Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.66 KB, 30 trang )

1
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm 
Khoa học Xã hội Việt Nam 
  
Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. Nguyễn Thị Huế
 

Phản biện 1: GS. TS. Lê Hồng Lý 
Phản biện 2: PGS. TSKH. Bùi Mạnh Nhị
Phản biện 3: PGS. TS. Hà Văn Đức

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại 
Học Viện Khoa học Xã hội, vào lúc…. giờ ngày…. tháng …. năm 2014.
 
 
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: 
­ Thư viện Quốc gia Việt Nam
­ Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
­ Thư viện trường Đại học Văn Hiến Tp. Hồ Chí Minh 


2

MỞ ĐẦU

0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam và thế giới, kiểu truyện con vật tinh  
ranh là một trong những kiểu truyện quen thuộc và tiêu biểu. Trong kiểu truyện này, 
nhân vật chính – một con vật nhỏ bé nhưng tinh ranh thường  sử  dụng mưu mẹo để  
đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Đây là kiểu truyện mà  tính duy 
lý chiếm ưu thế. Kiểu truyện còn hấp dẫn bởi tính nhân văn và ý nghĩa thẩm mỹ.  Tuy 


hướng nghiên cứu theo kiểu truyện đã xuất hiện từ  lâu nhưng đến nay, kiểu truyện  
này vẫn chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo, chuyên sâu. Do vậy, chúng tôi 
chọn nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam  
và thế giới để  có cái nhìn hệ thống về kiểu truyện, qua đó giúp ta có “cái nhìn tham  
chiếu” đầy đủ, sáng tỏ về giá trị nội dung và hình thức của kiểu truyện.
0.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
0.2.1.Việc tập hợp các truyện kể của kiểu truyện giúp ta thấy được sự phân 
bố, sự  phổ  biến của kiểu truyện trên phạm vi toàn cầu, cũng như  thấy được diện  
mạo, đặc điểm, đặc trưng của nó bên cạnh những kiểu truyện khác.
0.2.2. Nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ thống motif,… để làm nổi rõ nét đặc 
trưng của kiểu truyện, thấy được những đặc trưng trong truyện dân gian những khu 
vực, quốc gia, châu lục khác.
0.2.3. Việc đối chiếu Bảng tra cứu A – T với kiểu truyện vừa khẳng định tính 
ứng dụng của Bảng tra cứu, vừa góp phần bổ sung một số type truyện của Việt Nam  
cũng như của một số nước mà công trình trên chưa “phủ sóng” đến.
03. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề  tài là những truyện dân gian thỏa mãn hai tiêu  
chí:  Nhân vật chính là  loài  vật  và chúng  phải có tính cách  tinh ranh.  Dựa vào 103 
tuyển tập truyện kể, chúng tôi tập hợp được 512 truyện thuộc kiểu truyện. 
0.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


3
0.4.1. Phương pháp thống kê ­ phân loại: Nhờ  phương pháp thống kê giúp 
thấy được sự phân bố của kiểu truyện và để tiến hành phân loại các truyện kể. 
0.4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp: để phân tích kết cấu, nhân vật và 
một số motif để tìm ra được bản chất và đặc trưng của kiểu truyện.
0.4.3. Phương pháp so sánh – loại hình:  giúp chúng tôi thấy được những 
tương đồng và dị biệt về nhân vật, kết cấu, motif,… giữa các dân tộc, đất nước, khu  
vực, châu lục. Phương pháp này sẽ  được vận dụng cách đặc biệt trong chương V –  

chương so sánh đối chiếu các type trong  Bảng tra cứu A – T với các type trong kiểu 
truyện. 
0.4.4. Phương pháp lịch sử ­ địa lý:  Phương pháp lịch sử ­ địa lý nhằm mô 
tả mô hình kết cấu của type truyện và các motif.
0.4.5. Phương pháp mô hình hóa: Trên cơ  sở  những phân tích, khảo sát về 
tên gọi, các dạng kết cấu, chúng tôi mô hình hóa thành các công thức, sơ đồ. 
0.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
0.5.1. Luận án phác họa chân dung kiểu truyện, là tiền đề  giúp các nhà khoa 
học tìm hiểu, nghiên cứu truyện loài vật nói chung – một tiểu loại vốn ít được quan  
tâm nghiên cứu cả ở Việt Nam và thế giới.
0.5.2. Việc so sánh kiểu truyện của các nước, các khu vực, châu lục để  phát 
hiện giá trị   độc  đáo riêng biệt cũng như  nét  chung mang tính toàn cầu của  kiểu  
truyện.
0.5.3. Việc luận án dành Chương 5 để so sánh, đối chiếu với Bảng tra cứu A –  
T sẽ cung cấp thêm tư liệu cho các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam đang và sẽ thực  
hiện việc xây dựng Bảng chỉ  dẫn về  hệ  thống type và motif truyện dân gian Việt  
Nam.
0.6.
KẾT CẤU LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án gồm 5 chương
­ Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận liên quan đến đề  
tài.
­ Chương 2: Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh.
­ Chương 3: Nhân vật của kiểu truyện con vật tinh ranh.
­ Chương 4: Một số motif thường gặp của kiểu truyện con vật tinh ranh.
­ Chương 5: Kiểu truyện con vật tinh ranh và Bảng tra cứu A – T.


4
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ 
LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 
1.1. TỔNG QUAN VỀ  TÌNH HÌNH SƯU TẦM, BIÊN DỊCH  VÀ TÌNH 
HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.1. Về tình hình sưu tầm, biên dịch các tập truyện 
Về tình hình sưu tầm trong nước: Sau CMT8, hoạt động sưu tầm, biên dịch trở 
thành một hoạt động mang tính khoa học. Bên cạnh các công trình sưu tầm truyện cổ 
người Việt còn có các tuyển tập truyện cổ của các dân tộc anh em. Một số công trình 
xuất hiện khá nhiều truyện kể  của kiểu truyện đang khảo sát như:   Truyện cổ  dân  
gian các dân tộc Việt Nam; Truyện cổ  các dân tộc thiểu số  miền Nam (2 tập); Kho 
tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập); bộ  Tổng tập Văn học dân gian người Việt (19 
tập, 20 quyển); và bộ  Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam (23 
tập),...
Về  công tác biên dịch: Từ những năm 60 của thế  kỷ trước, công tác biên dịch  
truyện cổ của các nước anh em cũng bắt đầu được chú ý. Liên quan đến đề tài nghiên 
cứu, bản dịch sớm nhất là Truyện dân gian Lào (1962), Truyện dân gian Trung Quốc 
(1963),… Từ những năm 80 ­ 90, công việc biên dịch càng được đẩy mạnh. Có thể kể 
đến những công trình nổi tiếng như: Truyện cổ Grim, Truyện cổ dân gian Bêlôrútxia, 
Truyện dân gian Nga, Truyện kể dân gian châu Phi,... và bộ tuyển tập Truyện cổ năm  
châu, tuyển tập Kho tàng truyện cổ  thế giới  cũng như  tuyển tập về  các nước trong  
khu vực Đông Nam Á của Ngô Văn Doanh. Gần đây, một số tác giả biên soạn, tuyển  
chọn truyện kể theo theo nhân vật, trong đó chúng tôi quan tâm đến một số tập truyện 
loài vật.

1.1.2. Về tình hình nghiên cứu
1. Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện [203] chia truyện kể thành 5 cụm lớn trong  
đó có cụm Truyện cổ tích động vật; trong phần này hai tác giả lại phân cấp và gọi tên 
các type truyện từ 1 – 69 là tiểu nhóm “con vật thông minh” (the clever animal). Trong 
Mục lục các motif của văn học dân gian  [205], Thompson sắp xếp các motif thành 23  



