii
Tỷ lệ phân bố vi khuẩn A. baumannii kháng carbapenem tại 3 
bệnh viện theo năm (n=582)
Tỷ lệ phân bố của các chủng vi khuẩn A. baumannii kháng 
carbapenem 3 bệnh viện theo giới (n=582)
Phân bố theo giới của các chủng A. baumannii kháng carbapenem 
trong từng bệnh viện (n=582)
Hình ảnh đại diện cho các chủng vi khuẩn A. baumannii mang 
gen NDM­1 trong nghiên cứu
Tỷ lệ vi khuẩn A. baumannii mang gen NDM­1 kháng 
carbapenem trong nghiên cứu (n=23)
Tỷ lệ phân bố A. baumannii mang gen NDM­1 ở 3 bệnh viện 
(n=23)
Tỷ lệ phân bố vi khuẩn A. baumannii mang gen NDM­1 theo 
khoa ở 3 bệnh viện (n=23)
Tỷ lệ phân lập các chủng A. baumannii mang gen NDM­1 theo 
độ tuổi (n=23)
Tỷ lệ các chủng A. baumannii mang gen NDM­1 theo giới (n=23) 
Hình ảnh đại diện cho kiểu gen PFGE của một số chủng A. 
baumannii  mang gen NDM­1 kháng carbapenem trong nghiên 
cứu
Cây phân loại kiểu gen PFGE của các chủng A. baumannii mang 
gen NDM­1 kháng carbapenem
Kết quả đại diện phát hiện plasmid mang gen NDM­1 trên một 
số chủng vi khuẩn A. baumannii phân lập tại 3 bệnh viện

Hình ảnh đại diện cho PCR – MLST chủng A. baumannii

8
9
14
19
30
45
46
46
48
48
49
50
51
52
55
56
58
60


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký 
hiệu

Viết đầy đủ tiếng anh

Viết giải nghĩa tiếng 

việt

DNA

Deoxyribonucleic  Acid

Phân tử axit nucleic

bp

Base pair

Đơn vị đo trọng lượng 
của phân tử DNA

CDC

Centers for Disease Control and Prevention

Trung tâm kiểm soát và 
phòng ngừa bệnh dịch

ESBL

Extended­spectrum beta­lactamases

Enzym kháng kháng sinh 
phổ rộng beta lactam

GARP


Global Antibiotic Resistance Partnership

Hiệp hội kháng kháng 
sinh toàn cầu

MBLs

Metallo­beta­lactamase

Enzym kháng kháng sinh 
nhóm beta lactam

MLST

Multilocus Sequence Typing

Phân loại dựa trên đa 
điểm của trình tự gen

NDM­1

New Delhi Metallo­beta­lactamase­1

New Delhi Metallo­beta­
lactamase­1 kháng 
carbapenem

PCR


Polymerase chain reaction

Chuỗi phản ứng trùng 
hợp

PFGE

Pulsed­field gel electrophoresis

Điện di xung trường

WHO

World Health Orgnization

Tổ chức Y tế Thế giới

4


MỞ ĐẦU

Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) hiện nay đang là một thách thức lớn đối  
với các bệnh viện trong việc  điều trị  bởi tỷ  lệ  nhiễm khuẩn ngày càng cao.  
NKBV là một trong những nguyên nhân hàng đầu đe dọa đến tính mạng người 
bệnh, là  nguyên nhân chính gây ra tỷ lệ mắc, tử vong cao cho các bệnh nhân tại 
các bệnh viện trên thế giới [76]. NKBV thường gây nên bởi các vi khuẩn kháng 
đa kháng sinh, gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều trị, kéo dài thời gian mắc  
bệnh, tăng biến chứng, tăng sự  kháng thuốc của vi sinh vật qua đó tăng mức sử 
dụng kháng sinh, tăng chi phí dùng thuốc và là gánh nặng bệnh tật cho cả người  

bệnh và hệ thống y tế. Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới tại 55 bệnh viện  
ở 14 nước trên thế giới đại diện cho các khu vực và đưa ra được tỷ  lệ NKBV là 
8,7%. Ước tính ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 1,4 triệu người bệnh trên thế 
giới mắc NKBV [68]. Hàng năm thế  giới có khoảng 2 triệu người mắc NKBV  
với 90.000 người tử vong, chi phí chăm sóc cho bệnh nhân tăng khoảng 4,5 tỉ đô­
la [73]. Đây là một vấn đề  y tế nghiêm trọng mang tính toàn cầu đang được các 
quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam quan tâm một cách đặc biệt.
Hiện nay Acinetobacter baumannii (A. baumannii) là một trong những tác 
nhân gây bệnh quan trọng hàng đầu tác động đến các cơ sở điều trị trên thế giới.  
Tuy nhiên sự  gia tăng nhanh chóng của các chủng vi khuẩn A. baumannii kháng 
lại   các   kháng   sinh   thuộc   nhóm   β­lactam,   bao   gồm   cả   các   kháng   sinh   nhóm 
carbapenem thuộc “nhóm lựa chọn cuối cùng”. Đặc biệt là sự  xuất hiện của các  
chủng  Acinetobacter  mang   gen   New   Delhi   Metallo­beta­lactamase­1   (NDM­1) 
kháng carbapenem được ghi nhận  ở  một số quốc gia như  Đức và Vương quốc 
Anh [64]. Điều này sẽ  dẫn đến nhiều hậu quả  nghiêm trọng như: không còn 
kháng sinh để điều trị, tăng nguy cơ thất bại trong điều trị, giá thành cao, kéo dài 
thời gian điều trị  và bệnh nhân có nguy cơ  tử  vong cao khi mắc các chủng   A. 

