HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
MẪN HUYỀN SÂM
HO¹T §éNG CñA MéT Sè §¶NG CéNG S¶N
KHU VùC NAM ¸ Tõ N¨M 1991 §ÕN n¨M 2011
Chuyên ngành: Lịch sử Phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc
Mã số: 62 22 0312
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI 2016
Công trình được hoàn thành
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Phan Văn Rân
2. PGS.TS Nguy ễn Viết Th ảo
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi……giờ……..ngày…….tháng …….. năm 2016
4
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong số các nước thuộc địa khu vực ÁPhiMỹ Latinh, khu vực Nam Á (trước
đây gọi là Tiểu lục địa Ấn Độ) là nơi phong trào cộng sản ra đời tương đối sớm,
rộng khắp và có truyền thống đấu tranh bất khuất. Từ khi hình thành vào đầu những
năm 1920, phong trào cộng sản tại Nam Á đã trở thành bộ phận mật thiết của phong
trào cộng sản quốc tế và có nhiều đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh chống
thực dân Anh, giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước Nam Á cũng như đấu
tranh vì lợi ích của người lao động, vì hoà bình, dân sinh, dân chủ và mục tiêu
CNXH.
Sau khi phong trào cộng sản quốc tế lâm vào khủng hoảng do sự sụp đổ của
hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, các đảng cộng sản tại Nam Á mặc dù
cũng chịu tác động nặng nề nhưng vẫn bền bỉ đấu tranh đồng thời nhanh chóng
khắc phục tình trạng hoang mang, lúng túng ban đầu, tăng cường công tác tổ chức,
xây dựng đảng, đã trở thành lực lượng quan trọng trên chính trường các nước.
Trong đó, một số đảng tại Ấn Độ, Nepal và Sri Lanka còn vươn lên nắm quyền
hoặc tham gia chính phủ liên minh. Đây là những kinh nghiệm quý cho các đảng
cộng sản khác đang hoạt động tại những nước có chế độ chính trị tương đồng.
Mặc dù vậy, nghiên cứu về phong trào cộng sản quốc tế tại Việt Nam cũng như
trên thế giới vẫn là mảng trống và chưa được nghiên cứu sâu.
Đối với Việt Nam cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam, các đảng cộng sản
tại Nam Á có tình cảm và mối quan hệ rất đặc biệt thể hiện qua sự ủng hộ to
lớn đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc Đổi mới của
Việt Nam.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên trong phong trào cộng sản quốc tế.
Việc nghiên cứu cũng như củng cố, tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản,
bao gồm cả các đảng cộng sản tại Nam Á cần được quan tâm và coi trọng. Trong
giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ đó càng trở nên đặc biệt quan trọng, nhằm trả lời
các câu hỏi câu hỏi liệu phong trào cộng sản quốc tế còn sức sống và động lực
phát triển không? thời đại ngày nay có còn là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
hay không? và có thể rút ra những kinh nghiệm gì từ hoạt động thực tiễn của các
đảng để đưa phong trào cộng sản quốc tế thoát khỏi khủng hoảng?
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu hoạt động của các đảng cộng sản tại
khu vực Nam Á từ sau năm 1991 nhằm đánh giá đúng thực trạng của các đảng tại
khu vực này, từ đó rút ra những kinh nghiệm cần lưu ý trong hoạt động của các
đảng cộng sản cũng như đưa ra giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản trong khu vực là rất cần thiết hiện
nay. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động của một số đảng cộng sản
khu vực Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011” làm Luận án Tiến sĩ chuyên ngành
Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích chính của Luận án là phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của
các đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011, từ đó rút ra một
số kinh nghiệm cho các đảng cộng sản và kiến nghị một số biện pháp tăng
cường phối hợp giữa Đảng CSVN với các đảng này.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Trình bày quan niệm về hoạt động của các đảng cộng sản.
Nêu và phân tích các nhân tố tác động đến hoạt động của các đảng cộng
sản khu vực Nam Á sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991.
Phân tích và đánh giá tình hình hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á từ
năm 1991 đến năm 2011.
3
Rút ra một số kinh nghiệm cho hoạt động của các đảng cộng sản.
Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quan hệ giữa Đảng
CSVN với các đảng cộng sản Nam Á.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của Luận án là hoạt động của một số đảng
cộng sản tại khu vực Nam Á.
Bên cạnh đó, Luận án cũng đề cập và xem xét tình hình thế giới, khu vực
Nam Á và phong trào cộng sản quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh và quan hệ giữa
Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản tại Nam Á.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Năm đảng cộng sản tại 4 nước Nam Á: Đảng
Cộng sản Ấn Độ, Đảng Cộng sản Ấn Độ Mácxít, Đảng Cộng sản Nepal Mácxít
Lêninnít Thống nhất, Đảng Cộng sản Sri Lanka và Đảng Cộng sản Bangladesh.
Về không gian: Khu vực Nam Á, trong đó tập trung chủ yếu vào 4 nước
(Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka và Bangladesh) có các đảng cộng sản hoạt động.
Về thời gian: Từ năm 19912011.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận của Luận án: Quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước Việt Nam; các chủ trương, chính sách nêu trong cương lĩnh, văn kiện,
nghị quyết của các đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện theo cách tiếp cận chuyên ngành lịch sử phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc và dựa trên quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
4
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sửlogic, kết hợp với
các phương pháp nghiên cứu của ngành khoa học xã hội và nhân văn như: phương
pháp hệ thống, phương pháp tiếp cận thực tiễn, phân tích, tổng hợp, thu thập xử lý
tài liệu, tư liệu...
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt khoa học: Trên cơ sở phân tích toàn diện và có hệ thống những
hoạt động chủ yếu của các đảng cộng sản tiêu biểu ở Nam Á từ năm 1991 đến
năm 2011, đặc biệt luận giải những thành tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân
của những thành tựu, hạn chế đó, Luận án khẳng định các đảng cộng sản tại
Nam Á tuy chưa hoàn toàn thoát khỏi khủng hoảng nhưng vẫn còn sức sống và
triển vọng phát triển, thể hiện ở việc các đảng đã vượt qua giai đoạn khó khăn
nhất và đang từng bước phục hồi, thậm chí có những bước tiến mới. Qua đó, kết
quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ đánh giá, nhận định của
Đảng Cộng sản Việt Nam rằng sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phong trào
cộng sản còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những bước hồi phục.
Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở những thành công, thất bại trong hoạt động
của các đảng cộng sản tại Nam Á, Luận án rút ra một số kinh nghiệm cần lưu ý
đối với các đảng cộng sản khác trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đồng thời,
sau khi phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong quan hệ giữa Đảng
CSVN với các đảng cộng sản tại Nam Á đến năm 2011, Luận án đưa ra một số
giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự phối hợp giữa Đảng CSVN với các đảng
cộng sản Nam Á trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu và giảng dạy về phong trào cộng sản và quan hệ quốc tế liên quan
đến khu vực Nam Á tại các cơ quan, trung tâm nghiên cứu, học viện và nhà
trường.
6. Kết cấu của luận án
5
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục chữ viết tắt, tài liệu tham
khảo và phụ lục, Luận án được kết cấu thành 04 chương.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu liên quan đến Đề tài tập trung
vào ba nhóm, chiếm đa số là các công trình về nghiên cứu chung về khu vực Nam
Á và phong trào cộng sản quốc tế:
Thứ nhất, nghiên cứu chung về khu vực Nam Á, bao gồm các đề tài
nghiên cứu của các Bộ/Ban, sách tham khảo của Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây
Nam Á và tài liệu tham khảo của Thông tấn xã Việt Nam... như Đề tài cấp Bộ
của Bộ Ngoại giao (2002), Quan hệ Ấn ĐộPakistan và tác động đến an ninh khu
vực Nam Á; Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2003), Quan hệ giữa Việt Nam
với các nước Nam Á từ năm 1945 đến năm 2003; Đề tài cấp Bộ của Ban Đối
ngoại Trung ương (2006), Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ trong giai đoạn
mới; Bộ Ngoại giao (2011), Ấn Độ và quan hệ Việt Nam Ấn Độ, Nxb Thế giới, Hà
Nội; Đỗ Đức Định (1999), “50 năm kinh tế Ấn Độ”, Nxb Thế giới, Hà Nội;
Ngân hàng Thế giới (2010), Kinh tế Nam Á năm 2010: Tiến lên, Hướng Đông; J.S
Uberoi (2011), Ấn Độ mãi mãi huy hoàng, Nxb Media Transasia India Limited
(bản dịch của Nhà xuất bản Thế giới); Thông tấn xã Việt Nam (2006), “ Ấn Độ
và vấn đề an ninh châu Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 29/6; Thông tấn xã
Việt Nam (2006), “Ấn Độ, cường quốc đang lên”, Tài liệu tham khảo, (3)...