5
chương, trong đó chương K ­ Deceptions là tập hợp các motif nói về  mánh lừa dối,  
mưu mẹo,… Hai công trình này hướng đến mục đích “tra cứu” (index) nên chưa có 
cái nhìn toàn diện về kiểu truyện này. 
2. Bài Phân loại truyện kể về kẻ ranh mãnh ở châu Phi [209] bàn về việc phân 
loại; Còn bài viết Mưu mẹo: những nguyên tắc tra cứu [207] lại đưa ra những tiêu chí 
để tra cứu các truyện kể về con vật tinh ranh. Hướng tiếp cận này giúp người đọc dễ 
tra cứu (index) về hệ thống mưu mẹo trong truyện kể. Khảo sát truyện kể châu Phi, 
Kốtlia cho rằng truyện loài vật của châu lục này đã “hoàn toàn phát triển và định hình 
rõ rệt, với đặc điểm riêng của mình, với một cụm chủ  đề, với các kiểu nhân vật  
chính” [94, tr. 29]. 
3. Nôvicôva chú ý đến tính hai mặt của con vật tinh ranh. Trước đó, khi nghiên 
cứu về  truyện cổ  tích loài vật, Propp cho rằng trung tâm của truyện cổ  tích loài vật 
“là những con vật khôn ngoan” và thường là “kẻ chiến thắng nhờ ưu thế vượt trội đó  
của mình” [210, tr. 307]. 
4.   Nói   về   con   can   ­   chi   (mang,   hươu,   hoẵng)   trong   truyện   kể   Mã   Lai   –  
Inđônêxia, Đức Ninh cho rằng đó “là con vật nhỏ  bé nhưng thông minh, lanh lợi,  
nhanh nhẹn. Đây là hình tượng nhân vật đại diện cho trí thông minh của nhân dân”  
[136, tr. 92]. 
5.  Nguyễn Tấn Đắc phát hiện ra  ở  kiểu truyện con vật tinh ranh đặc điểm 
“không còn có yếu tố thần kỳ nào cả, mà chỉ có trí tuệ. Trí tuệ dân gian đã bịa ra hay  
nói đúng hơn đã sáng tạo ra tình huống oái ăm, lắt léo, khó gỡ, những “tình huống câu  
đố”, rồi trí tuệ  dân gian lại tự  mình gỡ  giải những tình huống đó một cách bất ngờ, 
dễ dàng, gây hứng thú đặc biệt cho người nghe” [44, tr. 392]. 
6.  Ở Việt Nam, Chu Xuân Diên – trong Từ điển văn học – bộ cũ đã khái quát 
về truyện loài vật là “có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với 
trí tưởng tượng nhân cách hóa giới tự nhiên” [125, tr. 453]. Năm 1990, giáo trình của 
Lê Chí Quế  và Hoàng Tiến Tựu đều xem truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại. Lê 

Chí Quế cho rằng kết cấu của kiểu truyện này là “sự chiến thắng của con vật bé hơn 
với con vật lớn hơn không phải bằng sức lực mà bằng trí ” [149, tr. 117]. Trong khi 
đó, Lê Trường Phát cũng nhận thấy rằng “nhân vật con thỏ nổi tiếng tinh khôn, hiểu  
biết về  nhiều lĩnh vực trong truyện của các dân tộc thiểu số, nhất là  ở  các dân tộc  
miền núi Trường sơn và các dân tộc Khơ  me Nam Bộ, Chăm…” [140, tr. 61]. Năm 
2002, Phạm Thu Yến cũng cho rằng: việc nghiên cứu "đặc điểm nội dung và nghệ 
thuật của thể loại này chưa được đầu tư đúng mức” [200, tr. 84]. 


6
7. Trong bài Dẫn luận truyện cổ tích các dân tộc thiểu số Việt Nam – Nguyễn 
Thị  Yên đã có những nhận định mang tính tổng kết đầu tiên về  tiểu loại này trong  
kho tàng truyện cổ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nhà nghiên cứu chú ý đến tính đối  
lập giữa con vật thông minh và các đối thủ. Còn Nguyễn Thị  Huế  khi giới thiệu về 
tiểu loại này đã cho rằng đây là kiểu truyện “không có nhân vật lý tưởng, không có  
kết thúc có hậu, không có công thức và mang tính chất hiện thực” [74, tr. 33]. 
8. Năm 2005, trong công trình Kiểu truyện con thỏ tinh ranh trong truyện cổ  
Việt Nam [40], chúng tôi đã phác thảo chân dung về  kiểu truyện  ở Việt Nam. Thỏ ­ 
nhân vật chính của kiểu truyện, luôn chủ  động đánh lừa, chơi khăm các nhân vật to  
lớn, có sức mạnh hơn nó. Phần thắng lợi trong những lần “chạm trán” thường thuộc  
về thỏ. 
9. Bên cạnh nội dung chính là các bản kể, một số tập truyện còn có các nhận 
định, khái quát rất đáng quý qua các  lời giới thiệu. Có thể  kể  đến lời giới thiệu của  
Huỳnh Ngọc Trảng [174], của Y Thi [161], của Võ Quang Nhơn [164],… 
10. Từ những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng  
thế  giới đã được chuyển dịch sang tiếng Việt, trong đó, phải kể  đến các công trình 
như  Thi pháp của huyền thoại, Tuyển tập V. Ia. Propp, Từ điển biểu tượng văn hóa  
thế  giới,… Về  phía các công trình nghiên cứu của các tác giả  trong nước, bên cạnh  
các bộ  giáo trình văn học dân gian, thời gian này cũng xuất hiện nhiều công trình  
nghiên cứu, nhiều chuyên luận như: Truyện cổ  tích người Việt – đặc điểm cấu tạo  

cốt truyện, Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif , Văn học dân gian ­ mấy vấn  
đề  phương pháp luận và thể  loại,… Gần đây, các nhà nghiên cứu có xu hướng tìm  
hiểu, nghiên cứu theo hệ đề tài, kiểu truyện. Một số công trình tiêu biểu như: Thạch  
Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, Nhân vật xấu  
xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam ,... Tóm lại, những công trình nghiên cứu đi  
trước đã giúp chúng tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài, cả ở những điều đã 
được giải quyết và những gì mà các tác giả  chưa đề  cập đến, chưa làm thỏa mãn  
người đọc.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.2.1. Tinh ranh ­ tên gọi của kiểu truyện/kiểu nhân vật chính 
Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu folklore đã có nhiều cách định danh khác 
nhau về  kiểu nhân vật/kiểu truyện con vật tinh ranh. A. Aarne gọi tập hợp các type  
truyện này là truyện con vật thông minh (the clever animal) [203]. S. Thompson gọi 
tập hợp các motif này là "deception" [205] với ý nghĩa là trò lừa dối, mưu mẹo gian 
dối, mánh khóe lừa bịp. Khái niệm này cũng được D. Paulme sử  dụng.  Kốtlia lại sử 


7
dụng khái niệm “láu cá”. A. Dundes đưa ra hai khái niệm "trompeur" (kẻ lừa đảo) và  
"trickster" (kẻ ranh mãnh) để  so sánh nhân vật này trong truyện kể  châu Phi và châu  
Mĩ. C. Braymond gọi đây là kiểu truyện “mưu mẹo” (ruse) [207].  Ở  Việt Nam, các 
nhà nghiên cứu đã đề  xuất các khái niệm khác nhau như: thông minh [149, tr. 117], 
tinh khôn, láu lỉnh [47, tr. 10],…  Nhìn chung, các khái niệm “thông minh”, "tinh khôn"  
mang ý nghĩa đề  cao, ngợi khen; các khái niệm “trò lừa dối”, “mưu mẹo gian dối”,  
“mánh khóe lừa bịp” hay “láu cá”, “ranh mãnh”, “lừa đảo”, “bịp bợm” lại mang ý  
nghĩa phê phán. Do vậy, các khái niệm này chưa làm thỏa mãn những điều mà chúng  
tôi “ngộ” được về kiểu nhân vật đang khảo sát. Chúng tôi đề xuất sử dụng khái niệm 
tinh ranh với nghĩa là “ranh mãnh và khôn ngoan” [157, tr. 789]. Khái niệm này diễn tả 
tương đối trọn vẹn tính “hai mặt” của nhân vật chính trong kiểu truyện. 
1.2.2. Kết cấu và kết cấu truyện kể dân gian

Kết cấu bao gồm bố  cục, tổ chức thời gian và không gian nghệ  thuật của tác 
phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện; nghệ 
thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho tác phẩm trở  thành một  
chỉnh thể  nghệ  thuật. Kết cấu  truyện kể  dân gian thường  ở  dạng đơn tuyến và có  
tính tuyến tính. Cốt truyện của truyện kể dân gian thường thông qua các sự  kiện và  
motif. Các truyện dân gian có dung lượng ngắn, kết cấu truyện sáng rõ và hoàn chỉnh. 
1.2.3. Nhân vật và nhân vật truyện kể dân gian
Nhân vật là yếu tố cơ  bản nhất, là công cụ, phương tiện để  tác giả  thể  hiện  
tư tưởng, chủ  đề  của tác phẩm. Các nhân vật trong truyện kể  đều là  nhân vật chức  
năng. Nhân vật này có đặc điểm, phẩm chất cố định, không có đời sống nội tâm, sự 
tồn tại và hoạt động của nó chỉ  nhằm thực hiện một số  chức năng trong truyện và  
trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật truyện kể dân gian tồn tại chủ yếu qua hành  
động, được nhận diện qua hành động. Kiểu nhân vật tinh ranh được hình thành trên 
cơ sở tư duy tiền duy lý của con người đã phát triển đến một mức độ nhất định. 
1.2.4. Motif
Motif là đơn vị tham gia cấu tạo cốt truyện. Khái niệm này “ chỉ một thành tố 
nhỏ của truyện, thường có thể tách rời được, có thể lắp ghép được, ít nhiều khác lạ,  
bất thường, đặc biệt, là yếu tố  đặc trưng của truyện kể  dân gian” [ 42, tr. 282]. Từ 
điển thuật ngữ Văn học định nghĩa motif “chỉ  những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được 
hình thành ổn định, bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ 
thuật, nhất là trong văn học nghệ  thuật dân gian” [58, tr. 136]. Nghiên cứu motif góp 
phần giúp người đọc hiểu cốt truyện cũng như  giúp làm sáng rõ đặc trưng của kiểu  
truyện, kiểu nhân vật.