5


baumannii kháng kháng sinh này [1]. Trong nghiên cứu gần đây của chúng tôi tại 
một số bệnh viện ở Hà Nội, A. baumannii chiếm 53,33% (320/600) trong tổng số 
chủng   vi   khuẩn   gram   âm   gây   NKBV   và   hơn   95%   số   chủng   kháng   lại  
cephalosporin   thế   hệ   3,   với   ít   nhất   1   kháng   sinh   nhóm   carbapenem.   Câu   hỏi 
nghiên cứu được đặt ra là liệu các chủng A. baumannii kháng carbapenem phân 
lập tại các bệnh viện có mang gen NDM­1 hay không? Do vậynghiên cứu này  
được tiến hành nhằm phát hiện vi khuẩn  A. baumannii kháng carbapenem mang 
gen NDM­1, đồng thời xác đinh một số đặc tính sinh học phân tử  của các chủng 
A. baumannii mang gen NDM­1  ở Việt Nam là hết sức cần thiết để từ đó đưa ra 

các biện pháp phù hợp phòng chống sự  lây lan và đề  xuất phác đồ  điều trị  phù 
hợp cho bệnh nhân bị  mắc các chủng  A. baumannii  mang gen NDM­1 tại Việt 
Nam. Chính sự cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài  
nghiên cứu: “Một số  đặc tính của các chủng  Acinetobacter baumannii  gây 
nhiễm khuẩn bệnh viện mang gen NDM­1 kháng carbapenem” với mục tiêu:
Mục tiêu chung:
Mô tả  thực trạng kháng kháng sinh và một số đặc điểm sinh học phân tử 
của các chủng vi khuẩnA. baumannii  kháng carbapenem tại  3  bệnh viện  ở  Hà 
Nội bao gồm bệnh viện Việt Đức, Thanh Nhàn, Xanh Pôn. 
Mục tiêu cụ thể:
1.  Mô   tả   thực   trạng   kháng   kháng   sinh   của   các   chủng  A.   baumannii  kháng 
carbapenem phân lập tại 3 bệnh viện Việt Đức, Thanh Nhàn, Xanh Pôn.
2. Phát hiện tỷ lệ vi khuẩn A. baumannii mang gen NDM­1 phân lập được trong 
nghiên cứu.
3. Xác định một số đặc tính sinh học phân tử  của vi khuẩn    A. baumannii mang 
gen NDM­1

6


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1.

Nhiễm khuẩn bệnh viện
Theo Tổ  chức Y tế  Thế  giới, nhiễm khuẩn bệnh viện (hospital­acquired  

infection hay nosocomial infection) là “những nhiễm khuẩn người bệnh mắc phải 
trong thời gian điều trị tại bệnh viện mà thời điểm nhập viện không thấy có yếu 
tố  nhiễm khuẩn hay ủ bệnh nào. Nhiễm khuẩn bệnh viện thường xuất hiện sau 

48 giờ kể từ khi người bệnh nhập viện”.

Hình 1.1. Sơ đồ nhiễm 
khuẩn bệnh viện

Để  chẩn  đoán  nhiễm khuẩn bệnh viện, người ta thường dựa vào định 
nghĩa   và   tiêu   chuẩn   chẩn   đoán   cho   từng   vị   trí  nhiễm   khuẩn   bệnh   viện.   Ví 
dụ: nhiễm khuẩn  vết mổ  sau phẫu thuật,   nhiễm khuẩn  máu có liên quan đến 
dụng cụ  đặt trong lòng mạch,  nhiễm khuẩn  đường tiết niệu... Hiện nay, theo 
hướng dẫn từ Trung tâm Giám sát và Phòng bệnh Hoa Kỳ (CDC) và các hội nghị 
quốc tế đã mở rộng định nghĩa ca bệnh cho các vị  trí nhiễm khuẩn khác nhau và 
đang được áp dụng để giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện trên toàn cầu. Dựa trên 
các tiêu chuẩn lâm sàng và sinh học, các nhà khoa học đã xác định có khoảng 50  
loại nhiễm khuẩn bệnh viện khác nhau có thể xảy ra tại bệnh viện.

7


Bảng 1.1. Phân loại một số nhiễm khuẩn bệnh viện [76]
Loại nhiễm khuẩn
Nhiễm khuẩn vết mổ
Nhiễm khuẩn tiết niệu

Nhiễm khuẩn đường hô 
hấp

Tiêu chuẩn
Có dịch chảy ra từ vết mổ, abcess hoặc viêm mô 
lan tỏa tại vết mổ  trong tháng đầu tiên sau khi  
phẫu thuật

Nuôi cấy dương tính (1 hoặc 2 vi khuẩn) với 
nồng độ  >105vk/ml, có hoặc không có các triệu 
chứng lâm sàng
Có tối thiểu 2 triệu chứng viêm nhiễm đường  
hô hấp xuất hiện trong thời gian nhập viện:
Ho
Có đờm mủ
Có hình ảnh viêm phổi trên phim X­quang

Nhiễm khuẩn khi đặt 
catheter

Có biểu hiện viêm, nổi hạch hoặc có mủ  chảy 
ra từ vị trí đặt catheter

Nhiễm khuẩn huyết

Sốt hoặc rét và kết quả cấy máu dương tính với 
ít nhất một tác nhân gây bệnh

Hiện nay nhiễm khuẩn bệnh viện là một vấn đề  nghiêm trọng tác động 
đến sức khoẻ toàn cầu. Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới về nhiễm khuẩn  
bệnh viện từ  năm 1995 đến 2010 cho thấy: Tỷ  lệ  nhiễm khuẩn bệnh viện tính 
chung cho các quốc gia có thu nhập cao nằm trong khoảng từ 5% đến 12% (Hình  
1.2) và tỷ  lệ chung cho tất cả các quốc gia này vào khoảng 7,6% [77]. Theo  ước 
tính của trung tâm phòng chống và kiểm soát bệnh châu Âu, hàng năm có khoảng 
4.100.000 bệnh nhân bị nhiễm khuẩn bệnh viện và khoảng 37.000 trường hợp tử 
vong. Phần lớn các trường hợp là nhiễm khuẩn tiết niệu tiếp theo là nhiễm 
khuẩn đường hô hấp, nhiễm khuẩn sau khi phẫu thuật, nhiễm khuẩn huyết và 
một số nhiễm khuẩn khác (bao gồm tiêu chảy do  Clostridium difficile). S. aureus 

kháng đa kháng sinh cũng chiếm khoảng 5% các trường hợp nhiễm khuẩn bệnh  
viện tại liên minh châu Âu [24]. Tại Mỹ năm 2002, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện 

8


vào khoảng 4,5% tương đương với khoảng 1,7 triệu bệnh nhân bị  mắc nhiễm  
khuẩn. Nhiễm khuẩn đường tiết niệu chiếm tỷ  lệ  cao nhất (36%) tiếp theo là 
nhiễm khuẩn vết mổ (20%), nhiễm trùng huyết và viêm phổi (11%) [37].

