Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.36 KB, 10 trang )

Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới kinh tế
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của nền sản xuất có quan hệ
biện chứng với nhau. Sự tác động qua lại đó tuân theo một quy luật nhất định, đó là
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là một trong những
quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, quy luật này chi phối sự vận động, phát
triển của xã hội, nó vạch ra mối quan hệ bản chất, tất yếu, ổn định, phổ biến và lặp lại
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xúât của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch
sử. Là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác, là hòn
đá tảng của lý luận hình thái kinh tế xã hội khoa học. Nghiên cứu quy luật này có ý
nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, là cơ sở
tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng quan hệ sản xuất.
Phần I: Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Xã hội loài người trong quá trình phát triển đã trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp
nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển ấy là một hình thái kinh tế- xã hội nhất
định. Các hình thái kinh tế xã hội này vận động phát triển do sự tác động của các quy
luật khách quan nội tại, vốn có của nó, đó là quá trình phát triển tự nhiên của lịch sử.
C.Mác viết: “...Sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sửtự nhiên”1. Đồng thời C.Mác cũng chỉ ra rằng: Tiền đề đầu tiên cho sự tồn tại của con
người trong toàn bộ lịch sử hình thành và phát triển của nó và do đó là tiền đề của toàn
bộ lịch sử nhân loại là con người, là những con người có khả năng sống để rồi lại “làm
ra lịch sử” của mình. Nhưng để sống thì trước hết phải có cái ăn, cái mặc, nhà ở và các
phương tiện phục vụ cuộc sống của mình, vì thế mà hành vi lịch sử đầu tiên của nhân
loại là “sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”, sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt để
thoả mãn những nhu cầu của mình- một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay
cũng như hàng nghìn năm về trước) người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ.
Do đó, hoạt động lao động sản xuất của con người mang tính xã hội. Quá trình
lao động sản xuất, con người có hai mối quan hệ song trùng đó là quan hệ giữa con
người với tự nhiên (gọi là lực lượng sản xuất) và quan hệ giữa người với người (gọi là
quan hệ sản xuất). Hai mối quan hệ này gắn bó chặt chẽ, tác động biện chứng với nhau
tạo thành một phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức mà con người
tiến hành sản xuất ra của cải vật chất, là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan


hệ sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử
xã hội loài người có một phương thức sản xuất, lịch sử xã hội loài người là sự tiếp nối
nhau của các phương thức sản xuất phát triển từ thấp tới cao.
Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên
trong quá trình sản xuất vật chất, là sự thống nhất biện chứng giữa người lao động có
kinh nghiệm, kỹ năng và tri thức nhất định với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao
động, trong đó người lao động đóng vai trò quyết định, tư liệu sản xuất đóng vai trò
quan trọng. Người lao động là chủ thể sáng tạo và tiêu dùng của xã hội, nguồn lực cơ


bản, vô tận của sản xuất, là bí mật của mọi sự sáng tạo. Hiệu quả sản xuất cao hay thấp
phụ thuộc vào tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, động cơ, thái độ của người lao động. Do
đó người lao động có vai trò hết sức quan trọng, nhân tố quyết định của lực lượng sản
xuất. Lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ, hàm lượng trí tuệ
chứa đựng trong sản phẩm lao động ngày càng tăng. Trí tuệ của con người là sản phẩm
của tự nhiên, hình thành và phát triển trong lao động, cùng với lao động. Ngày nay, khi
khoa học kỹ thuật phát triển, con người trở thành nguồn lực đặc biệt, tài nguyên vô tận,
không bao giờ cạn.
Tư liệu lao động bao gồm đối tượng lao động và công cụ lao động. Công cụ lao
động là thành tố cơ bản, quan trọng, không thể thiếu trong quá trình sản xuất. Công cụ
lao động do con người sáng tạo ra, sử dụng làm phương tiện vật chất trong quá trình sản
xuất. Công cụ lao động quyết định năng suất lao động. Khi công cụ đạt tới trình độ
tin học hoá, tự động hoá thì sức mạnh của nó trở nên hết sức kỳ diệu. Công cụ lao động
là yếu tố biến động nhất, cách mạng nhất. Sự biến đổi, cải tiến và hoàn thiện công cụ lao
động gây nên sự biến đổi sâu sắc trong tư liệu sản xuất. Mọi sự biến đổi của phương
thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của công cụ lao động. Trình độ phát triển của công
cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục thiên nhiên của con người. Ngày nay, khoa
học càng có vai trò quan trọng trong sản xuất, trở thành LLSX trực tiếp, là nguyên nhân
trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống. Đúng như Mác đã dự
đoán trước đây rằng, khoa học trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, nó được vật chất