8
1.2.5. Kiểu truyện
Aarne là người đầu tiên sử  dụng khái niệm “type”.  Ở  Việt Nam, trước đây,  
một số  nhà nghiên cứu sử  dụng các  thuật ngữ  tương   đương như  “dạng truyện”, 
“dạng thức”,... Sau này, các nhà nghiên cứu thống nhất sử  dụng thuật ngữ  type (típ  

truyện) – kiểu truyện khi nói đến nội dung này. Theo Thompson "type là những cốt  
kể  (narratives) có thể  tồn tại độc lập trong kho truyện truyền miệng. Dù đơn giản  
hay phức tạp, truyện nào được kể  như  một cốt kể  độc lập đều được xem là một 
type” [dẫn theo 42, tr.11].  
1.2.6. Bảng tra cứu A – T
Từ  thực tế  nghiên cứu, Aarne đã nhận thấy việc tập hợp văn bản truyện kể 
gặp nhiều khó khăn. Do vậy, cùng với sự giúp đỡ của một số đồng nghiệp, ông tiến  
hành sắp xếp lại các tài liệu này. Ban đầu, Bảng tra cứu A ­ T có tên là Verzeichnis  
der Marchentypen. Nội dung bao gồm các truyện kể  của Phần Lan và một phần của  
các nước Bắc Âu. Sau đó, Thompson đã sửa chữa và mở  rộng, đưa vào nghiên cứu 
truyện dân gian các nước Nam châu Âu, Đông Nam châu Âu và Ấn Độ. Chính vì có sự 
đóng góp chung như vậy nên người ta đã ghép tên của hai nhà bác học để  đặt tên cho 
công   trình.  Từ   năm   1961,   công   trình   có   tên   là  The   Types   of   the   Folktale  (A 
Classification and Bibliography) – dịch:  Các type truyện dân gian – phân loại và thư  
mục. Ngày nay, Bảng tra cứu đã trở  một tài liệu có  tính công cụ đối với giới nghiên 
cứu văn hóa dân gian – cách riêng là giới nghiên cứu văn học dân gian. 
 1.3. SỰ PHÂN BỐ, PHÂN LOẠI KIỂU TRUYỆN
1.3.1. Sự phân bố
Tuy mức độ  đậm nhạt khác nhau nhưng kiểu truyện này có mặt  ở  hầu khắp 
các châu lục, đất nước, dân tộc, ở nhiều địa phương khác nhau trong cũng như  ngoài  
nước. Các khu vực xuất hiện nhiều truyện kể  của kiểu truyện là Châu Phi, Nga và 
các nước Đông Âu,  Ấn Độ, các nước Đông Nam Á. Thống kê truyện kể  theo từng  
châu lục theo tỷ lệ tăng dần, chúng ta có trình tự sau:
­ Châu Úc và châu Đại Dương có 10 truyện kể, chiếm 2%.
­ Châu Mỹ có 19 truyện kể, chiếm 4%;
­ Châu Phi có 73 truyện kể, chiếm 14%;
­ Châu Âu có 77 truyện kể, chiếm 15%;
­ Châu Á xuất hiện nhiều truyện kể nhất: 333 truyện kể, chiếm 65%.
Ở  Việt Nam, chúng tôi tập hợp được 144 truyện (chiếm 43% của châu Á và 
28% thế giới), tập trung nhiều ở các dân tộc Khơ me, Mạ, Ê Đê, Cơ Ho, Chăm,… Sự 

phân bố này chứng tỏ truyện kể về kiểu truyện con vật tinh ranh rất phổ biến. M ỗi  


9
truyện của từng dân tộc, quốc gia đều chứa đựng nội dung phong phú và đều có dáng  
vẻ riêng, song chúng cũng có những nét tương đồng trong cách kết cấu, trong sự lặp  
đi lặp lại hoặc sự  phái sinh của các tình tiết. Do vậy, chúng tôi thực sự  có thể  tiến  
hành nghiên cứu những truyện kể này với tư  cách là một tập hợp những cốt truyện  
của một đề tài độc lập. 
1.3.2. Sự phân loại
Vận dụng lý thuyết của trường phái  Lịch  sử  ­  Địa  lý, Aarne   đã phân loại 
truyện dân gian theo type và motif. Cách phân loại này rất tiện lợi cho việc lập các  
bảng tra cứu, là cơ sở để đối chiếu truyện kể các nước với nhau. Propp thì cho rằng 
truyện cổ  tích về  loài vật có hai dạng: “Dạng thứ  nhất là những truyện được coi là  
hoàn chỉnh, đầy đủ các yếu tố như “thắt nút, cao trào, mở nút” và nhóm còn lại là các  
truyện tồn tại “như một quy luật, không bao giờ  trùng lặp với bất kỳ cốt truyện nào  
khác, tồn tại như  một tác phẩm riêng biệt, có nghĩa là trở  thành một type độc lập  
trong thể loại truyện cổ tích về loài vật” [210, tr. 310]. Paulme mã hóa,  đặt A là thành 
công cao trào  và D là  thất bại ­ thoái trào hoàn toàn  và dấu cộng (+) là  mưu mẹo  
thành công, dấu trừ  (­) là mưu mẹo thất bại, dấu (0) là không có mưu mẹo rồi phân 
chia các truyện kể thành sáu loại khả năng cho sườn chính của một câu chuyện về kẻ 
bịp bợm:
A+ Mưu mẹo của kẻ bịp thành công;  A­ Mưu mẹo đối phương thất bại
D+ Mựu mẹo đối phương thành công; D­ Mưu mẹo kẻ bịp thất bại
Ao Thành công mà không có mưu mẹo; Do Thất bại mà không có mưu mẹo
Một truyện đơn giản nhất là sự  kết hợp của hai tình tiết, hai mã hóa trên. Về 
lý thuyết, có 36 khả  năng diễn ra nhưng thực tế  có nhiều loại không bao giờ  xuất  
hiện như dạng mã hóa: Do Do hay D­ D­. 
Tiếp thu các luận điểm của Nôvicôva, Lê Trường Phát “phân lập nội dung 
thành những môtíp, tức thành những chi tiết mang ý nghĩa chủ  đề” [140, tr. 64] và 

“lập sơ   đồ   kết  cấu  cốt  truyện  bằng cách  căn  cứ   vào  những tình  tiết  hợp  thành  
truyện” [sđd, tr. 65].  Ở  kiểu phân loại thứ  2, theo ông có những hình thức kết cấu  
như: kết cấu đơn tiết, kết cấu đa tình tiết và hình thức kết cấu xâu chuỗi. Cách phân  
loại này cũng được Phạm Thu Yến tiếp thu [200, tr. 87 ­ 88]. 
Trước đây, dựa vào đặc trưng của mưu mẹo, chúng tôi cũng đã phân loại kiểu  
truyện con vật tinh ranh thành nhóm truyện trợ thủ và nhóm truyện chơi khăm. 
Bài viết  Mưu mẹo: những nguyên tắc tra cứu  [207]  của Braymond ít nhiều 
chịu  ảnh hưởng cách phân loại của Paulme. Braymond phân loại dựa vào mục đích 
mà cái bẫy (mưu mẹo) hướng đến, theo đó, mưu mẹo có hai mục tiêu chính: lừa để 


10
mà lừa (hoặc vì một mục tiêu không xác định) và lừa để  đạt các mục tiêu như  cải 
thiện số  phận của mình (hay người cùng phe) hoặc để  tự  bảo vệ  mình (hay người  
cùng phe). 
Chúng tôi cho rằng khi phân loại phải bám vào đặc điểm nổi trội của kiểu 
truyện là các mưu mẹo. Nhưng mưu kế  này được con vật tinh ranh dùng cho nhiều  
kiểu  nhân vật với nhiều mục đích khác nhau; và  ứng với từng mục đích của mưu 
mẹo thì đặc điểm nhân vật, các chủ  đề, motif cũng có nhiều thay đổi. Xét về  một 
khía cạnh khác, chúng ta thấy, các mưu mẹo vừa hướng đến  chủ  thể ­ con vật tinh 
ranh, vừa hướng cả về   khách thể ­ đối thủ và các nhân vật khác. Mưu kế  hướng về 
chủ thể thể hiện trong hành động tự vệ cũng như trong việc đánh lừa đối thủ để  thủ 
lợi cho bản thân. Mưu kế  hướng về   khách thể  cũng chia thành hai nhóm: một nhóm  
đứng ra bảo vệ cho nhân vật nạn nhân (trợ thủ); nhóm còn lại nhằm mục đích chơi  
khăm đối thủ ­ các con vật khác. Tựu trung, mưu mẹo hướng đến bốn mục đích là:  tự 
vệ, thủ lợi, chơi khăm và trợ thủ. 
 Tự vệ
    Chủ thể
Thủ lợi 
Mưu kế 