6
Thứ hai, trong nghiên cứu, đánh giá chung về phong trào cộng sản quốc tế
của một số nhà nghiên cứu của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng và Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh như Báo cáo kết quả tổng kết thực tiễn Ban Đối
ngoại Trung ương (2004) “Tình hình phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới”, Nguyễn Thị Quế (2005), “Phong
trào cộng sản ở một số nước liên minh Châu Âu thời kỳ sau chiến tranh lạnh” ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Viện Quan hệ Quốc tế (2005), Lịch sử phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nxb Lý luận Chính trị, Nguyễn Hoàng Giáp
chủ biên (2006), Sự phối hợp hoạt động của các Đảng cộng sản và cánh tả trên
thế giới hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, Đề tài cấp Bộ do Nguyễn
Mạnh Hùng chủ nhiệm (2012), “Sự tham gia của Đảng ta tại các diễn đàn đa
phương chính đảng: Thực trạng và phương hướng trong thời gian tới” mã số
KHBĐ(2011)27, PGS.TS Nguyễn Hoàng Giáp và PGS.TS Nguyễn Thị Quế
(đồng chủ biên) (2014), Phong trào cộng sản quốc tế hiện nay và triển vọng ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Nguyễn Hoàng Giáp Nguyễn Thị Quế (2004),
“Phong trào cộng sản ở các nước tư bản phát triển trước các vấn đề lý luận
chính trị đặt ra trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số
11/2004; Vũ Văn Hoà (2006), “Diễn đàn Aten: hình thức hoạt động chung của
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 108,
2006; Nguyễn Hoàng Giáp Nguyễn Thị Quế (2007), “Phong trào cộng sản quốc
tế trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 11/2007; Thái Văn Long
(2007), “Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá”,
Tạp chí Cộng sản, số 10/2007; Nguyễn Mạnh Hùng (2006), “Tình hình phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số
7/2006...
7
Thứ ba, hoạt động của một số đảng cộng sản tiêu biểu tại Nam Á như
Đảng CPI và CPIM (Ấn Độ) đăng trên Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng,
đại sử ký và các báo cáo về đại hội các đảng của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng
từ năm 1991 đến năm 2011 như Trịnh Thị Hoa (2004), “Đảng Cộng sản Ấn Độ
(Mácxít)”, Tạp chí Xây dựng Đảng; Lê Gia Kiên (2009), “Đảng Cộng sản Ấn Độ và
Đảng Cộng sản Ấn Độ Mácxít: Quá khứ và triển vọng”, Tạp chí Cộng sản, số
795; Nguyễn Trọng Kiên (2013) “Phong trào cộng sản, cánh tả tại Ấn Độ: Tình
hình và triển vọng”, Tạp chí Cộng sản, số 851...
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu liên quan đến Đề tài cũng bao
gồm 2 nhóm:
Thứ nhất, lịch sử của các đảng như Harkishan Singh Surjeet (1993), An
Outline History of the Communist Movement in India, National Book Center, New
Delhi, Harkishan Singh Surjeet (1998), March of the Communist Movement in
India, National Book Agency Private Limited, Calcutta, India, International
Department of the CPSL (1995), History of Communist Party of Sri Lanka, CPNUML
(2000), People’s Multi Party Democracy: Policy Papers, MadanAshrit Memorial
Foundation, Nepal; International Department of Communist Party of Bangladesh
(2003), A brief introduction to the Communist Party of Bangladesh, Party
Publication; A.B.Bardhan (2000), 75 years: This is the CPI, CPI Publication, New
Delhi; A.B.Bardhan (2005), 80 years of CPI, CPI Publication, New Delhi; Communist
Party of India (Marxist) (2007), Thirty Years of the Left Front Government in West
Bengal 19972007, Progressive Printers, West Bengal; Anil Rajimwal (2012), History
of Communist Party of India through Congresses, People’s Publishing House
PVT.LTD; International Department of the CPNUML (2009), History of Communist
Party of Nepal (Unified Marxist Leninist, Party Publication; D.J.Sagar (2009), Political
Parties of the world: 7th Edition, John Harper Publishing...