hoá vào trong quá trình sản xuất, trở thành một mắt khâu của quá trình sản xuất, vật hoá
vào đối tượng lao động. Những phát minh, sáng chế, bí mật công nghệ trở thành nguyên
nhân của mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất, đó là loại hàng hoá đặc biệt, của cải đặc
biệt. Khoa học ứng dụng vào sản xuất làm cho năng suất lao động tăng nhanh, của cải
xã hội ngày càng nhiều lên. Nếu như trước kia từ phát minh sáng chế đến ứng dụng vào
sản xuất phải mất hàng năm, hàng nhiều năm, thậm chí bị lãng quên thì ngày nay có
được ứng dụng ngay lập tức vào trong quá trình sản xuất. Các tổ chức, các cơ quan
nghiên cứu nằm ngay trong các cơ sở sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của khoa học
đã kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, những yêu cầu sản xuất đặt ra và có khả năng
phát triển vượt trước. Khoa học thâm nhập vào tất cả các yếu tố sản xuất, trở thành mắt
khâu bên trong của quá trình sản xuất, kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất
của con người, đòi hỏi con người phải tích cực học tập, nâng cao trình độ kiến thức
chuyên môn, nâng cao tay nghề, có năng lực làm chủ sản xuất. Nếu không đáp ứng
được các yêu cầu đó, người lao động sẽ bị sa thải khỏi dây chuyền sản xuất. Khoa học
là cơ sở của hoạt động sản xuất, người lao động sử dụng những tri thức, những thành
tựu khoa học áp dụng vào sản xuất tạo ra năng suất lao động ngày càng cao; khoa học
thâm nhập vào quá trình tổ chức sản xuất; khoa học trở thành một ngành sản xuất vật
chất với quy mô ngày càng lớn, mức độ đầu tư cho khoa học ngày càng cao. Khoa học
và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất và do vậy nó được coi là
cái đặc trưng của nền sản xuất hiện đại.
Chính nhờ lực lượng sản xuất phát triển làm cho năng suất lao động ngày càng
tăng lên. Năng suất lao động chính là tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ của mỗi thời đại
lịch sử, nhân tố quyết định thắng lợi của một chế độ xã hội. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
một năng suất lao động chưa từng thấy trong chế độ nông nô. Để thúc đẩy lực lượng sản
2


xuất phát triển đòi hỏi phải nâng cao chất lượng con người, quan tâm đến yếu tố con
người, đồng thời đầu tư cho khoa học công nghệ, đổi mới công cụ lao động và phương
tiện lao động, phát triển y tế, văn hoá, giáo dục đào tạo.

Quan hệ sản xuất là toàn bộ những mối quan hệ kinh tế vật chất giữa người và
người hình thành trong quá trình sản xuất. Điều đó có nghĩa là, quá trình sản xuất, con
người không thể không quan hệ với nhau, quan hệ này mang tính tất yếu, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Sản xuất càng phát triển thì các mối quan hệ
này càng phong phú, phức tạp.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ
chức, quản lý sản xuất và quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Những mối quan hệ
này thể hiện trong đời sống kinh tế hết sức phong phú, đan xen nhau. Quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất gồm hai hình thức cơ bản là sở hữu tư nhân và sở hữu công
cộng. Quan hệ về tổ chức quản lý bao gồm hai hình thức cơ bản là thống trị, bị trị và
hợp tác tương trợ làm chủ trong sản xuất. Quan hệ về phân phối gồm hai hình thức cơ
bản là bóc lột, bị bóc lột và phân phối theo kết quả lao động và hiệu suất sản xuất kinh
doanh, bảo đảm công bằng hợp lý. Các mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng
với nhau, tác động ảnh hưởng, chi phối lẵn nhau. Mỗi mặt của quan hệ sản xuất có vai
trò riêng, nhưng nó chỉ phát huy tác dụng khi nó gắn bó với các mặt khác, nếu tách rời,
tuyệt đối hoá bất cứ mặt nào thì đều là sai lầm.
Trong ba mối quan hệ trên thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò
quan trọng nhất, đây là quan hệ giữa các tập đoàn người trong chiếm hữu tư liệu sản
xuất, là quan hệ xuất phát cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, có vai trò quyết định
các quan hệ khác, quyết định địa vị kinh tế của của các giai cấp. Vì muốn sản xuất thì
phải có tư liệu sản xuất, ai nắm quyền chủ động về tư liệu sản xuất thì người đó giữ vai
trò quyết định tới tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm. Tính chất quan hệ sở hữu
quyết định tính chất quan hệ sản xuất. Trong xã hội, giai cấp nào nắm giữ tư liệu sản
xuất chủ yếu là giai cấp trung tâm của phương thức sản xuất, đồng thời là giai cấp thống
trị xã hội. Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất có vai trò quyết định trực tiếp đến quy mô,
tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất. Quan hệ phân phối sản phẩm lao động có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc kích thích trực tiếp lợi ích của con người, là chất xúc tác kinh
tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất, nó có thể làm năng động hoá đời sống kinh tế
hoặc ngược lại .
Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là quan hệ cơ bản, chủ yếu,