Chơi khăm
    

      Khách thể
Trợ thủ

Về  số  lượng nhân vật,  ở  nhóm truyện  tự  vệ,  nhóm truyện  thủ  lợi  và nhóm 
truyện chơi khăm thường có nhân vật tinh ranh và nhân vật  đối thủ tham gia vao diễn 
tiến truyện. Trong nhóm truyện trợ thủ, ngoài hai nhân vật trên, có thêm nhân vật nạn  
nhân. Trong truyện dân gian châu Phi còn có nhân vật trợ  thủ  tư  tế. Như  vậy, kiểu 
truyện này gồm có nhân vật tinh ranh, nhân vật đối thủ, nhân vật nạn nhân và nhân 
vật trợ thủ tư tế.
Chúng tôi xem các đặc điểm trên như  là những  tiêu chí  để  phân loại kiểu 
truyện con vật tinh ranh thành bốn nhóm chính: 
­ Nhóm truyện tự vệ: có 168 truyện, chiếm 33%
­ Nhóm truyện thủ lợi: có149 truyện, chiếm 29 %
­ Nhóm truyện chơi khăm: có 77 truyện, chiếm 15 % 


11
­ Nhóm truyện trợ thủ: có 118 truyện, chiếm 23%.
Tiểu kết
Kiểu truyện con vật tinh ranh là kiểu truyện mà  tính duy lý chiếm  ưu thế, nó 
chi phối quá trình hình thành cốt truyện, xây dựng nhân vật. Nhân vật chính thường  
sử  dụng các mưu kế  để  đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ  các nhân vật khác. Tuy 
được biết đến khá sớm (1865), tình hình sưu tầm, biên dịch cũng nhiều, nhưng đến 
nay  kiểu truyện này vẫn chưa   được nghiên  cứu một  cách  thấu  đáo. Từ  103 tập  
truyện, tuyển tập truyện, chúng tôi tập hợp được 512 truyện kể. Kiểu truyện này 
xuất hiện  ở  hầu khắp các châu lục, dân tộc, đất nước,… trong đó xuất hiện nhiều 
nhất là các khu vực như châu Phi, Nga và các nước Đông Âu, khu vực Đông Nam Á,

… Căn cứ vào các mưu mẹo, mục đích mưu mẹo, số nhân vật tham gia vào diễn tiến  
truyện, các motif, chủ  đề,… các truyện kể  được chia thành bốn nhóm: nhóm tự  vệ, 
nhóm  thủ  lợi, nhóm  chơi khăm  và nhóm  trợ  thủ. Liên quan và để  phục vụ  cho quá 
trình nghiên cứu, chúng tôi lần lượt giới thiệu một số  khái niệm như   tinh ranh, kết  
cấu, nhân vật, motif, kiểu truyện, Bảng tra cứu A ­ T…


12
CHƯƠNG 2
KẾT CẤU CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
2.1. VỀ TÊN GỌI CỦA TRUYỆN
Tên gọi của truyện tuân thủ hai yêu cầu tối thiểu của việc đặt tên là  ít trùng 
lặp (để phân biệt truyện này với truyện khác và để khỏi lẫn lộn) và phải có quan hệ 
với chủ đề của kiểu truyện ở một phạm vi, mức độ nhất định.
2.1.1. Cách gọi tên theo mối quan hệ  của các nhân vật:  Tên truyện là tên 
gọi mối quan hệ  của nhân vật chính với các nhân vật khác trong truyện . Công thức 
của cách gọi tên này như sau:
Tên nhân vật chính + “và” + Tên các nhân vật khác
2.1.2. Cách gọi tên theo công việc mà nhân vật tinh ranh thực hiện:   Tên 
truyện là tên sự việc chủ yếu mà con vật tinh ranh thực hiện. Công thức khái quát của 
cách gọi tên này là:
Tên nhân vật chính + Tên công việc (+ Tên nhân vật bị chơi khăm/được giúp 
đỡ)
2.1.3. Cách gọi tên theo tính cách của nhân vật: Tên truyện là tên nhân vật 
chính cộng với tính từ chỉ tính cách, phẩm chất của nhân vật. Công thức của dạng gọi 
tên này là:
Tên nhân vật chính + Tính từ chỉ tính cách của nhân vật
2.1.4. Cách gọi tên theo kiểu giải thích nguyên nhân: Tên truyện là những 
câu hỏi về một đặc điểm nào đó của con vật tinh ranh hoặc các con vật khác. 
2.1.5. Cách gọi tên theo tên nhân vật tinh ranh:  Tên truyện gồm một cấu tố 

cấu thành, đó là tên của con vật tinh ranh hoặc tên loài của con vật tinh ranh. 
2.2.  CÁCH MỞ ĐẦU TRUYỆN
Phổ biến nhất là mở đầu bằng cụm từ  ngày xửa ngày xưa. Cách mở đầu này 
mở  ra “trường cổ  tích”, mời gọi người nghe nhập cuộc để  cùng tưởng tượng, sáng 
tạo. Truyện của châu Mỹ, CU&CĐD thời gian nghệ thuật còn được đẩy lùi đến cái  
“thuở ban đầu” hay “khi tạo lập ra trái đất”. Cách mở đầu này mang âm hưởng thần  
thoại, là dấu vết cho thấy sự giao thoa thể loại . Truyện dân gian châu Phi có cách mở 
đầu bằng thông báo về nạn đói. Không gian truyện là khu rừng, cánh đồng. Liền sau 


13
phần trên, dân gian trực tiếp dẫn vào truyện, giới thiệu trực tiếp tính hình, đặc điểm 
của nhân vật. 
2.3.  KẾT CẤU CỦA CÁC NHÓM TRUYỆN 
2.3.1. Kết cấu nhóm truyện tự vệ
Nhân vật tinh ranh phải đối mặt với những thử thách, do vậy nó dùng mưu trí 
để  tự  vệ. Sơ đồ nhóm truyện tự  vệ như  sau: Bị đe dọa bởi nhân vật đối thủ/gặp 
tai họa  Nhân vật tinh ranh dùng mưu kế để tự vệ.
2.3.2. Kết cấu của nhóm truyện thủ lợi
2.3.2.1. Dạng xác định chủ  sở  hữu. Có miếng mồi/quyền lợi nhưng chưa xác 
định, chưa có chủ  nhân. Nhân vật tinh ranh dùng mưu mẹo để  giành quyền sở  hữu.  
Sơ đồ kết cấu như sau: Miếng mồi/quyền lợi chưa xác định chủ sở hữu  Nhân 
vật tinh ranh và nhân vật đối thủ cạnh tranh miếng mồi/quyền lợi   Nhân vật 
tinh ranh giành được bằng mưu mẹo.
2.3.2.2. Dạng  giành giật quyền sở  hữu.  Miếng ăn/quyền lợi thuộc sở  hữu 
của đối thủ  hoặc  sở  hữu chung. Nhân vật tinh ranh dùng mưu kế  để  giành miếng 
ăn/quyền   lợi.   Sơ   đồ  kết   cấu   như   sau:  Miếng   mồi/quyền  lợi  thuộc   sở   hữu 
chung/sở hữu của đối thủ   Nhân vật tinh ranh dùng mưu mẹo và cướp được 
miếng mồi/giành được quyền lợi.
2.3.2.3. Dạng hợp tác… bất công. Nhân vật tinh ranh và đối thủ hợp tác sản  

xuất. Nhân vật tinh ranh khéo léo gợi ý cho đối thủ  chọn phần không ăn được. Nó 
giành được phần có lợi.  Kết cấu như  sau:  Nhân vật tinh ranh và đối thủ  thỏa 
thuận hợp tác sản xuất  Cùng nhau canh tác  Phân chia hoa lợi: Nhân vật 
tinh ranh hưởng lợi; Nhân vật đối thủ thất bại.
2.3.2.4.   Dạng  tái   lập   quyền   sở   hữu.  Nhân   vật   tinh   ranh   đang   sở   hữu 
miếng ăn/quyền lợi nhưng bị nhân vật đối thủ cướp mất  Nhân vật tinh ranh 
dùng mưu kế để giành lại quyền sở hữu. 
2.3.3. Kết cấu của nhóm truyện chơi khăm
2.3.3.1. Dạng chơi khăm đơn giản là: Nhân vật tinh ranh xuất hiện và dùng 
mưu kế để chơi khăm đối thủ. 
2.3.3.2.  Dạng  chơi khăm bằng sự  lôi cuốn.  Nhân vật tinh ranh đưa “miếng 
mồi” làm cho nhân vật đối thủ  thèm muốn được sở  hữu. Khi nhân vật đối thủ  sử 
dụng thì cũng đồng nghĩa với việc nó bị chơi khăm.  Sơ đồ kết cấu như sau: Nhân vật 
tinh ranh đưa miếng mồi  Nhân vật đối thủ ước ao được sở hữu/sử dụng  
Nhân vật đối thủ bị chơi khăm. 