8
Thứ hai, quan điểm, đường lối và chính sách của các đảng như
Communist Party of India (Marxist) (1993), Contemproray world situation and
validity of Marxism, CPI(M) Publication; School for Social Scientists (1999), The
Emerging mutation in the socialist world, Chitturpu – 521 132, Krishna District,
Andhra Pradesh, India; CPNUML (2000), Proceedings of International Conference
on socialism in the 21st century, MadanAshit Memorial Foundation, Kathmandu;
Sitaram Yechury (2008), Socialism in a changing world, Prajasakti Book House,
Andhra Pradesh, India; A.B Bardhan (2002), Crisis of Corporate Capitalism,
People’s Publishing House; tham luận của đồng chí Madhav Kumar, nguyên Thủ
tướng Nepal, nguyên Tổng Bí thư Đảng CPNUML tại Hội thảo “ Challenges and
Opportunities for the Left Movement in South Asia” do Đảng CPSL tổ chức; các
bài tham luận của các đảng tại Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản, công nhân
(IMCWP) từ năm 1998 đến năm 2011 và thông tin mà các đảng cộng sản Nam Á
đưa trên website Solidnet (www.solidnet.org).
1.3 Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết
Đưa ra quan niệm về hoạt động của các đảng cộng sản nhằm tạo cơ sở
cho việc phân tích và đánh giá hoạt động của các đảng cộng sản tại Nam Á.
Phân tích những nhân tố chủ yếu tác động đến hoạt động của các đảng
cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến 2011.
Phân tích và đánh giá nội dung hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á,
thông qua hoạt động cụ thể của 5 đảng cộng sản tiêu biểu, gồm Đảng Cộng sản
Ấn Độ, Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mácxít), Đảng Cộng sản Nepal Mácxít Lênin
nít Thống nhất, Đảng Cộng sản Sri Lanka và Đảng Cộng sản Bangladesh.
Rút ra một số kinh nghiệm từ hoạt động của các đảng.
Khái quát và đánh giá quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các
đảng cộng sản khu vực Nam Á từ khi thành lập đến năm 2011 và đề xuất với
Đảng CSVN một số giải pháp nhằm tăng cường quan hệ với các đảng.
9
Chương 2
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẢNG
CỘNG SẢN KHU VỰC NAM Á TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011
2.1. Quan niệm về hoạt động của đảng cộng sản
“Hoạt động” hiểu theo nghĩa chung nhất là toàn bộ những hành vi, hành
động của cơ thể sống, bảo đảm cho nó tồn tại và phát triển.
“Hoạt động của đảng cộng sản” là tổng hòa các hành vi, hành động cách
mạng của các tổ chức Đảng và đảng viên, tiến hành xây dựng và thực hiện
cương lĩnh, đường lối, chính sách của đảng và các nhiệm vụ cách mạng trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, phấn đấu vì thắng lợi của giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử, góp phần vào cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng, tiến
bộ trên thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hoạt động của các đảng cộng sản tập trung chủ yếu vào hoạt động xây
dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức; hoạt động thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng của đảng; hoạt động đấu tranh tập hợp lực lượng thông qua tuyên truyền vận
động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trịxã hội của đảng, phối hợp đấu tranh với
các lực lượng chính trịxã hội khác; và hoạt động đối ngoại, chủ yếu phối hợp trong
phong trào cộng sản quốc tế. Tuy vậy, trong từng giai đoạn nhất định, một số hoạt
động có thể được chú trọng hơn, tùy thuộc vào bối cảnh thế giới, khu vực, đất
nước và tình hình mỗi đảng.