quyết định mọi quan hệ xã hội khác, quan hệ sản xuất không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người, nó phải phù hợp một cách khách quan với trình độ của lực lượng
sản xuất nhất định. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất này thiết lập quan hệ sản xuất khác
phải dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất nhất định. Vì vậy, đánh giá đúng mức
độ phát triển của lực lượng sản xuất để lựa chọn hình thức, bước đi thích hợp của quan
hệ sản xuất là rất quan trọng, điều đó phụ thuộc vào năng lực nhận thức của con người.
Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất chỉ ra rằng:
Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có quan hệ biện chứng, tác
động qua lại. Trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản
xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp nó
3


sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại nếu không phù hợp nó sẽ kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Vận dụng phép biện chứng duy vật vào quá trình sản xuất ta thấy rằng: quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,
trong đó nội dung quyết định hình thức, hình thức tác động trở lại nội dung. Lực lượng
sản xuất là nội dung bao gồm các yếu tố của quá trình sản xuất hợp thành, còn quan hệ
sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất. Do đó lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất cá nhân, riêng lẻ hay tính chất xã hội
hoá ở các mức độ khác nhau trong quá trình sản xuất. Trong chế độ cộng sản nguyên
thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, công cụ lao động thô sơ, chỉ cần ít người, thậm
chí một người để làm ra một sản phẩm, cho nên lực lượng sản xuất mang tính cá nhân.
Khi công cụ lao động phát triển thì sản phẩm lao động là kết tinh sức lao động của
nhiều người, nhiều thế hệ người, lúc này lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá ngày
càng cao. Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
trình độ chinh phục thiên nhiên của con người. Trình độ lực lượng sản xuất được quyết

định bởi trình độ phát triển của khoa học công nghệ, công cụ lao động, của tri thức, kỹ
năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ phân công lao động xã hội. Trên thực
tế, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất gắn bó chặt chẽ với nhau không tách rời
nhau, nói trình độ sản xuất là bao hàm cả lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất bởi vì, lực lượng sản xuất là yếu
tố năng động, cách mạng, thường xuyên biến đổi. Nó năng động, cách mạng là do sản
xuất bao giờ cũng mang tính mục đích, nó do quy luật lợi ích chi phối. Người lao động
vì lợi ích của mình, vì cuộc sống của mình đòi hỏi phải cải tiến công cụ lao động, tăng
năng suất lao động. Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của con người ngày càng tăng
lên, trong quá trình sản xuất, kỹ năng, tri thức, kinh nghiệm của con người cũng tăng lên
không ngừng, làm cho con người có năng lực thực tiễn để đáp ứng nhu cầu của mình,
quá trình đó kích thích sản xuất phát triển. Mặt khác, bản thân của nền sản xuất đòi hỏi
phải tăng năng suất, giảm cường độ lao động, muốn vậy phải cải tiến công cụ lao động,
sáng tạo ra công cụ mới, mà con người có khả năng làm việc đó. Tính năng động, cách
mạng của lực lượng sản xuất còn do được kế thừa một cách khách quan sự phát triẻn
của chính nó ở thời đại trước.
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời và biến đổi của quan hệ sản xuất; quyết
định cơ cấu, nội dung, tính chất của quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển
đến một trình độ nhất định, nó mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu làm
xuất hiện nhu cầu khách quan là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản
xuất mới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nghĩa là khi lực
lượng sản xuất phát triển thì sớm muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo. Xu hướng
chung của mọi xã hội là không ngừng phát triển do nhu cầu đòi hỏi của con người ngày
càng cao. Sự phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất,
trước hết là công cụ lao động, vì công cụ lao động là yếu tố năng động, cách mạng nhất,
sự vận động của nó mang tính khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển
không ngừng của xã hội. Cùng với sự phát triển của của lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. sự
4



phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất làm cho
lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình
độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp nữa sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Mâu thuẫn này
biểu hiện về mặt chính trị là mâu thuẫn giữa các giai cấp, mâu thuẫn giai cấp tất yếu dẫn
đến đấu tranh giai cấp, đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng
xã hội thành công sẽ xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới. Điều
đó có nghĩa là phương thức sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu bị diệt vong, phưông thức sản
xuất mới tiến bộ được xây dựng. Việc thay thế một quan hệ sản xuất mới có ý nghĩa diệt
vong của một phương thức sản xuất đã lỗi thời làm xuất hiện một phương thức sản xuất
mới.
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển của phương thức sản xuất. Quy luật
này tác động trong lịch sử xã hội loài người, làm cho xã hội chuyển biến từ hình thái
kinh tế- xã hội này sang hình thái kinh tế- xã hội khác cao hơn và có những quan hệ tiến
bộ hơn. Mác cho rằng do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người đã thay đổi
phương thức sản xuất, cách làm ăn của mình, loài người thay đổi cả những quan hệ của
mình.
Quan hệ sản xuất tuy được sinh ra từ lực lượng sản xuất nhưng nó không phải là
sản phẩm thụ động, tiêu cực, trái lại có tác động một cách tích cực, chủ động, sáng tạo
đối với lực lượng sản xuất. Nó tác động đến lực lượng sản xuất trên cả ba mặt: nó chi
phối mục đích của nền sản xuất, chi phối khuynh hướng phát triển các nhu cầu về lợi
ích vật chất, tinh thần, chi phối hệ thống tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội và
phân phối sản phẩm. Sự tác động đó diễn ra theo hai hướng, nếu quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất thì kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây khủng
hoảng kinh tế xã hội. Sự tác động của quan hệ sản xuất biểu hiện rõ nhất, trực tiếp nhất
ở khâu phân phối sản phẩm, nó tác động đến người lao động, biểu hiện ở tinh thần, thái
độ, trách nhiệm. Nó tác động đến công cụ lao động, phản ánh tính tích cực trong cải
tiến, áp dụng thành tựu khoa học. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực

lượng sản xuất là sự tác động của tất cả các yếu tố quan hệ sản xuất và nó diễn ra hết
sức phong phú, phức tạp. Nếu xem xét một cách giản đơn, tách rời, tuyệt đối hoá vai trò
của một yếu tố nào đó đều là phiến diện, sai lầm.
Thực chất của quy luật đòi hỏi sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, lực lượng sản xuất thế nào thì quan hệ sản xuất thích ứng như vậy, quan hệ sản
xuất bao giờ cũng là của một lực lượng sản xuất nhất định, quan hệ sản xuất vượt trước
hay đi sau sự đòi hỏi của lực lượng sản xuất đều không phù hợp. Đây là trạng thái, trong
đó quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển, là sự phù hợp
tương đối, là quá trình thống nhất biện chứng, sự thống nhất bao hàm mâu thuẫn, là
trạng thái cân bằng động, nghĩa là nó vừa cân bằng vừa phá vỡ cân bằng, nó luôn luôn
được điều chỉnh thông qua quá trình phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, từ sự phù hợp
đến không phù hợp, rồi lại đến sự phù hợp mới cao hơn. Sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn là sự phù hợp giữa các yếu tố,
các mặt của quan hệ sản xuất với các yếu tố của lực lượng sản xuất, trong trạng thái phù
hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới sự thích ứng với trình độ phát triển của lực
5