14
2.3.3.3.  Dạng  “kẻ  thứ  ba bị  lừa”  có hai nhân vật đối thủ  cùng tham gia vào 
diễn tiến truyện. Để  chơi khăm đối thủ, nhân vật tinh ranh phải lừa thêm “kẻ  thứ 
ba”; và vô tình “kẻ thứ  ba” giúp nhân vật tinh ranh đạt được mục đích. Kết cấu như 
sau: Nhân vật tinh ranh lừa “kẻ thứ ba”   “Kẻ thứ ba” (vô tình) giúp nhân vật 
tinh ranh chơi khăm đối thủ.  Dạng này còn có  trường hợp đặc biệt, đó là  trong  
cùng một thời điểm, cùng một mưu kế, nhân vật tinh ranh đã chơi khăm hai đối thủ 
(xuất hiện khá nhiều trong trò chơi kéo co ­ type 291).
2.3.3.4. Dạng đôi co, trả  đũa có hai nhân vật tinh ranh tham gia vào diễn tiến 
truyện. Nhân vật tinh ranh chơi khăm đối thủ và bị đối thủ trả đũa. Kết cấu như sau: 
Nhân vật tinh ranh chơi khăm đối thủ  Nhân vật đối thủ “trả đũa”. 
2.3.4. Kết cấu của nhóm truyện trợ thủ
2.3.4.1. Dạng kết cấu có một nhân vật trợ  thủ: Nhân vật đối thủ  gây nên  

những thử  thách cho nhân vật nạn nhân. Sự  xuất hiện của bộ  đôi nhân vật này tạo 
tính huống truyện  cho nhân vật tinh ranh ­ kẻ  trợ  thủ  xuất hiện. Kết cấu như  sau:  
Nhân vật đối thủ  và nhân vật nạn nhân xuất hiện tạo tình huống truyện   
Nhân vật tinh ranh xuất hiện và giúp nhân vật nạn nhân vượt qua tai họa; nhân 
vật đối thủ thất bại.
2.3.4.2. Dạng kết cấu có hai nhân vật trợ  thủ.  Dạng này có sự  hoán đổi giữa  
nhân vật nạn nhân và nhân vật trợ thủ: Nhân vật nạn nhân của tình huống truyện này  
sẽ  là nhân vật trợ  thủ  của tình huống truyện kế  tiếp. Sơ đồ  kết cấu như  sau: Nhân 
vật tinh ranh giúp nhân vật nạn nhân vượt qua tai họa và (do vậy) bị gặp nạn  
 Nhân vật nạn nhân giúp nhân vật tinh ranh vượt qua tai nạn.
Như vậy,  kiểu truyện này có 11 sơ đồ kết cấu. Không có truyện kể của dân 
tộc, quốc gia, châu lục nào có đầy đủ  các dạng kết cấu trên. Riêng truyện kể  của  
Việt Nam xuất hiện 9/11 dạng kết cấu (thiếu dạng  kết cấu hợp tác xã… bất công và 
kết cấu đôi co trả đũa). Xét trong từng dạng kết cấu, chúng ta thấy rằng các kết cấu  
khá “đơn giản” [74, tr.33; 186, tr.52], “không phức tạp, ít biến cố” [138, tr.281]. Diễn 
tiến truyện diễn ra nhanh chóng và được dẫn dắt bởi các mưu kế của nhân vật chính.  
Đặt trong mối tương quan với nhân vật chính, cũng như  trong tương quan với kiểu  
truyện, kết cấu trên góp phần bộc lộ chủ  đề  và tư  tưởng tác phẩm, triển khai, trình  
bày hấp dẫn cốt truyện. Bởi một mặt nó phản ánh đúng tính cách ranh mãnh, giỏi ứng 
biến của nhân vật tinh ranh, mặt khác cũng góp phần thể hiện nghệ thuật kể chuyện  
của dân gian. Ngoài ra, cũng cần phải nói thêm rằng   các sơ  đồ  kết cấu trong kiểu  


15
truyện luôn có sự  vận động, giao thoa. Các sự  kiện trong truyện nối tiếp nhau một  
cách liên tục, nhanh chóng.  Các tình huống truyện trong kiểu truyện rất  đa dạng, 
phong phú. Phần lớn tình huống truyện là do nhân vật đối thủ  tạo nên; Và nhân vật 
tinh ranh là kẻ gỡ giải. Nhưng cũng có trường hợp nhân vật tinh ranh là kẻ đưa ra tình  
huống truyện (thắt nút) và cũng chính nó là kẻ mở nút. 
2.4. VỀ KẾT THÚC TRUYỆN

Mỗi đơn vị truyện là một mẩu kể ngắn nhưng nhiều lúc một truyện là tập hợp  
xâu chuỗi của  nhiều  mẩu truyện.  Kết thúc của truyện này là mở  đầu của truyện 
khác. Kết thúc của kiểu truyện là kết thúc mở. Xét trong từng mẩu truyện lại thấy  
nhiều kết thúc khác nhau như  kết thúc kiểu “hậu tạ” (nhân vật nạn nhân “hậu tạ” 
nhân vật tinh ranh vì đã được cứu),  kết thúc mang tính giáo huấn   (nhân vật tinh 
ranh gây hại cho các con vật khác nên nếm mùi thất bại, thể hiện triết lý quả báo của  
dân gian),  kết thúc mang tính giải thích nguyên nhân  (nêu ra một đặc điểm sinh 
học nào đó của con vật tinh ranh cũng như  của các con vật khác để  chứng minh  
truyện kể là có thật, có cơ sở). 
Tiểu kết
Kiểu truyện nhân vật tinh ranh có năm cách gọi tên khác nhau. Các cách gọi tên 
này tuân thủ  quy luật của phương pháp sáng tác dân gian, đó là ít trùng lặp và tên  
truyện phải có quan hệ với chủ đề của kiểu truyện ở một mức độ nhất định. 
Kiểu truyện này có các cách mở  đầu như   ngày xửa ngày xưa; thuở  ban đầu 
(chủ  yếu xuất hiện trong truyện kể  châu Mỹ, CU&CĐD);  hay mở  đầu bằng việc 
thông báo về  nạn đói (châu Phi). Sau câu mở  đầu là phần giới thiệu nhân vật. Các 
hành động của nhân vật thường diễn ra tại không gian của rừng núi,  đồng cỏ. Kiểu 
truyện này có kết thúc mở, không có kết thúc có hậu một cách rõ nét. Trong từng mẩu 
chuyện có nhiều cách kết thúc khác nhau như: kết thúc kiểu hậu tạ, kết thúc mang 
tính giáo huấn, kết thúc mang tính giải thích nguyên nhân. 
Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh khá đơn giản, thường chỉ  gồm vài  
ba tình tiết nhưng trong từng nhóm truyện lại có những sơ  đồ  kết cấu khác nhau.  
Chúng tôi đã lập ra 11 sơ đồ kết cấu của kiểu truyện  (1 kết cấu của nhóm truyện tự 
vệ, 4 kết cấu của nhóm truyện thủ  lợi, 4 kết cấu của nhóm truyện chơi khăm và 2  
kết cấu của nhóm truyện trợ  thủ). Không có truyện kể  của dân tộc, quốc gia, châu  
lục nào có đầy đủ  các dạng kết cấu trên. Riêng truyện kể  của Việt Nam xuất hiện  
9/11 dạng kết cấu. Diễn tiến truyện diễn ra liên tục, nhanh chóng.  Kết cấu trên góp  


16

phần bộc lộ chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Một mặt nó phản ánh tính ranh mãnh, ứng  
biến của nhân vật tinh ranh, mặt khác góp phần thể hiện nghệ thuật kể chuyện của  
dân gian.Các sơ  đồ  kết cấu cũng chỉ  mang tính tương đối, ranh giới giữa các nhóm  
truyện không thực sự  rạch ròi. Nhiều khi kết cấu các nhóm truyện có sự  vận động,  
giao thoa với nhau. Các sự  kiện trong truyện nối tiếp nhau một cách liên tục, nhanh 
chóng. Các tình huống truyện trong kiểu truyện rất đa dạng, phong phú.  Phần lớn tình 
huống truyện là do nhân vật đối thủ  tạo nên; Và nhân vật tinh ranh là kẻ  gỡ  giải.  
Nhưng cũng có trường hợp nhân vật tinh ranh là kẻ  đưa ra tình huống truyện (thắt  
nút) và cũng chính nó là kẻ mở nút.