10
Trong giai đoạn chưa nắm quyền, nội dung hoạt động của các đảng tập
trung vào công tác lý luận, tập hợp lực lượng và đấu tranh chính trị, kinh tế nhằm
mở rộng ảnh hưởng của Đảng. Kể từ sau Chiến tranh lạnh, hầu hết các đảng
cộng sản tại các nước tư sản hiện nay đều sử dụng con đường nghị viện kết
hợp với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế để tiến tới giành chính quyền. Khi
nắm chính quyền, hoạt động của Đảng cộng sản phải chú trọng vào công tác xây
dựng Đảng, nhất là về chính trịtư tưởng và triển khai nhiệm vụ cách mạng trên
thực tiễn nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN từ cơ sở hạ tầng
đến kiến trúc thượng tầng và từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất.
2.2. Một số nhân tố tác động
2.2.1. Kết quả hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á trước năm
1991
Kể từ khi ra đời đầu những năm 1920 cho đến năm 1991, phong trào cộng
sản tại Nam Á luôn thể hiện truyền thống đấu tranh lâu đời và tinh thần cách mạng
kiên trung. Tuy nhiên, cơ sở chính trị, ảnh hưởng của các đảng còn hạn chế; nội bộ
phong trào bị chia rẽ do bị tác động từ mâu thuẫn trong phong trào cộng sản quốc tế
những năm 19601970 và chịu ảnh hưởng bởi những đặc điểm tiêu cực cố hữu của
khu vực Nam Á như cục bộ địa phương, bất đồng tôn giáo, sắc tộc... Những ưu
điểm và hạn chế này khiến phong trào cộng sản tại khu vực tuy vẫn duy trì
nhưng khó có những bước phát triển đột phá.
2.2.2 Bối cảnh thế giới
11
Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu đã làm thay đổi
hoàn toàn trật tự thế giới cũng như cán cân lực lượng quốc tế. Cục diện thế giới
đa cực đang định hình ngày càng rõ. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát
triển như vũ bão thúc đẩy toàn cầu hóa, tri thức hóa nền kinh tế, tăng tính phụ
thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế cũng như thúc đẩy chính sách mở cửa, hội
nhập để phát triển kinh tế của các quốc gia. Nguy cơ chiến tranh tạm thời bị đẩy
lùi do các quốc gia đều cần môi trường hòa bình để phát triển kinh tế nhưng các
cuộc xung đột cục bộ, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, các vấn đề an ninh phi truyền
thống... có xu hướng gia tăng.
Những đặc điểm mới của tình hình thế giới Chiến tranh lạnh tác động
đến hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á theo chiều hướng bất lợi, nhiều
thách thức và khó khăn hơn.
2.2.3. Tình hình phong trào cộng sản quốc tế và tương quan lực
lượng giữa CNXH với CNTB
Liên Xô tan rã và chế độ XHCN ở Đông Âu sụp đổ đã khiến CNXH trên
thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cán cân lực lượng trên trường quốc tế
nghiêng về phía có lợi cho CNTB. Mặc dù vậy, xu thế quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên CNXH vẫn là xu thế lớn, được khẳng định qua sự tiếp tục tồn tại, đổi
mới và phát triển của CNXH hiện thực, quá trình phục hồi của phong trào cộng
sản quốc tế và sự vận động trong lòng CNTB với những mâu thuẫn cùng những
khuyết tật, tệ nạn không thể khắc phục.
Thực trạng phong trào cộng sản quốc tế vừa đặt ra thách thức nhưng cũng
tạo không ít cơ hội cho các đảng cộng sản tại Nam Á. Thách thức lớn nhất là các
đảng rơi vào khủng hoảng, mất phương hướng, mất chỗ dựa về tinh thần lẫn vật
chất, gián đoạn quan hệ với các đảng cộng sản khác, bị các thế lực đế quốc và
phản động đẩy mạnh chống cộng điên cuồng nhất. Mặt thuận lợi là buộc các
đảng cộng sản phải nhận thức lại CNXH và con đường đi lên CNXH, tăng tính
độc lập, tự chủ trong việc nghiên cứu, tìm tòi con đường xây dựng CNXH phù
12
hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước mình; đổi mới các hình thức phối hợp hoạt
động. Ngoài ra, được sự cổ vũ lớn lao từ các nước XHCN còn lại, đặc biệt,
những thành tựu của Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng
CNXH.