lượng sản xuất. Tiêu chuẩn của sự phù hợp là các yếu tố của LLSX và QHSX luôn có
sự liên kết chặt chẽ đồng bộ, nhịp nhàng, ăn khớp. Nền sản xuất phát triển đúng hướng,
quy mô mở rộng, thành tựu khoa học kỹ thuật được áp dụng, sản xuất phát triển, năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao, khai thác tối đa năng lực hoạt động của tư liệu sản xuất
và người lao động. Đời sống vật chất và tinh thần của người lao động không ngừng
được cải thiện. người lao động luôn quan tâm đến sản xuất, xã hội ổn định và phát triển.
Sự phù hợp nó quy định mục đích, xu hướng, hình thành hệ thống động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển. Trái lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất,
gây khủng hoảng kinh tế xã hội. Thực tiễn chứng minh rằng: Lực lượng sản xuất chỉ có
thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. Quan hệ sản
xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo đều kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên

gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết mà con người không phát hiện được thì quan hệ sản xuất
trở thành nhân tố phá hoại lực lượng sản xuất, gây nên khủng hoảng kinh tế xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến, nó tác động trong mọi chế độ xã hội, trong toàn bộ tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội từ thấp tới cao là do
sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một quy luật cơ bản.
Phần II: Sự nhận thức và vận dụng quy luật của Đảng ta trong quá trình đổi mới
nền kinh tế đất nước.
Quy luật vốn tồn tại khách quan, nhưng nhận thức và vận dụng quy luật lại phụ
thuộc vào năng lực chủ quan của con người. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm tới việc vận dụng quy luật này. Song nhận thức
là một quá trình đi từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản
chất, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ. Quá trình đó ngày càng tiếp cận tới chân lý. Nhận thức
của Đảng ta về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất cũng diễn ra theo quy luật đó.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quán triệt và
vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất vào điều kiện cụ thể của nước ta. Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) đã đề ra đường lối chung cho cách mạng Việt
nam trong giai đoạn mới và khẳng định: Nắm vững chuyên chính vô sản, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng : cách mạng quan hệ sản xuất; cách mạng khoa học kỹ thuật;
cách mạng tư tưởng, văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Như
vậy, xét về mặt chiến lược thì đường lối chung do Đại hội IV đề ra là hoàn toàn đúng,
hợp quy luật. Nhưng trong quá trình chỉ đạo thực hiện, Đảng ta lại vấp phải nhiều sai
lầm, khuyết điểm, mà sai lầm lớn nhất là chủ quan, duy ý chí, chưa nắm vững và vận
dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Nhận thức của Đảng lúc này còn giản đơn, chưa hiểu thực chất của quy
luật về sự phù hợp là như thế nào, chưa chú ý đến tổng thể mối liên hệ của các yếu tố

6


trong lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất. Chủ trương xây dựng một quan hệ
sản xuất đi trước một bước, mở đường, tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển;
tách quan hệ sản xuất khỏi lực lượng sản xuất. Thực hiện công hữu hoá một cách nóng
vội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách ồ ạt, tước hết tư liệu sản xuất của các
thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tiểu thương, tiểu chủ, trong khi các thành phần kinh
tế này vẫn có vai trò tích cực. Quá nhấn mạnh, tuyệt đối hoá yếu tố sở hữu, coi nhẹ tổ
chức và phân phối. Cho rằng cứ có công hữu, có kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể là
có chủ nghĩa xã hội. Quá thiên về công nghiệp nặng, ham quy mô lớn, đẩy mạnh xây
dựng mô hình hợp tác xã cấp cao, liên minh hợp tác xã trong khi trình độ tổ chức quản
lý của đội ngũ cán bộ còn yếu kém, trình độ của người lao động còn quá thấp, cộng với
tâm lý tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ còn nặng nề. Duy trì quá lâu cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, chưa chú ý nghiên cứu cơ chế thị trường. Quá mặc cảm,
miệt thị với chủ nghĩa tư bản, coi cái gì của chủ nghĩa tư bản cũng là xấu, từ đó phủ
nhận sản xuất hàng hoá, phủ nhận quy luật giá trị, chưa chú ý nghiên cứu chính sách
kinh tế mới của Lênin. Về quan hệ sở hữu thì quá coi trọng sở hữu Nhà nước và sở hữu
tập thể, đồng nhất chế độ sở hữu với tập thể hoá, muốn xoá bỏ ngay sở hữu tư nhân dẫn
đến tài sản của chung không có chủ, không ai quản lý.
Trong lực lượng sản xuất, chỉ chú ý đến đầu tư phát triển công cụ máy móc mà
không quan tâm đúng mức tới yếu tố con người. Tách cơ sở sản xuất với người lao
động, chưa chú ý đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng tay nghề cho người lao động, đưa
người lao động vào các cơ sở sản xuất theo chính sách ưu đãi. Chưa chú trọng đào tạo
nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là trình độ quản lý điều
hành sản xuất của người đứng đầu cơ sở sản xuất. Thực hiện chế độ phân phối bình
quân, cào bằng, không lấy hiệu quả kinh tế làm căn cứ để phân phối. Điều đó đã làm
thui chột động lực của người lao động. Chưa quan tâm đến lợi ích chính đáng của người
lao động, chưa thấy lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp thúc đẩy tính tích cực của con
người. Chưa thấy hết đặc điểm chặng đường đầu của thời kỳ quá độ ở nước ta là một