Hình 1.2. Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập 
cao *(nguồn WHO, 2011, Report on the Burden of Endemic Health Care­
Associated Infection Worldwide) [77]
Tỷ  lệ  nhiễm khuẩn bệnh viện  ở  các quốc gia có thu nhập trung bình và 
thấp dao động từ  5,7% đến 19,9% và tỷ  lệ  tính chung là khoảng 10,1/100 bệnh  
nhân   (Hình   1.3)   [77].   Trong   đó   nhiễm   khuẩn   vết   mổ   chiếm   tỷ   lệ   cao   nhất  
(29,1%), nhiễm khuẩn tiết niệu (23,9%), nhiễm khuẩn huyết (19,1%), đường hô 
hấp (14,8%) và các nhiễm khuẩn khác là 13,1% [77].

9


Hình 1.3. Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập 
thấp và trung bình *(nguồn WHO, 2011, Report on the Burden of Endemic 
Health Care­Associated Infection Worldwide) [77]
Có rất nhiều tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện và sự tác động của các 
tác nhân này cũng rất khác nhau giữa các nhóm bệnh nhân, các bệnh viện, khoa  
điều trị  và giữa các quốc gia bao gồm: vi rút như  viêm gan B, C (lây qua đường 
tiêm truyền, chạy thận nhân tạo và phẫu thuật nội soi). Vi rút rota và các vi rút 
đường ruột (lây truyền qua đường phân­miệng) [8, 77]. Một số loại ký sinh trùng 

như  Giardia   lamblia  và   nhiều   loại   nấm  Candida   albicans,   Aspergillus   spp.,  
Cryptococcus neoformans  và  Cryptosporidium  gây nhiễm trùng cơ  hội cho các 
bệnh nhân sau khi điều trị kháng sinh dài ngày và trên các bệnh nhân bị suy giảm 
miễn dịch và có thể lây truyền dễ dàng trong bệnh viện [ 76]. Hiện nay vi khuẩn 
là một trong căn nguyên quan trọng hàng đầu gây nhiễm khuẩn bệnh viện bao  
gồm như  C. perfringen  là nguyên nhân gây bệnh hoại thư  sinh hơi trong bệnh  
viện [76]. Vi khuẩn Gram dương điển hình là S. aureus (sống ký sinh trên da và 
mũi) là nguyên nhân gây nhiều loại nhiễm khuẩn trong bệnh viện như viêm phổi, 
xương, tim và nhiễm khuẩn huyết [76]. Đặc biệt trong 10 năm vừa qua các vi 
khuẩn   Gram   âm   như  Escherichia   coli  (E.   coli),  Klebsiella   pneumoniae  (K. 

10


pneumoniae), Pseudomonas aeruginosa (P. aeruginosa) và Acinetobacter baumanii 
(A. baumannii) là nguyên nhân quan trọng gây nhiễm khuẩn nặng trong các bệnh 
viện như nhiễm khuẩn vết mổ, viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết, đặc biệt khi các 
vi khuẩn này đã kháng lại các nhóm kháng sinh thế  thệ  mới đắt tiền được sử 
dụng để  điều trị  nhiễm khuẩn bệnh viện như  cephalosporin và carbapenem là 
kháng sinh mạnh nhất hiện nay gia tăng một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.  
Điều này đe doạ thực sự đến hiệu quả điều trị cho bệnh nhân tại các bệnh viện  
trên toàn thế giới [39, 54, 60, 79].

1.2.

Kháng sinh và sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
Kháng sinh được phát hiện ở thế kỷ 20 và lập tức đóng vai trò quan trọng  

trong việc khống chế các bệnh nhiễm trùng. Cùng với việc cải thiện điều kiện  
vệ  sinh, nhà  ở, dinh dưỡng và chương trình tiêm chủng mở  rộng đã góp phần 

quan trọng làm giảm tỷ lệ tử vong của các bệnh nhiễm trùng và tuổi thọ của con  
người đã được nâng cao. Cho đến nay nhiều thế  hệ  kháng sinh khác nhau đã  
được nghiên cứu và chế  tạo thành công đáp  ứng kịp thời cho công tác điều trị.  
Tuy nhiên hiện nay do sự gia tăng tỷ lệ các vi khuẩn kháng kháng sinh trong bệnh 
viện và cộng đồng là một vấn đề  quan trọng hàng đầu trên thế  giới cần được  
nghiên cứu và tìm ra các giải pháp phòng chống một cách hiệu quả. 

1.2.1. Lịch sử phát triển kháng sinh

Năm 1929 Alexander Fleming là người đầu tiên nghiên cứu và phát minh ra  

loại thuốc kháng sinh đầu tiên có tên là Penicillin, trong nghiên cứu tác giả  quan 
sát thấy ở  trên các đĩa thạch bị nhiễm nấm penicillin (mold Penicillium notatum) 
có khả năng ức chế sự phát triển của tụ cầu, ở trên các đĩa thạch này xuất hiện  
một vòng vô khuẩn xung quanh khóm nấm do tụ  cầu không có khả  năng mọc 
xung quanh khóm nấm. Sau đó tác giả tiến hành nhiều thử nghiệm và thấy rằng 
các huyền dịch nuôi cấy nấm này có khả  năng  ức chế  sự  phát triển của tụ  cầu 
ngay cả khi pha loãng huyền dịch nấm nuôi cấy tới 800 lần, hoạt chất này được 