2.2.4. Tình hình khu vực Nam Á
Về đặc điểm chính trị, văn hóa xã hội: Hầu hết các quốc gia Nam Á
hiện nay nằm trong Tiểu lục địa Ấn Độ, có lịch sử phát triển hàng nghìn năm.
Hiện nay, hầu hết các nước đều theo chế độ dân chủ đại nghị, đa nguyên đa
đảng và mô hình nhà nước tư sản, trong đó, c ác đảng tư sản có vai trò và vị thế rất
mạnh. Nơi đây cũng là một trong nh ững cái nôi văn minh loài ngườ i (nền văn
minh sông Ấn, sông Hằng) và có sự đa dạng về sắc tộc và tôn giáo với hơn
2.000 sắc t ộc và ba tôn giáo lớn (Ấn Độ giáo, Phật giáo và Hồi giáo).
Tuy nhiên, Nam Á là nơi tồn tại hàng loạt vấn đề cố hữu dai dẳng như
mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, nạn phân biệt đẳng cấp, chủ nghĩa bè phái, cục bộ
địa phương, xu hướng ly khai và tranh chấp giữa các quốc gia.
Về tình hình khu vực sau Chiến tranh lạnh: Tình hình khu vực Nam Á
cơ bản vẫn giữ được ổn định và phát triển tương đối với việc Ấn Độ nổi lên
thành cường quốc khu vực và gia tăng vai trò trên trường quốc tế, xu hướng dân
chủ hóa ngày càng được mở rộng, hợp tác nội khối được củng cố và kinh tế dần
cải thiện với tốc độ tăng trưởng khá, nhưng tranh giành quyền lực nội bộ, bạo
lực, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố có liên quan đến Hồi giáo cực đoan vẫn
tiếp tục xảy ra tại nhiều nước, cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn, đặc
biệt là Mỹ và Trung Quốc rất gay gắt, kinh tế khu vực kém phát triển, tình trạng
nghèo đói, mù chữ, tăng dân số... vẫn rất nghiêm trọng.
Những đặc điểm phức tạp của tình hình khu vực Nam Á tác động hai mặt
nhưng mặt tiêu cực nhiều hơn đến hoạt động của các đảng cộng sản. Trong số
đó đáng chú ý là sự cạnh tranh khốc liệt trên chính trường của các đảng tư sản, ảnh
13
hưởng của những vấn đề cố hữu của khu vực đến tư tưởng, nhận thức của
không ít đảng viên và thống nhất trong phong trào và sự cấu kết giữa lực lượng
đế quốc phản động với giai cấp tư sản nhằm thu hẹp và xóa bỏ ảnh hưởng của
các đảng cộng sản, cánh tả.
Tuy vậy, sự tương đồng về mặt văn hóa, lịch sử, dân tộc, thể chế chính
trị… giữa các nước khu vực và đặc biệt, trong bối cảnh xu hướng hợp tác nội
khối được đẩy mạnh là điều kiện thuận lợi để các đảng dễ dàng chia sẻ kinh
nghiệm hoạt động; Tiến trình dân chủ hóa diễn ra mạnh mẽ tại nhiều nước giúp
các đảng cộng sản hoạt động công khai. Ngoài ra, sự tồn tại của các vấn đề cố
hữu của khu vực như nghèo đói, thất nghiệp, mù chữ, các tư tưởng phản động,
cực đoan… xét ở một góc cạnh là môi trường rộng lớn cho các đảng để tập hợp
lực lượng, từ đó vừa thể hiện vai trò, nâng cao vị thế của mình đồng thời đấu
tranh bảo vệ quyền lợi của người dân lao động, nhất là những người nghèo.
Chương 3
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ ĐẢNG CỘNG SẢN
KHU VỰC NAM Á TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011
3.1. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1999
3.1.1. Nội dung hoạt động của các đảng
Là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế, các đảng cộng sản tại
Nam Á cũng chịu tác động bất lợi từ sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN
ở Đông Âu. Hầu hết các đảng cộng sản trong khu vực lúng túng và mất định
hướng về đường lối, quan điểm, bị tan rã và phân liệt, sụt giảm Đảng viên và thu
hẹp cơ sở hoạt động.