nước thuộc địa nửa phong kiến, sản xuất nhỏ là phổ biến, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đề ra các chỉ tiêu kinh tế quá cao cho nền kinh tế.
Những sai lầm khuyết điểm trên đã dẫn tới làm khủng hoảng kinh tế xã hội, đời
sống nhân dân quá khó khăn, đặc biệt là đời sống của cán bộ viên chức nhà nước và lực
lượng vũ trang.
Trước tình hình đó Đại hội VI của Đảng (12/1986), với tinh thần đổi mới, Đảng
ta đã nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nhận thức được sai lầm, chỉ ra thực chất của
quy luật là sự phù hợp, nếu quan hệ sản xuất đi trước hoặc đi sau lực lượng sản xuất đều
không phù hợp, lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy. Nhận
thức rõ đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lực
lương sản xuất thấp kém, sản xuất nhỏ là phổ biến tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm đó đòi hỏi một nhiệm vụ cấp bách là phải phát
triển lực lượng sản xuất, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất từ thấp đến cao, phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thực hiện chủ trương này, Đảng ta đã thay
chính sách kinh tế hai thành phần bằng chính sách kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, đó là hình thức biểu hiện sự vận dụng quy luật này.
7


Đến Đại hội VII Đảng ta tiếp tục khẳng định: thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách kinh tế nhiều thành phần. Thực tiễn đã chứng minh chính sách kinh tế nhiều thành
phần là hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật, do đó phát huy tác dụng thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Vì vậy, Đại hội VIII của Đảng xác định, nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội và bước sang một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với mục tiêu cụ thể là: “Mục tiêu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chát tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội”2. Trên cơ sở mục tiêu chung đó Đảng ta khẳng định: Tiếp tục thực hiện

nhất quán lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích mọi đơn vị, cá
nhân trong và ngoài nước, khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển để họ yên
tâm làm ăn lâu dài, có lợi cho quốc kế dân sinh. Đối xử bình đẳng với mọi thành phần
kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh. Nhằm
phát huy nội lực, tranh thủ những thời cơ và thuận lợi để phát triển nền kinh tế đất nước
với những tiến bộ vững chắc hơn, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, đồng
thời thiết lập hệ thống quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp.
Bước vào thế kỷ XXI, trong điều kiện quốc tế và khu vực có nhiều thời cơ thuận
lợi và khó khăn, thách thức đan xen nhau. Nổi bật là xu hướng toàn cầu hoá ngày càng
mạnh mẽ, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đang tác động sâu sắc
đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là sự xuất hiện của nền kinh tế tri
thức(đánh dấu bước tiến vượt bậc của lịch sử xã hội loài người), với những thành tựu to
lớn mà Đảng và nhân dân ta đạt được trong hơn ba chục năm thực hiện đường lối đổi
mới đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối và chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội là: “Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa”3.
Về phát triển lực lượng sản xuất Đảng ta khẳng định: “phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu,
quản lý và phân phối”, “tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc
biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, ứng dụng... nhiều hơn, cao hơn, phổ
biến hơn những thành tựu về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri
thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh của người Việt Nam”. “Xây dựng một số
tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá”. “Phát triển doanh
nghiệp nhà nước, xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt”. Đây
là quan điểm mới về phát triển lực lượng sản xuất của Đảng ta, trong đó “từng bước
phát triển kinh tế tri thức” chính là giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta
trong điều kiện mới. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức chứng minh tính đúng đắn
của quan điểm Mác- Lênin về luận điểm ngày nay khoa học đang trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học được kết tinh trong người lao động và công cụ lao
động.