11


đặt tên là penicillin [62]. Tuy nhiên phải đến năm 1939, Ernst Chain và Howard 
Florey mới tách chiết thành công hoạt chất penicillin và được sử dụng để điều trị 
các bệnh nhiễm khuẩn trong chiến tranh thế giới lần thứ II. Năm 1946, penicillin  
bắt đầu được sử  dụng trong lâm sàng và có đóng góp to lớn cho y học. Những  
phát minh này đã tạo ra một cuộc cách mạng khoa học trong nền y học hiện đại 
và làm tiền đề nghiên cứu và phát triển nhiều hợp chất kháng sinh có nguồn gốc  
từ thiên nhiên [62]. 
Bác sỹ người Đức Gerhard Domagk đã công bố phát minh tổng hợp được 

hoạt chất kháng sinh mới prontosil. Đây là thế  hệ  đầu tiên của các kháng sinh 
thuộc   dòng  sulfonamides   được   sử   dụng   trong   lâm  sàng  để   điều  trị   các   bệnh  
nhiễm trùng đường tiết niệu hô hấp và một số bệnh nhiễm trùng khác. Với phát 
minh này Gerhard Domagk được nhận giải thưởng Nobel năm 1939 [62].
Thập kỷ  50 đến 70 của thế  kỷ  20  được coi là thời kỳ  hoàng kim của 
kháng sinh, nhiều loại kháng sinh mới đã được giới thiệu bao gồm: streptomycin,  
chloramphenicol và tetracycline được sử dụng điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi 
khuẩn. Các loại thuốc khác như  para aminosalisylic acid và isoniazid cũng được 
nghiên cứu, sản xuất thành công và sử  dụng rộng rãi để  điều trị  bệnh lao [ 19, 
62]. Cho đến nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều nhóm và các thế 
hệ   kháng   sinh   khác   nhau   như  cephalosporin,   fluoroquinolone,   macrolide   và 
carbapenem đã  được nghiên cứu và sản xuất thành công, góp phần to lớn cho 
công tác phòng và điều trị các bệnh nhiễm trùng.

1.2.2. Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
1.2.2.1. Sự phát triển đặc tính kháng kháng sinh của vi khuẩn

Trong tự  nhiên phần lớn các vi khuẩn đều sở  hữu riêng các gen kháng  

kháng sinh. Điều này được quan sát thấy trên một số chủng  Staphylococcus đã đề 
kháng với penicillin ngay sau khi được đưa vào sử  dụng năm 1946. Dưới áp lực 
chọn lọc tự nhiên và sự đấu tranh sinh tồn đã giúp các loài vi khuẩn có khả năng 

12


chống lại tác dụng của kháng sinh, do vậy sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn  
thường xuất hiện rất nhanh ngay sau khi kháng sinh được đưa vào sử dụng, ví dụ 
streptomycin được đưa vào sử  dụng năm 1943 đến năm 1959 vi khuẩn đã lại 
kháng kháng sinh này (Bảng 1.2). Tương tự các chủng Shigella dysenteriae phân 

lập  tại  vụ   dịch  lỵ   ở   Nhật  Bản  năm  1953  đã   kháng  đa   kháng  sinh  bao  gồm:  
chloramphenicol, tetracyclin, streptomycin và sulfonamide. Hiện nay hầu hết các 
vi khuẩn gây bệnh đã kháng lại một hoặc nhiều loại kháng sinh [71]. 
Bảng 1.2. Sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn [71]
Năm phát hiện

Kháng sinh

Năm sử dụng

Sulfonamid

1930

1940

Penicillin

1943

1946

Streptomycin

1943

1959

Chloramphenicol


1947

1959

Tetracyclin

1948

1953

Erythromycin

1952

1988

Vancomycin

1956

1988

Methicillin

1960

1961

Ampicillin


1961

1973

Cephalosporin

1960

1960

đề kháng kháng sinh

Trong thời gian gần đây, khoảng 70% các chủng vi khuẩn gây bệnh trong 
bệnh viện đã kháng lại ít nhất 1 loại kháng sinh thường dùng trong điều trị, đặc  
biệt một số vi khuẩn như  E. coli, K. pneumoniae, P. aeruginosa và A. baumannii 
đã kháng lại tất cả  các loại kháng sinh bao gồm cả  các kháng sinh mạnh nhất  

13


hiện nay như cephalosporin và carbapenem. Đây là một mối lo ngại và thách thức 
lớn đối với nền y học hiện đại [9, 39, 50, 79]. 

1.2.2.2. Phân loại đề kháng

Về nguyên lý của kháng sinh là ức chế sự phát triển của vi khuẩn, nhưng  

nếu trong môi trường kháng sinh  ở  nồng độ  thường dùng mà vi khuẩn vẫn phát 
triển được gọi là đề kháng [4]. Đề kháng được chia làm hai loại đề kháng giả và 
đề kháng thật.

Đề  kháng giả:  là hiện tượng có biểu hiện  đề  kháng nhưng bản chất 
không phải do di truyền. Ví dụ  khi vi khuẩn nằm trong  ổ áp xe hoặc nằm trong  
các tổ  chức hoại tử  bao bọc, kháng sinh không thấm được tới  ổ  viêm chứa vi  
khuẩn nên không phát huy được hết tác dụng. Khi vi khuẩn  ở  trạng thái nghỉ 
(không nhân lên, không chuyển hóa) thì sẽ không chịu tác dụng của thuốc kháng 
sinh  ức chế  quá trình tổng hợp vách. Thêm vào đó,  ở  một số  bệnh nhân bị  suy  
giảm hệ thống miễn dịch hay chức năng của thực bào bị  hạn chế, khi đó cơ  thể 
không đủ  khả  năng loại trừ  những vi khuẩn đã bị  ức chế  ra khỏi cơ  thể, vì thế 
khi không còn thuốc kháng sinh vi khuẩn sẽ phục hồi và phát triển trở lại [4].
Đề kháng thật bao gồm đề kháng tự nhiên và đề kháng thu được
+ Đề kháng tự nhiên: Là do cấu trúc di truyền của một số loài vi khuẩn, 
ví dụ một số loài vi khuẩn không có hệ thống vận chuyển kháng sinh hoặc không  
có đích tác động của kháng sinh như  Mycoplasma thuộc loại vi khuẩn không có 
vách sẽ không chịu tác động của kháng sinh tổng hợp vách, như   ­lactam. Ở một 
số  các vi khuẩn Gram âm, tế  bào vi khuẩn được bao bọc bởi một lớp vỏ  bên  
ngoài sẽ ngăn không cho kháng sinh xâm nhập vào bên trong tế bào [4].
+ Đề kháng thu được: Có rất nhiều cơ chế đã được vi khuẩn phát triển 
để  kháng lại kháng sinh. Các đề  kháng thu được này liên quan đến sự  thay đổi 
nhiễm sắc thể  của vi khuẩn đó hoặc do được truyền các gen kháng kháng sinh  