Xuất phát từ tình hình trên, trong thập niên 1990, hoạt động của các đảng
cộng sản tại Nam Á chủ yếu tập trung vào củng cố nội bộ nhằm giữ vững
lực lượng và duy trì hoạt động.
14
Trước hết, các đảng chú trọng phân tích, đánh giá nguyên nhân và rút bài
học kinh nghiệm từ những chấn động tại Liên Xô và Đông Âu để tìm ra con
đường đấu tranh mới phù hợp với thực tiễn của đất nước, đồng thời đẩy mạnh
đấu tranh phê bình, tự phê bình trong nội bộ Đảng.
Thứ hai, các đảng ngày càng quan tâm đoàn kết với các lực lượng cộng sản,
cánh tả trong nước nhằm tạo ra một tập hợp lực lượng mạnh cạnh tranh trên
chính trường.
Thứ ba, các đảng cộng sản Nam Á duy trì các hoạt động đấu tranh trong và
ngoài nghị trường cũng như giữ mối liên hệ với phong trào cộng sản quốc tế. Trong
hoạt động đấu tranh ngoài nghị trường, các đảng tổ chức nhiều cuộc đấu tranh
nhằm bảo vệ nền dân chủ, quyền dân sinh và tiến bộ xã hội. Trong hoạt động
đấu tranh nghị trường, dù thế và lực hạn chế nhưng các đảng vẫn nỗ lực tham gia
các cuộc bầu cử tại trung ương và địa phương và bước đầu đã đạt được một số
kết quả tích cực.
Trong việc duy trì liên hệ với phong trào cộng sản quốc tế, do tình hình các
đảng khó khăn và điều kiện tài chính eo hẹp, nên sự phối hợp hoạt động của các
đảng cộng sản Nam Á giai đoạn này còn hạn chế và chưa phong phú, chủ yếu
trao đổi đoàn song phương, tổ chức m ột s ố h ội th ảo đa phươ ng và tổ chức các
hoạt động bày tỏ tình đoàn kết quốc tế với Trung Quốc, Việt Nam, Cuba,
Triều Tiên, Palestine…
3.1.2. Đánh giá kết quả hoạt động
3.1.2.1. Thành tựu:
Trước hết, các đảng đã tìm ra nguyên nhân, rút ra các bài học kinh nghiệm
từ sự kiện trên, xác định con đường đấu tranh mới phù hợp với thực tiễn của đất
nước. Trong đó, tiếp tục khẳng định niềm tin vào chủ nghĩa MácLênin và con
đường đi lên CNXH; cho rằng thời đại ngày nay vẫn trong giai đoạn quá độ lên
CNXH, nhưng con đường đi lên CNXH sẽ lâu dài, phức tạp và phải trải qua
15
nhiều giai đoạn; thừa nhận mỗi đảng phải vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác
Lênin để xây dựng mô hình CNXH phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể
tại mỗi nước.
Thứ hai, các đảng nhận thức ngày càng rõ tầm quan trọng của việc xây
dựng mặt trận thống nhất của các đảng cộng sản và cánh tả, đồng thời linh hoạt
hơn trong tập hợp lực lượng.
Thứ ba, trên cơ sở đó, các đảng đã củng cố lực lượng, tiếp tục các hoạt
động đấu tranh nghị trường và ngoài nghị trường, khôi phục quan hệ với các
đảng cộng sản trên thế giới đồng thời có những đóng góp nhất định đối với
phong trào cộng sản quốc tế.
3.1.2.2. Hạn chế:
Tuy đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng không thể không thừa nhận
rằng giai đoạn này là giai đoạn khó khăn, nhiều thử thách nhất đối với các đảng
cộng sản tại Nam Á. Hoạt động của các đảng chủ yếu chủ yếu nhằm cầm cự và
củng cố lực lượng. Vì vậy, dù đã nỗ lực hết sức nhưng hoạt động của các đảng
vẫn còn nhiều hạn chế.
Trước hết, mặc dù các đảng đã nhận thức phải tự xây dựng con đường và
mô hình XHCN phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện riêng của mỗi đảng, mỗi
nước nhưng mô hình cụ thể và biện pháp, sách lược triển khai vẫn trong quá trình
mò mẫm tìm tòi.