17
CHƯƠNG 3
NHÂN VẬT CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
3.1. NHÂN VẬT TINH RANH
Nhân vật tinh ranh có nguồn gốc từ nhân vật văn hóa – nhân vật trung tâm của  
thần thoại mang tính nguyên hợp nguyên thủy. Đây là những con vật mà trong quan 
niệm dân gian được xem là thông minh. Nó dùng mưu mẹo để  đánh lừa, chơi khăm  
hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Nhân vật này mang tính hai mặt (lưỡng tính): Nó tích 
cực khi dùng mưu kế chống lại kẻ bề trên, giúp đỡ các con vật khác; nhưng nó không 
đáng yêu khi lạm dụng mưu mẹo để  chơi khăm “bạn bè”, thậm chí là người thân.  
Những hạn chế  này không phải là “tiêu biểu đối với folklore” nhưng mặt khác, nó  
càng làm cho nhân vật tinh ranh “có tính thực tế hơn”; và do vậy tạo nên sự hấp dẫn  
hơn cho kiểu truyện.  Ở từng khu vực, châu lục khác nhau sẽ  có những con vật tinh  
ranh điển hình. Chẳng hạn như  con thỏ  xuất hiện nhiều trong truyện kể  của Việt  
Nam, Lào và Campuchia; con cáo xuất hiện nhiều trong truyện kể  của Nga và các  
nước   Đông   Âu;   Con   nhện   xuất   hiện   nhiều   trong   truyện   dân   gian   châu   Phi;   Con 
hươu/hoẵng xuất hiện nhiều trong truyện dân gian Mã Lai – Inđônêxia,… Nghệ thuật 
xây dựng nhân vật trong các truyện kể  của châu Phi, châu Mỹ, châu Úc và châu Đại  
Dương còn chịu ảnh hưởng thi pháp huyền thoại khá đậm nét.

3.2. NHÂN VẬT ĐỐI THỦ
Nhân vật đối thủ  là chủ  nợ, là địch thủ, là nạn nhân hay là kẻ  gây nên những 
thử  thách cho nhân vật tinh ranh. Hay nói cách khác, đây là đối tượng, là những con  
vật mà các mưu kế hướng đến. Nhân vật này xuất hiện trong thế đối kháng với nhân 
vật tinh ranh. Ở từng khu vực, châu lục khác nhau sẽ có những con vật đối thủ điển 
hình. Chẳng hạn như con hổ xuất hiện nhiều trong truyện kể khu vực Đông Nam Á,  
con sói, con gấu, con sư  tử  xuất hiện nhiều trong truyện kể  của Nga và các nước 
Đông Âu, con báo xuất hiện chủ  yếu trong truyện dân gian châu Phi,…  Bên cạnh 
những nhân vật là con vật, kiểu nhân vật này còn có sự xuất hiện của con người, đó 
là những chủ buôn, chủ làng, lão nhà giàu hay ông cậu. Nhìn chung, nhân vật đối thủ 
là những kẻ hống hách, độc ác, tham lam nhưng vô ơn,  nóng nảy, khờ dại, ngu ngốc. 
Trong tương quan với nhân vật tinh ranh, nhân vật đối thủ là kẻ có ngoại hình to lớn,  
có sức mạnh vượt trội nhưng lại ngu dốt. Hay nói theo cách nói của dân gian Việt,  
đây là con vật  hữu dũng vô mưu. Trong những lần đối đầu với nhân vật tinh ranh,  
nhân vật đối thủ thường là kẻ bại trận.


18

3.3. NHÂN VẬT NẠN NHÂN
Nhân vật nạn nhân  là những con người, con vật phải hứng chịu những thử 
thách, tai họa mà nhân vật đối thủ gây ra. Đây là những kẻ hiền lành, chăm chỉ, không 
có địa vị, có hoàn cảnh đáng thương. Nhân vật nạn nhân thường xuất hiện trong  
những truyện có ba nhân vật tham gia vào diễn tiến truyện: Nhân vật đối thủ và nhân  
vật nạn nhân xuất hiện  tạo tình huống truyện  để  nhân vật trợ  thủ  xuất hiện. Con 
người với nhiều thành phần, độ  tuổi khác nhau xuất hiện nhiều trong kiểu nhân vật  
này. Đó là những con người hiền lành, tốt bụng, thật thà – thậm chí là nhẹ  dạ  như 
cậu học trò, ông sãi, đạo sĩ, ông thợ săn, ông tiều phu,… Xuất hiện nhiều nhất là các 
trẻ mồ côi và người nông dân. Sự xuất hiện khá nhiều của con người trong kiểu nhân  
vật này là điều đặc biệt và ấn tượng. Điều này một lần nữa nói lên rằng  kiểu truyện  

là một cách thể hiện sự đồng cảm với những kẻ thấp cổ bé miệng nhất trong xã hội , 
“là một hình thức thể  hiện sự  khôn ngoan vượt trội của kẻ  yếu so với kẻ  mạnh”.  
Nhân vật nạn nhân hay gặp nhất trong truyện dân gian châu Phi là cô vợ  nhện.  Việc 
nhân vật tinh ranh dùng mưu mẹo lừa chính người thân (vợ con) là một điểm khá đặc  
biệt trong truyện dân gian châu Phi. 
3.4. NHÂN VẬT TRỢ THỦ TƯ TẾ
Thông thường, nhân vật trợ  thủ trong truyện kể các nước, các khu vực là con 
vật – con vật tinh ranh. Trong truyện dân gian châu Phi còn xuất hiện một nhân vật 
trợ thủ khác, đó là nhân vật trợ thủ tư tế. Đây là các nhân vật thuộc chức sắc “tư tế” 
như  phù thủy, thầy lang, thầy bói,… là những con người “làm công việc chữa bệnh 
và những việc bói toán, tiên tri khác”.  Nhân vật này biết sử  dụng phép thần thông,  
ma thuật để  giúp đỡ  nhân vật nạn nhân. Có khi, nhân vật trợ  thủ  tư  tế  có những  
“chất bột đen” thần kỳ để giúp nhân vật nạn nhân trừng trị đối thủ. Có khi, nhân vật  
nạn nhân tìm đến nhân vật trợ thủ tư tế để  xin những lời khuyên, nhằm tìm một lối 
thoát, một giải pháp cho bế tắc đang gặp phải. Có khi nhân vật tìm đến nhân vật trợ 
thủ tư tế để xem vận mạng của mình. Cũng có khi nhân vật trợ thủ tư tế tìm đến để 
giúp đỡ  nhân vật nạn nhân. Nhờ  sự  giúp đỡ  của nhân vật trợ  thủ tư  tế  mà nhân vật 
nạn nhân vượt qua khó khăn, thử  thách. Nhân vật trợ  thủ  tư  tế còn  chịu  ảnh hưởng  
của thi pháp huyền thoại. Chính những điều này đã góp phần làm nên nét đặc sắc của  
hệ  thống nhân vật của kiểu truyện trong truyện dân gian châu Phi cũng như  kiểu  
truyện này.

***


19
Tuy được dụng công trong việc mô tả ngoại hình, tập tính loài vật nhưng khi  
sáng tạo những truyện kể  này, dân gian không dừng lại  ở  những truyện loài vật mà 
nội dung chính  hướng đến là những vấn đề  của con người. Ban đầu, ý nghĩa  tư 
tưởng, giá trị  nhân văn của kiểu truyện hướng đến mục đích mưu sinh – mong cho  

người đi săn được “thành công”; khi xã hội thị tộc tan rã, kiểu truyện là nơi dân gian –  
nhất là người nông dân và những kẻ  thấp cổ  bé miệng  gởi gắm mơ   ước về một xã 
hội bình đẳng, dân chủ.
TIỂU KẾT
Kiểu truyện này có 2 nhân vật chính tham gia vào diễn tiến truyện, đó là nhân 
vật tinh ranh và nhân vật đối thủ. Nhân vật tinh ranh có nguồn gốc từ  nhân vật văn  
hóa – nhân vật trung tâm của thần thoại mang tính nguyên hợp nguyên thủy. Nhân vật 
này dùng mưu mẹo để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Nhân vật 
này mang tính hai mặt. Nhân vật đối thủ  là những kẻ  gây nên những thử  thách cho  
nhân vật tinh ranh. Đây là những kẻ  hữu dũng vô mưu. Bên cạnh những nhân vật là 
con vật, kiểu nhân vật này còn có sự xuất hiện của con người, đó là những chủ buôn, 
chủ làng, lão nhà giàu hay ông cậu. 
Trong nhóm truyện trợ  thủ còn xuất hiện nhân vật nạn nhân – những kẻ  nhỏ 
bé, hiền lành nhưng phải chịu những thử thách do đối thủ  tạo nên; Truyện dân gian  
châu Phi còn có sự  xuất hiện của nhân vật trợ  thủ  tư  tế (phù thủy, thầy bói,… ), là 
nhân vật sử dụng ma thuật để giúp đỡ nhân vật nạn nhân. 
Các nhân vật  trong kiểu truyện con vật tinh ranh  xoay quanh tuyến nhân vật 
ngu dốt, to lớn, hung dữ và thông minh, nhỏ bé, hiền lành. Phần thắng trong mối quan  
hệ  này thường nghiêng về  nhân vật tinh ranh – con vật nhỏ bé, yếu đuối hơn. Kết  
thúc này khẳng định chiến thắng của lý trí. Qua việc xây dựng tuyến nhân vật này,  
dân gian cũng  nói lên sự  đồng cảm của dân gian với những con người nhỏ  bé, có  
hoàn cảnh đáng thương, qua đó thể hiện  ước mơ về một xã hội bình đẳng, dân chủ. 
Như  vậy, hệ  thống nhân vật trong kiểu truyện con vật tinh ranh khá phong phú, đa 
dạng. Nó vừa mang đặc điểm chung của kiểu truyện, lại vừa có những đặc điểm 
riêng của từng dân tộc, từng quốc gia, khu vực, châu lục.