14


nằm trên các plasmid và class I intergron cho vi khuẩn cùng và khác loài thông qua 
hình thức biến nạp và tiếp hợp [4].

1.2.3. Cơ chế kháng kháng sinh của vi khuẩn

Có  rất  nhiều cơ  chế  tham  gia  vào  tình  trạng kháng kháng  sinh  của  vi 


khuẩn. Những cơ chế này có thể thay đổi đích tác động, tạo ra các enzym, ngăn  
cản khả năng gắn vào tế bào vi khuẩn và làm thay đổi đường chuyển hóa (tạo ra 
các isoenzym).

Bơm thoát dòng

Enzym phá hủy
kháng sinh
Kháng sinh

Kháng sinh
Gen đề kháng
kháng sinh
Kháng sinh

Enzym biến đổi
kháng sinh

Hình 1.4. Cơ chế kháng kháng sinh của các vi khuẩn Gram âm [22]

1.2.3.1.

Thay đổi đích tác động
Vi khuẩn thay đổi đích tác động của kháng sinh do đó kháng sinh không  

còn vị  trí để  tác động, ví dụ: A. baumannii kháng lại imipenem và P. aeruginosa 
kháng ticarcilline và imipenem do chúng thay đổi vị  trí gắn vào protein của các  

15



kháng sinh [55]. Cơ  chế  tác động của các kháng sinh nhóm quinolone là  ức chế 
hoạt động của đoạn gen mã hóa quá trình tổng hợp enzym GyrA(DNA gyrase 
subunit A) và ParC (topoisomerase IV) của tế  bào vi khuẩn. Ví dụ  tính kháng 
quinolone của S. typhi xảy ra do đột biến điểm của các đoạn gen mã hóa quá trình 
tổng hợp enzym GyrA và ParC trên nhiễm sắc thể của vi khuẩn [15, 70].

1.2.3.2. Tạo ra các enzym

Enzym được tạo ra làm biến đổi hoặc phá hủy cấu trúc phân tử của kháng 

sinh.Ví dụ với các enzym beta­lactamase có khả năng phá hủy penicillin được báo 
cáo trước khi được đưa vào sử  dụng vào đầu những năm 1940.Sau đó hàng loạt 
các enzym beta­lactamase có khả  năng  ức chế  hoặc phân hủy các kháng sinh  
mạnh như  cephalosporin và carbapenem được phát hiện. Hiện nay đã xác định 
được hơn 890 loại enzym kháng kháng sinh của vi khuẩn, nhiều hơn số  lượng  
các loại kháng sinh đã được sản xuất và phần lớn các gen mã hóa các enzym này  
nằm trên các plasmid có thể  truyền dễ  dàng trong quần thể  vi khuẩn cùng và 
khác loài [17, 54].

1.2.3.3. Giảm tính thấm của màng nguyên sinh chất

Làm giảm mức độ  thấm của kháng sinh qua thành tế  bào vi khuẩn trong 

trường hợp kháng tetracycline hoặc làm mất hệ  thống vận chuyển qua màng 
trong trường hợp kháng kháng sinh nhóm aminoglycosid [54]. Việc thâm nhập 
của các kháng sinh nhóm beta­lactam được thực hiện qua các kênh vận chuyển 
(porin), vi khuẩn biến đổi làm mất các kênh vận chuyển và làm hạn chế  sự  tác 
động của nhóm kháng sinh này [54]. Cơ  chế  bơm đẩy (efflux pump) của các 
kháng sinh nhóm quinolon của vi khuẩn E. coli và P. aeruginosa, thường liên quan 

đến hệ thống vận chuyển ion qua màng tế bào [54].

1.2.4. Các yếu tố nguy cơ gây kháng kháng sinh
1.2.4.1. Lạm dụng sử dụng kháng sinh trong cộng đồng
Ở  hầu hết các quốc gia đang phát triển kháng sinh có thể  mua mà không 
cần đơn thuốc, các loại kháng sinh sẵn có  ở  khắp nơi từ  các bệnh viện, hiệu 
thuốc, cửa hiệu, thậm chí người bán hàng rong. Nghiên cứu ở khu vực nông thôn 

16


của Bangladesh cho thấy chỉ có 8% số lượng kháng sinh được bán hàng tháng tại 
các hiệu thuốc là mua theo đơn thuốc của bác sỹ. 
Thiếu kiến thức về  sử  dụng kháng sinh của người dân như  quên không 
uống thuốc, dừng kháng sinh khi thể trạng cảm thấy tốt hơn hoặc khi không có 
khả năng chi trả cho một đợt điều trị đầy đủ trước khi vi khuẩn bị tiêu diệt hoàn  
toàn [7]. Nhiều người dân tin rằng kháng sinh có thể  chữa được các bệnh như 
nhức đầu, bệnh cúm hay để  phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình  
dục và kháng sinh tiêm có tác dụng mạnh hơn thuốc viên [6, 7]. 
Ngoài ra, các nhân viên bán thuốc do không được đào tạo đầy đủ  và cập  
nhật kiến thức thường xuyên về  kháng sinh lại thường tư  vấn cho khách hàng 
khi mua thuốc kháng sinh, thậm chí còn khuyến khích mua kháng sinh khi họ 
không bị ốm [23, 33, 35]. 