8


Về xây dựng quan hệ sản xuất, Đảng ta khẳng định trong nền kinh tế nước ta hiện
nay có ba hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, trong đó có sáu thành phần kinh tế cơ bản:
Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế
tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Để phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chính là tư duy mới của Đảng ta về quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Về tiêu chuẩn của sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Đại hội IX
khẳng định: “Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghiã là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”4. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn nhiều vấn
đề đặt ra cả về lý luận và thực tiễn, song về cơ bản nhận thức của Đảng ta về quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã rõ ràng. Quá trình nhận
thức đó là quá trình tìm tòi, thử nghiệm công phu, gian khổ, vất vả suốt mấy thập kỷ
qua, đã có lúc phải trả giá đắt. Song chúng ta cần phải khẳng định rằng, đây là nhận
thức của Đảng chứ không phải sự áp đặt từ bên ngoài, nhận thức được hình thành trên
cơ sở vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, nghiên
cứu tổng kết thực tiễn, từ sự phát hiện của quần chúng ở cơ sở, từ sự suy tư, trăn trở của
đảng viên. Nhận thức này là định hướng quan trọng cho sự phát triển nền kinh tế đất
nước trong suốt thời kỳ quá độ cũng như tạo tiền đề cho sự phát triển nền kinh tế đất
nước trong những năm tiếp theo.
Như vậy Đảng ta đã vận dụng quan điểm duy vật của chủ nghĩa Mác vào xem xét
lĩnh vực xã hội, chỉ ra sự vận động, phát triển của xã hội bắt đầu từ kinh tế, chỉ ra thực

chất của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong điều kiện cụ thể của nước ta. Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận hết
sức to lớn trong sự chỉ đạo và hoạt động thực tiễn của Đảng. Từ Đại hội VI đến nay,
Đảng liên tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhận thức của Đảng về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất ngày càng rõ nét hơn. Những
khuyết điểm, yếu kém trước kia đã được Đảng ta chỉ rõ và kiên quyết khắc phục. Đường
lối đổi mới nói chung, chính sách kinh tế nhiều thành phần kinh tế nói riêng đã thúc đẩy
nền kinh tế nước ta phát triển mạnh, vượt qua những thách thức hiểm nghèo và thu được
nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng. Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã
khẳng định tính đúng đắn và vai trò tích cực của nó trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển. Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã giải phóng sức sản xuất, đưa đến
những thành tựu kinh tế quan trọng. Tạo điều kiện để chúng ta tiếp túc phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, vì mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững
bước tiến vào thế kỷ XXI.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó tác động trong mọi lĩnh vực của các hình thái
9


kinh tế xã hội, mọi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, tác động ở cả tầm vĩ mô và vi
mô, nó vạch ra rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng phải phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất. Đây là một quy luật xã hội được biểu hiện thông qua hoạt động có ý
thức của con người, vì vậy phát hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn không được vi phạm yêu cầu của quy luật. Quy luật này đòi hỏi con
người phải theo sát quá trình sản xuất, phát hiện những yếu tố không phù hợp, giải
quyết mâu thuẫn, đem lại sự phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất
làm cho quá trình sản xuất không ngừng phát triển. Con người bao giờ cũng phải thấy
được tính quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất về mọi mặt, lực

lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất phải tương ứng như thế ấy. Phải thấy
được sự tác động tích cực của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất, đặc biệt là
vai trò của quan hệ sở hữu. Trong xem xét cải tạo xã hội phải đi từ phân tích mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất một cách khách quan và khoa học. Giải
quyết mâu thuẫn này liên quan đến vấn đề chính trị, pháp quyền... tức là thuộc về kiến
trúc thượng tầng, do đó phải có những hình thức, bước đi thích hợp, không được chủ
quan, nóng vội.
Nghiên cứu quy luật này cần thấy được tính khách quan, tính phổ biến của quy
luật, đặc biệt là thấy được vai trò của con người nói chung và Đảng ta nói riêng, trong
nhận thức và vận dụng quy luật này. Chỉ có trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, nắm vững quy luật khách quan, trong đó có quy luật cơ bản “Quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của Lực lượng sản xuất” và vận dụng sáng tạo quy luật đó vào điều
kiện cụ thể của đất nước, Đảng ta mới đề ra được đường lối đúng đắn để lãnh đạo nhân
dân ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước giành thắng lợi và xây dựng thành công chủ
nghĩa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

10



×