20

CHƯƠNG 4

MỘT SỐ MOTIF THƯỜNG GẶP TRONG KIỂU TRUYỆN 
CON VẬT TINH RANH

4.1. MOTIF SUY NGUYÊN
Motif suy nguyên là lý giải của dân gian để "tìm cho đến nguyên nhân”  về một 
tập tính hay một đặc điểm nào đó của các con vật.  Trong kiểu truyện này, suy nguyên 
là những biến đổi, biến hóa liên quan đến mưu mẹo chứ không có những hóa thân, ít  
yếu tố thần kỳ. Các dạng biến hóa hay xuất hiện là: Biến hóa do cam kết của cuộc  
thi tài, biến hóa do kết quả  của mưu mẹo, biến hóa do hậu quả  của mưu kế, biến  
hóa do dấu vết của thử  thách mà con vật tinh ranh đã vượt qua. Các biến hóa này 
nhằm giải thích một đặc điểm ngoại hình hay một tập tính nào đó của con vật.  Các 
truyện có motif này thường có cách gọi tên là một câu hỏi (cách gọi tên thứ  tư  –  
2.1.4); Và  ứng với nó thì kết thúc truyện hướng đến việc giải thích nguyên nhân – 
cách kết thúc thứ tư (mục 2.4.4).
4.2. MOTIF THI TÀI
Thi tài là một “sân chơi”để nhân vật tinh ranh thể hiện sự thông minh. Xuất  
hiện nhiều là các cuộc thi liên quan đến sức mạnh thể chất (thi xô cây đổ, thì thi dẫm 
lún đất, thi nhấc chân voi, thi nhảy, thi bay cao, thi đánh nhau,... ), cuộc thi về  ăn  
uống, thi về sự khéo léo (bắn cung, thi tạo ra lửa...). Hình thức thi tài được nhắc đến  
nhiều nhất là cuộc thi chạy nhanh giữa thỏ, cáo, hoẵng với ốc/sên hoặc rùa. Phần lớn  
các môn thi không phải là sở  trường của nhân vật tinh ranh nhưng nhờ  mưu trí, kết 
quả chung cuộc lại thuộc về con vật này. 
4.3. MOTIF PHÂN XỬ
Motif này gồm phần “kiện” là sự  mâu thuẫn, là tình huống truyện có sự  tham  
gia của nhân vật đối thủ  và nhân vật nạn nhân; Phần “xử” được thể  hiện bởi các  
mưu mẹo của nhân tinh ranh.  Ứng với từng mâu thuẫn khác nhau thì sẽ  có những 
cách phân xử  khác nhau. Chẳng hạn, với dạng phân xử   tranh chấp quyền sở hữu tài  
sản thì quan tòa lấy việc vô lý tương tự để bác bỏ điều vô lý được chấp nhận.  Phần 
lớn, các dạng xử kiện xuất hiện khi mà xã hội đã có sự phân hóa giai cấp. Qua motif 
này, chúng ta thấy được trí tuệ  cũng như  sự  nuối tiếc của dân gian về  một xã hội 

bình đẳng, công bằng.
4.4. MOTIF HOÃN BINH
Hoãn binh là kế  làm “chậm lại khoan đánh”. Nó được xem như  là một giải  
pháp tự vệ, là khâu trung gian của các kế tiếp theo. Có khi hoãn binh là cách cầu viện, 


21
là cách phát tín hiệu tìm kẻ  trợ  thủ. Đôi khi, nhân vật tinh ranh hoãn binh bằng cách  
yêu cầu đối thủ  thực hiện trước một nhiệm vụ  khác hoặc có khi hoãn binh như  là 
một cách giả  vờ  thể  hiện sự  cộng tác, giúp đỡ  đối thủ  thực hiện ý đồ.  Motif hoãn 
binh  còn có dạng khá đặc biệt là giả  chết/giả  bị  thương để  đánh lạc hướng   giúp 
đồng minh trốn thoát. 
4.5. MOTIF GIẢ MẠO
Giả mạo là đóng vai nhân vật khác để tự vệ hoặc để giúp đỡ các con vật khác 
thoát khỏi tai nạn. Motif giả mạo gồm dạng: Giả mạo thành vật lạ  (xuất hiện nhiều 
trong truyện kể châu Phi), sự giả giọng, mạo xưng là kẻ có uy quyền,… Các cuộc giả 
mạo đều do con vật tinh ranh “sắm vai”, “đạo diễn”, nó tạo nên sự khiếp sợ. Vấn đề 
này có nguồn gốc từ  dân tộc học:   Đối với người nguyên thủy, người bộ  lạc khác  
được coi là “kẻ  lạ”, bọn ăn thịt người, thù địch với bộ  lạc. Việc giả mạo thành vật  
lạ, giả  mạo là kẻ  có uy quyền đã đánh vào tâm lý hiếu chiến nhưng nhát gan của 
nhân vật đối thủ. Bên cạnh đó, cũng có việc giả mạo tạo nên sự thích thú, cuốn hút. 
4.6. MOTIF XUI BẨY
Xui bẩy là hành vi xui khiến kẻ khác làm bậy, làm hại đối thủ. Một số dạng 
xui bẩy như: Xui nguyên giục bị. Nhân vật tinh ranh phao tin khiến các đối thủ  nghi 
ngờ lẫn nhau để  chúng triệt tiêu lẫn nhau. Xuýt chó vô bụi. Đang gặp nạn, nhân vật 
tinh ranh dụ đối thủ vào một mưu mẹo khác. Kiểu xui bẩy này thường có một nhân 
vật tham gia vào diễn tiến truyện. Ngoài ra, motif này còn có dạng xui bẩy bằng cách  
làm quân sư, xúi người làm hỏng dụng cụ, đồ  vật hay có khi, nó chỉ  đường cho cho 
các con vật vào bẫy. 
4.7. MOTIF SỰ BẮT CHƯỚC

Motif sự  bắt chước xuất hiện trong dạng: Gợi ý cho đối thủ  bắt chước. Gây 
họa nên bị trả thù, nhân vật tinh ranh lôi kéo đối thủ sở hữu, sự dụng nhạc cụ và tiếp  
tục gặp nạn. Trong truyện dân gian châu Phi, CU&CĐD còn có dạng: nhân vật tinh 
ranh gợi ý để  đối thủ  bắt chước không thành công nên giết nhầm đồng loại hay tự 
làm hại. Dạng cố tình bắt chước chỉ xuất hiện trong truyện kể Việt Nam . Hình thức 
bắt chước này đặc biệt  ở  điểm: Kẻ  bắt chước là một nhân vật thông minh. Nó cố 
tình bắt chước không thành công để  chơi khăm đối thủ.  Như  vậy, bắt chước là một 
mưu mẹo. Sự bắt chước, sự “lặp lại” là thủ pháp nghệ thuật nhằm làm tăng tính hấp 
dẫn, ly kỳ của diễn tiến truyện.
4.8. MOTIF VI PHẠM ĐIỀU NGĂN CẤM
Motif vi phạm điều ngăn cấm là một motif cặp đôi, có sự  ngăn cấm và sự  vi  
phạm. Trong dạng có cả sự ngăn cấm và sự vi phạm , việc vị phạm sự ngăn cấm tạo 


22
tình huống truyện để nhân vật tinh ranh xuất hiện và giúp đỡ. Ở Việt Nam, bên cạnh 
sự ngăn cấm được biểu hiện dưới hình thức: Dặn dò, thỉnh cầu hay lời khuyên và ra  
lệnh hay đề  nghị  còn xuất hiện thêm trường hợp sự  cấm đoán biểu hiện dưới dạng  
lời giao ước [113, tr. 81]. Các truyện kể thuộc dạng chỉ có sự vi phạm nhiều gấp đôi 
dạng trên, vì  sự  ngăn cấm  đã là  điều hiển nhiên  hoặc giả  theo quy luật vận động 
trong sáng tác dân gian, nên đã cắt bỏ dần một số yếu tố không cần thiết. 
4.9. MOTIF ĂN VỤNG
Motif ăn vụng là những mưu kế  mà nhân vật tinh ranh sử  dụng để  tìm kiếm  
miếng ăn. Sau hành động ăn vụng, có khi cả hai con vật phải trải qua phép thử để  tái 
khẳng định rằng việc làm phi pháp của nó là… hợp pháp nhưng cũng có khi nhờ phép 
thử mà chân tướng của kẻ ăn vụng bị  vạch mặt.  Có khi, nhân vật tinh ranh đánh lạc 
hướng đối thủ để ăn vụng, có khi giả vờ giúp đỡ  đối thủ hay bịa lý do (đi đỡ  đẻ, đỡ 
đầu) để ăn vụng. Motif ăn vụng xuất hiện rất nhiều trong truyện kể châu Phi. 
4.10. MOTIF TRAO ĐỔI
Motif trao đổi là những mánh khóe của nhân vật tinh ranh để  chơi khăm các  