1.2.4.2. Sử dụng kháng sinh trong bệnh viện
Hiện nay phương thức sử dụng kháng sinh được chia làm 3 phác đồ  điều  
trị: (1) để  phòng chống nhiễm khuẩn: kháng sinh thường được sử  dụng trước, 
trong hoặc sau khi phẫu thuật; (2) theo kinh nghiệm: sử dụng kháng sinh trước  
khi biết căn nguyên nhiễm khuẩn; và (3) phương thức chọn lọc: sử dụng kháng 
sinh khi biết căn nguyên gây nhiễm khuẩn. Các nghiên cứu cho thấy nếu các 

bệnh viện thực hiện tốt công tác giám sát tình trạng sử dụng kháng sinh của phác 
đồ 1 và 2 sẽ làm giảm áp lực chọn lọc cho vi khuẩn kháng lại kháng sinh trong  
các bệnh viện. Ngoài ra, bệnh nhân điều trị  dài ngày trong bệnh viện có sức đề 
kháng yếu, thường sử  dụng kháng sinh kéo dài và dễ  bị  nhiễm khuẩn chéo với  
các chủng vi khuẩn kháng đa kháng sinh trong các bệnh viện. 
Nhiễm khuẩn bệnh viện là yếu tố  quan trọng liên quan đến tính kháng 
kháng sinh của vi khuẩn trên thế  giới. Việc phòng chống nhiễm khuẩn bệnh  
viện gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém đặc biệt là các quốc gia đang phát  
triển.Ví dụ  tại Việt Nam, phần lớn các bệnh viện có cơ  sở  hạ  tầng cũ và tình  
trạng quá tải.Công suất sử  dụng giường vượt quá 100%. Hơn nữa người nhà 

17


bệnh nhân  ở  lại viện để  chăm sóc người bệnh dẫn đến tình trạng quá tải càng 
nghiêm trọng [30]. Ngay cả  việc không tuân thủ  các quy định thực hiện chống  
nhiễm khuẩn trong bệnh viện, đơn giản như  rửa tay và thay găng trước và sau  
khi thăm khám cho bệnh nhân của các nhân viên y tế, đây là nguyên nhân chủ yếu 
gây nhiễm khuẩn tại hầu hết các bệnh viện trên thế giới và tạo điều kiện thuận  
lợi cho sự lây lan của các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh không chỉ trong bệnh 
viện mà còn có nguy cơ lây lan ra ngoài cộng đồng [61]. Việc quản lý chất thải 
bệnh viện cũng là vấn đề  đáng lưu ý, một số  nghiên cứu được tiến hành ở  các 
bệnh viện tại Việt nam cho thấy: nước thải của bệnh viện không qua xử  lý 
được thải trực tiếp ra cống sinh hoạt, đồng ruộng và sông ngòi. Thiếu nước cho  
công tác vệ sinh và rác thải sinh hoạt được thải ra ở gần nguồn nước, điều này 
sẽ làm tăng nguy cơ lây lan các tác nhân gây bệnh trong đó có các vi khuẩn kháng 
kháng sinh ra ngoài cộng đồng [30]. 

1.2.4.3. Sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi
Việc sử  dụng kháng sinh trong chăn nuôi tác động vào tình trạng kháng 

kháng sinh của vi khuẩn. Tại Bắc Mỹ và châu Âu, khoảng 50% lượng kháng sinh 
sản xuất ra được sử dụng trong thức ăn cho gia súc và gia cầm. Phần lớn lượng 
kháng sinh này được sử  dụng như  là hoạt chất phụ  trợ  trong thức ăn để  phòng 
bệnh và tăng trọng bất chấp tình trạng sức khỏe của gia súc và gia cầm sẽ  làm 
tăng tình trạng kháng kháng sinh của các vi khuẩn như  Salmonella, E. coli…và 
thông qua thực phẩm sẽ gây bệnh trên người. Tại Đan Mạch, năm 1994 trong khi  
chỉ  có 24kg vancomycin được sử  dụng trên người thì có tới 24.000kg apoparcin 
(biệt dược của vancomycin) được sử dụng cho chăn nuôi. Vancomycin được cho  
là nguyên nhân tạo ra các chủng Enterococcus faecium kháng vancomycin và các 
chủng vi khuẩn này được phát hiện trên người do ăn phải các sản phẩm thịt bị ô  
nhiễm. Khi apoparcin bị cấm sử dụng tại Đan Mạch năm 1995, Đức năm 1996 và 
toàn   liên   minh   châu   Âu   năm   1997   thì   tỷ   lệ  Enterococcus   faecium  kháng 
vancomycin phân lập trên người giảm rõ rệt, điều này cho thấy có thể khống chế 

18


được sự  gia tăng của vi khuẩn kháng thuốc thông qua việc sử  dụng kháng sinh  
[12, 63, 73, 74].

1.2.4.4. Do bác sỹ

Khi sử  dụng kháng sinh sẽ  tạo ra áp lực chọn lọc cho vi khuẩn kháng 

thuốc. Sử  dụng kháng sinh không hợp lý và thường xuyên sẽ  làm tăng nguy cơ 
kháng kháng sinh của vi khuẩn. Đối với thầy thuốc việc sử dụng kháng sinh theo  
kinh nghiệm, liều cao và kéo dài và phần lớn không dựa vào các kết quả  xét  
nghiệm xảy ra phổ biến ở các quốc gia đang phát triển. Thầy thuốc phải chịu áp  
lực khi kê đơn thuốc theo yêu cầu của bệnh nhân ngay cả  khi không có chỉ định 
điều trị  bằng kháng sinh.  Ở  một số  quốc gia, nhiều người tin rằng sử  dụng  

kháng sinh theo đường tiêm có tác dụng tốt hơn so với đường uống, điều này đã 
dẫn đến tình trạng gia tăng việc sử  dụng các loại kháng sinh phổ  rộng bằng 
đường tiêm trong khi chỉ cần điều trị bằng đường uống với các kháng sinh thông 
thường [14, 34, 49, 52].

1.2.4.5. Chất lượng kháng sinh kém

Khi bảo quản nhiệt độ  >250C sẽ  giảm hoạt tính kháng sinh, kháng sinh 

quá hạn sử  dụng, hàm lượng thấp không những không thể  tiêu diệt được hoàn 
toàn vi khuẩn gây bệnh mà còn tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng lại kháng sinh  
[26, 51, 65]. Ngoài ra một số kháng sinh được bán tại các nước đang phát triển  
không chứa đủ hàm lượng như đã ghi trên nhãn thuốc, thành phần chủ yếu trong  
các loại thuốc giả này thường là bột mỳ. Nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng 
65% trong tổng số  751 hoạt chất đã được làm giả  tại hơn 28 quốc gia trên thế 
giới được ghi nhận [7, 41, 45].

1.2.4.6. Gia tăng sự đi lại quốc tế

 Làm lây lan các chủng vi khuẩn kháng thuốc từ 1 quốc gia sang các quốc 

gia khác trên thế giới qua đường hàng không. Ví dụ: vi khuẩn kháng carbapenem 
mang gen NDM­1 tại Anh có nguồn gốc từ Ấn Độ [39].

1.2.4.7. Hệ thống giám sát kháng sinh

19


Tại các quốc gia phát triển đã xây dựng được hệ  thống giám sát kháng 

sinh như Mỹ và liên minh châu Âu chuẩn thức, qua hệ thống này các thông tin về 
mức độ, xu hướng và phát hiện được các trường hợp kháng thuốc mới của vi  
khuẩn sẽ  được sử  dụng để  phân tích và đánh giá…qua đó sẽ  giúp cho các thầy  
thuốc và các nhà quản lý đưa ra các chính sách phù hợp để ngăn chặn sự gia tăng  
của vi khuẩn kháng kháng sinh. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết tại các quốc gia  
đang phát triển, các số liệu về tình hình kháng kháng sinh của vi khuẩn chủ yếu  
dựa vào các báo cáo từ  các bệnh viện, và các kết quả  từ  các hoạt động nghiên  
cứu. Các số  liệu này không thể  phản ánh được đầy đủ  thực trạng kháng kháng  
sinh của một quốc gia và cũng thể  sử  dụng để  so sánh với nhau do chưa có sự 
thống nhất từ  việc lựa chọn cỡ  mẫu, phương pháp xét nghiệm phát hiện vi  
khuẩn kháng kháng sinh. Ngoài ra ở các bệnh viện thường bị thiếu hụt các trang  
thiết bị, nhân lực hóa chất và thường không được yêu cầu đánh giá chất lượng  
bằng các hình thức như  nội kiểm và ngoại kiểm, do đó các dữ  liệu về  kháng  
kháng sinh cũng không thể xem là chính xác và các số  liệu này rất khó sử  dụng 
để  so sánh giữa các bệnh viện, cộng đồng cũng như  giữa các vùng địa lý khác  
nhau [16, 73]. 

1.3.

Kháng sinh nhóm carbapenem
Thienamycin là  kháng sinh  đầu tiên thuộc  nhóm carbapenem  được  phát 

hiện và tách chiết từ  vi khuẩn  Streptomyces cattleya (S. cattleya) sống trong đất. 
Hoạt chất này có khả năng ức chế quá trình tổng hợp peptidoglycan của tế bào vi 
khuẩn. Năm 1979 Kahan và cộng sự  đã tách chiết thành công thienamycin có độ 
tinh khiết cao >90%. Năm 2003, gen mã hóa quá trình tổng hợp thienamycin của 
vi khuẩn  S. cattleya được phát  hiện và giải trình tự, tổng hợp và phát triển thành  
các kháng sinh thuộc nhóm carbapenem.  Kháng sinh thuộc nhóm carbapenem có 
cấu trúc tương tự như penicillin nhưng nguyên tố lưu huỳnh được thay thế  bằng 
nguyên tố các bon  ở vị trí 1 (Hình 1.5). Cấu trúc này có khả năng tiêu diệt các vi  


20


khuẩn kháng kháng sinh phổ  rộng sinh enzym beta­lactamase (ESBL) b ằng cách 
ức chế quá trình tổng hợp vỏ ngoài của tế bào vi khuẩn.

Hình 1.5. Cấu trúc phân tử của carbapenem
Phân loại enzym ly giải kháng sinh nhóm carbapenem
Có hai kiểu đề kháng của vi khuẩn với kháng sinh nhóm carbapenem: (1):  
tạo ra serine tác động vào amino acide serine tại vị trí 70 hoạt động trong cấu trúc 
phân tử của kháng sinh nhóm carbapenem (enzym nhóm A và D). (2): và nhóm B,  
sinh các enzym metallo­beta­lactamase (MBLs), các enzym này hoạt hóa khi có sự 
tham gia của các ion kim loại có hóa trị 2, thông thường là kẽm [ 50]. Các enzym 
kháng carbapenem được chia ra làm 3 nhóm chính (Bảng 1.3) [50].

21


Bảng 1.3.  Một số đặc tính của các enzym ly giải carbapenem của các chủng vi khuẩn Gram âm [50]

Nhóm 
enzym

A

B

Enzym


Plasmid/ 
Chromosom
e

Khả năng ly 
giải kháng 
sinh
Penicillin

Cephalosporin 
thế hệ I

Enzym bị ức chế
Cephalospo
rin thế hệ 
II

Cephalosporin 
thế hệ III

Aztreonam

Carbapenem

SME­1,­2, ­3

Chromosome

++


++

­

+

+

+

NMC­A

Chromosome

++

++

­

+

­

++

IM­2

Plasmid


++

++

­

+

­

++

GES­4,­5,­6

Plasmid

++

++

+

+

­

+

KPC­2 đến 12


Plasmid

++

++

­

++

+

++

IMP­1 đến ­33

Plasmid

++

++

++

++

­

++


VIM­1   đến 
Plasmid
­33

++

++

++

++

­

++

NDM­1 đến 6

Plasmid

++

++

++

++

­


+

KHM­1

Plasmid

++

++

++

++

­

++

22

Clavulanate, 
Tazobactam, 
sulbactam

Clavulanate, 
Tazobactam, 
sulbactam, 
boronic acid

EDTA



D

OXA­48

Plasmid

++

++

+/­

+/­

­

+

OXA­181

Plasmid

++

++

+/­


+/­

­

+

23

NaCl


1.4.