con vật khác. Hình thức trao đổi xuất hiện nhiều nhất là trao đổi hàng hóa, vật dụng. 
Khi thương lượng, nhân vật tinh ranh biết đánh vào tâm lý – thị hiếu và nhu cầu của  
đối thủ. Các vật dụng của nhân vật tinh ranh không phải là hàng thật, không có giá trị 
sử  dụng. Những đồ  vật của đối thủ là hàng thật, có giá trị  sử  dụng. Ngoài ra còn có 
dạng trao đổi sức lao động. Nhìn chung, các hình thức trao đổi này chưa có sự  xuất  
hiện của đồng tiền. Các vật trao đổi đóng vai trò như một loại tiền tệ, một vật ngang 
giá. Giá trị của vật trao đổi phụ thuộc vào mức độ hữu dụng của nó trong công việc,  
trong cuộc sống hằng ngày. 
TIỂU KẾT
Chúng tôi gọi 10 motif khảo sát là các motif thường gặp trong kiểu truyện. 
Trong kiểu truyện con vật tinh ranh một truyện thường gồm nhiều mẩu, m ỗi mẩu có 
thể  kể  độc lập như  một truyện. Do đó, có nhiều mẩu tương đương với một motif.  
Các motif này tồn tại độc lập với nhau. Trong đó, motif ăn vụng chỉ  xuất hiện trong 
nhóm truyện thủ lợi; motif vi phạm điều ngăn cấm và motif hoãn binh xuất hiện nhiều 
trong nhóm truyện  tự  vệ;  motif  phân xử  chỉ  xuất hiện trong nhóm truyện  trợ  thủ; 
motif xui bẩy, motif trao đổi xuất hiện nhiều trong nhóm truyện chơi khăm. Bên cạnh 
đó, cũng có nhiều motif xuất hiện  ở cả hai, ba nhóm truyện. Mười motif này có mặt  
trong nhiều kiểu truyện khác nhau nhưng khi các motif này được sử dụng trong kiểu  
truyện con vật tinh ranh đã có nhiều biến đổi để phù hợp với kiểu truyện. Có nhiều  
motif xuất hiện phổ  biến trên toàn thế  giới như   motif thi tài, motif hoãn binh, motif  


23
suy nguyên, motif xui bẩy,… nhưng cũng có motif xuất hiện  ở khu vực này mà không 
thấy xuất hiện  ở  khu vực khác.  Các  motif  phân xử,  motif  trao đổi, motif  giả  mạo,  
motif ăn vụng là những motif đặc hữu của kiểu truyện. Sự phân bố này giúp chúng ta 
thấy được những đặc điểm chung của kiểu truyện, mặt khác cũng giúp người đọc  
thấy được những nét đặc sắc của kiểu truyện  ở  những khu vực, vùng miền khác 
nhau. 



24

CHƯƠNG 5
KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH VÀ BẢNG TRA CỨU 
A ­ T
Chúng tôi sử dụng hệ thống các type truyện loài vật trong  Bảng tra cứu A – T 
(từ type 1 – type 299) như là cái khung dựng sẵn, cố định rồi đem các truyện kể của  
kiểu truyện này đối chiếu. Sau khi đối chứng, những type truyện nào tương thích sẽ 
được xếp vào nhóm “Các type truyện tương thích”; các type truyện không tương thích  
được xếp vào nhóm “các type truyện không tương thích”. Những type gần gũi nhau 
về  mặt nội dung, chủ đề  sẽ được gom thành từng nhóm và đối chiếu; Các type lẻ  ­ 
độc lập tương thích sẽ được đối chiếu theo trình tự  các type trong  Bảng tra cứu A –  
T. Các type lẻ ­ độc lập không tương thích sẽ  được liệt kê theo nhóm tổng hợp của  
từng châu lục.
5.1.  CÁC TYPE TRUYỆN TƯƠNG THÍCH
Trong các type tương thích có 14 type liên quan đến hành động giả chết; 09 
type liên quan đến việc dụ  mở  miệng ra, nhắm mắt lại;  05 type liên quan đến nội 
tạng; 04 type liên quan đến việc giải thoát khỏi vực/hố; 03 type liên  quan đến chuyện 
chiếc bóng; 05 type liên quan đến việc qua sông vượt biển; 09 type liên quan đến việc  
hoãn binh; Và có 06 type liên quan đến sự thất bại của con vật tinh ranh trước các đối 
thủ  nhỏ  bé, kém tài. Tổng cổng có 08 nhóm tương thích với 47 type trong Bảng tra  
cứu A – T. Ngoài ra, còn có 69 type lẻ độc lập tương thích với các type trong  Bảng tra  
cứu A ­ T. 
Tổng cộng  có 112 type trong Bảng tra cứu A – T tương thích với các truyện 
của kiểu truyện này. Đó là các type số 1, 1A, 2, 2A, 2D, 3, 4, 6, 6*, 9, 9B, 10**, 20C,  
21, 21*, 23, 30, 31, 31*, 33, 33*, 33**, 33A, 34, 34A, 35B*, 38, 40, 49A*, 41, 43, 47A, 
47C, 49, 49A, 50, 50A, 51***, 56, 56A, 56A*, 56C, 56D, 57, 57*, 58, 59*, 60, 61, 61A, 
61B, 62, 64*, 66**, 66A, 66B, 67**, 67A*, 68, 72, 76, 80A*, 91, 92, 93, 101, 103A,  
105B*, 110, 111A, 113B, 113*, 122, 122A, 122F, 122G, 122H, 122J, 122B*, 122N*, 

123,   123A,   126,   126C*,   136A*,   150,   154,   155,   157,   157D*,   158,   160***,   165B*, 
166B3*, 170, 175, 181, 212, 221A, 223, 227, 227*, 231, 233A, 239, 240A*, 243, 250, 
275, 275A, 275A*, 275B*, 283A* và type 291. 
5.2. CÁC TYPE TRUYỆN KHÔNG TƯƠNG THÍCH


25
Cũng áp dụng cách đối chiếu trên, chúng tôi thấy có 105 type không tương 
thích với Bảng tra cứu A – T. Trong đó có 05 nhóm type với tổng công 35 type và 71  
type lẻ ­ độc lập. 
S
tt

Châu lục

Số type tương 
thích (tỷ lệ)

Số type không tương 
thích (tỷ lệ)

63/114 (55%)
49/67 (73%)
7/11 (64%)
4/12 (33%)
22/63 (35%)

51/106 (45%)
18/67 (27%)
4/11 (36%)

8/12 (67%)
41/63 (65%)

Stt
1 Châu Á
2 Châu Âu
3 Châu Mỹ
4  CU&CĐD
5  Châu Phi

Tóm lại, kiểu truyện con vật tinh ranh có tổng cộng 217 type truyện, trong đó 
có 112 type tương thích, 105 type không tương thích. Căn cứ  vào số  liệu các type 
tương thích và không tương thích ở các châu lục, chúng tôi lập bảng sau: 
Kết quả khảo sát trên cũng phản ánh thực tế về sự bao quát tư liệu của Aarne  
và Thompson: chủ yếu khảo sát truyện kể của châu Âu, sau đó bổ sung thêm tư liệu  
của các nước châu Mĩ và châu Á. Chính vì thực tế trên mà chúng ta thấy tỷ lệ các type 
tương thích của 3 châu lục này cao hơn hai châu lục còn lại.
TIỂU KẾT
Việc đối chiếu giữa Bảng tra cứu A – T và kiểu truyện vẫn có những “khập 
khiễng”. Nội hàm của phần I ­  Truyện loài vật rất rộng, trong lúc nội hàm đề tài của  
chúng tôi chỉ  giới hạn trong một phần nhỏ  ­ nhóm  truyện con vật thông minh. Rồi 
nữa, thoạt nhìn phạm vi bao quát của đề  tài chúng tôi tưởng như rộng hơn Bảng tra  
cứu A – T  vì nó chưa bao quát đến kho tư  liệu của truyện kể  châu Phi, CU&CĐD  
cũng như  nhiều nước châu Á khác – Đặc biệt là truyện kể  Việt Nam. Kết quả  đối  
chứng một mặt là cơ  sở  để  khẳng định tính  ứng dụng của Bảng tra cứu A ­ T, mặt 
khác góp phần nhỏ giúp cho các khu vực, các nước đang ở  "vùng trũng" trên bản đồ 
folklore thế giới có sự định vị.
Việc chia nhóm, chia cấp độ của Bảng tra cứu A ­ T không thực sự hợp lý. Có 
một số  type mẹo lừa cùng nội dung, cùng cơ  chế  lại thấy xuất hiện  ở  hai, ba tiểu  
nhóm khác nhau. Nếu căn cứ vào  hằng số là chức năng của hành động thì chúng ta sẽ 



×