Thực trạng kháng kháng sinh của các vi khuẩn Gram âm hiện nay
Thực trạng đa kháng kháng sinh của các vi khuẩn Gram âm hiện nay là  

một trong những vấn đề  mang tính toàn cầu, đặc biệt  ở  tại các quốc gia đang  
phát triển với gánh nặng của các bệnh nhiễm khuẩn. Sự gia tăng tỷ  lệ vi khuẩn  
Gram âm kháng kháng sinh đe dọa hiệu lực tác động của kháng sinh, thậm chí 
ngay cả  với các kháng sinh mạnh nhất hiện nay.  Bằng chứng mới nhất là sự 
lây lan của các chủng vi khuẩn Gram âm như  Klebsiella, Pseudomonas, E.  
coli,   A.   baumannii...  mang   gen   New   Delhi   Metallo­β ­lactamase   1   (NDM­1) 
kháng carbapenem “thuộc nhóm lựa chọn cuối cùng”  ở  một số  quốc gia.  
Điều này cho thấy, với mức độ  vi khuẩn kháng kháng sinh mạnh mẽ  như  hiện  
nay sẽ dẫn đến không còn kháng sinh hiệu quả để điều trị các bệnh nhiễm trùng 
trong 5 đến 10 năm nữa [39, 72, 79].
Hậu quả của vi khuẩn kháng đa kháng sinh để lại rất nặng nề, ví dụ theo  
như báo cáo của trung tâm kiểm soát bệnh tật tại Mỹ (CDC), hơn 70% trong tổng 
số 1,7 triệu ca nhiễm trùng tại các bệnh viện của Mỹ kháng lại với ít nhất một  
loại kháng sinh được khuyến cáo sử dụng để điều trị cho tác nhân nhiễm khuẩn  

đó và tỷ  lệ  tử  vong do nhiễm khuẩn bệnh viện là 99.000 xảy ra hàng năm. Hay 
tại châu Âu tỷ  lệ  tử  vong hàng năm là 25.000 ca có liên quan đến nhiễm khuẩn  
bệnh viện do vi khuẩn kháng kháng sinh. Thêm vào đó khi bị nhiễm khuẩn do các 
vi khuẩn kháng kháng sinh sẽ có nguy cơ cao gây thất bại trong điều trị, tăng chi 
phí, kéo dài thời gian điều trị  và gây thiệt hại cho nền kinh tế  (do  ốm đau, mất 
sức và tạo ra ít sản phẩm lao động), ví dụ, liên minh châu Âu mất 1,5 tỉ EUR và 
Mỹ  Mất 1,87 tỉ đô la hàng năm, cao hơn rất nhiều số tiền sử dụng cho công tác  
phòng chống dịch cúm hàng năm tại các quốc gia này [78].
Ngoài ra vi khuẩn kháng đa kháng sinh còn tác động đến nhiều lĩnh vực  
khác nhau như sức khỏe con người, kinh tế, dịch tễ học, ngành công nghiệp dược 
phẩm và các biện pháp phòng chống vi khuẩn kháng kháng sinh. Thêm vào đó, 
các nghiên cứu sâu về  các đặc tính sinh học phân tử  của vi khuẩn kháng kháng  

24


sinh cũng rất quan trọng để phát hiện ra nguồn truyền và phương thức lây lan qua 
đó chúng ta có thể đề ra các biện pháp nhằm hạn chế sự lây lan của các vi khuẩn  
kháng kháng sinh trong bệnh viện và cộng đồng.

1.5.

Đặc   điểm   vi   sinh   vật   học   và   tình   trạng   kháng   kháng   sinh   của  A.  
baumannii
1.5.1. Đặc điểm vi sinh vật học của A. baumannii
1.5.1.1. Đặc điểm chung
Lịch sử loài Acinetobacter có niên đại vào những năm đầu thế kỷ 20, chính 
xác là vào năm 1911, Beijerinck nhà vi sinh vật học người Hà Lan đã miêu tả  nó 
như  là một  Micrococcus calcoaeticus  được phân lập từ    đất và được làm giàu 
trong môi trường chứa tối thiểu calcium acetate.  Acinetobacter là vi khuẩn Gram 

âm, hiếu khí và  dựa trên nhiều dữ liệu phân loại gần đây nó đã được phân loại  
trong họ  Moraxellaceae  mới  trong trật tự  Gammaproteobacteria, trong  đó  bao 
gồm   các   chi  Moraxella,  Acinetobacter,  Psychrobacter.   Năm   1986,   Bouvet   và 
Grimont đã đạt được một bước đột phá lớn trong lịch sử    việcđặt cơ  sở  cho  
nghiên cứu lai DNA­DNA, phân biệt được 12 nhóm hoặc genospecies DNA, một 
số   trong   đó   đã   được   đặt   tên   loài   chính   thức,   bao   gồm   A.   baumannii,   A.  
calcoaceticus, A. haemolyticus, A. johnsonii, A. junii,  và  A. lwoffii.  Cho đến nay, 
các nhà khoa học đã nghiên cứu và tìm ra 31 loài Acinetobacter khác nhau, trong 
đó 17 loài đã được đặt tên [13, 31].
A. baumannii  là một trong các chủng  Acinetobacter spp.  có cấu trúc của 
một
cầu trực khuẩn Gram âm, có nguồn gốc từ trong thiên nhiên như trong đất, nước,
thực phẩm. Ngày nay, người ta đã phát hiện chúng như  là một tác nhân thường 
trú
trong bệnh viện và có khả năng phát tán và lây lan thành các vụ dịch, đặc biệt ở 


 



khoa HSTC, trên những bệnh nhân nặng, nằm điều trị  kéo dài, có thực hiện các 
thủ  thuật xâm lấn giúp chẩn đoán, điều trị  bệnh và sử  dụng nhiều loại kháng 

25


×