Thứ hai, vấn đề mở rộng ảnh hưởng của của các đảng, nhất là trong những
năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX rất khó khăn; cán cân lực lượng vẫn bất lợi so
với các chính đảng khác trên chính trường và vị thế trong Quốc hội các nước thấp
do số ghế ít.
Thứ ba, nội bộ phong trào cộng sản mỗi nước vẫn bất đồng, chia rẽ.
16
Thứ tư, cũng giống như nhiều đảng cộng sản khác trên thế giới, do tình
hình khó khăn và phải tập trung vào nội bộ, sự phối hợp hoạt động của các đảng
cộng sản tại Nam Á với phong trào cộng sản quốc tế vẫn còn khiêm tốn.
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên là tác động nặng nề từ sự
khủng hoảng phong trào cộng sản quốc tế, nghiêm trọng nhất làm mất định
hướng và niềm tin, tiếp theo đó là mất chỗ dựa về vật chất của những đảng này;
kết hợp với những yếu kém mang tính kinh niên, chưa thể khắc phục được của
bản thân các đảng cộng sản Nam Á như sự chia rẽ trong nội bộ phong trào, chủ
nghĩa cục bộ, địa phương và những tồn tại, yếu kém trong công tác xây dựng
đảng...
3.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2011
3.2.1. Nội dung hoạt động của các đảng
Thứ nhất, nhờ những kết quả tích cực từ giai đoạn những năm 1990, cũng
như trong bối cảnh phục hồi chung của phong trào cộng sản quốc tế, t rong thập
niên đầu thế kỷ XXI, các đảng đặc biệt chú trọng hoạt động đấu tranh nghị
trường, đồng thời kết hợp đấu tranh ngoài nghị trường nhằm tạo ra sự thay thế
chính quyền tư sản, bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động vì hòa bình, dân chủ,
dân sinh và tiến bộ xã hội.
Hai đảng cộng sản Ấn Độ (CPI và CPIM) điều chỉnh sách lược trong vấn
đề liên minh với Đảng Quốc Đại, phối hợp chặt chẽ và hợp tác thực chất với
nhau, tiến hành nhiều chiến dịch và các cuộc vận động quần chúng. Đảng CPN
UML tại Nepal tái thống nhất, lãnh đạo phong trào quần chúng lật đổ chế độ
quân chủ lập hiến, thúc đẩy soạn thảo hiến pháp. Đảng CPSL tại Sri Lanka tiếp
tục tăng cường thống nhất các đảng cộng sản, cánh tả, thực hiện sách lược liên
minh với Đảng Tự do Sri Lanka nhằm lật đổ Đảng Dân tộc Thống nhất khỏi vị trí
cầm quyền, đồng thời tham gia tìm giải pháp cho vấn đề người Tamil nhằm chấm
17
dứt nội chiến. Đảng Cộng sản Bangladesh dùng đấu tranh ngoài nghị trường
nhằm tạo ra sự chuyển hoá dân chủ về xã hội.
Thứ hai, các đảng cộng sản mở rộng quan hệ và tăng cường phối hợp hoạt
động trong phong trào cộng sản quốc tế, nhất là tham gia ngày càng nhiều vào các
cơ chế đa phương của các đảng cộng sản, cánh tả và chính đảng khác trên thế giới
như Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản và công nhân, Hội nghị các chính đảng
châu Á (ICAPP), tổ chức hội thảo quốc tế ("Chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI"
của Đảng CPNUML), cử/đón đoàn dự đại hội...
Thứ ba, các đảng tiếp tục các hoạt động củng cố, xây dựng Đảng mạnh về
chính trịtư tưởng, tổ chức và vận động quần chúng.
3.2.2. Đánh giá kết quả hoạt động
3.2.2.1. Thành tựu
Thứ nhất, hoạt động của các đảng cộng sản tại Nam Á trong thập niên
đầu thế kỷ XXI đã đạt được những kết quả to lớn, thậm chí mang tính lịch sử
trong việc giành phiếu bầu của cử tri, thu hút sự tham gia đông đảo của quần
chúng nhân dân trong các chiến dịch và gia tăng lực lượng. Đặc biệt, Mặt trận
cánh tả tại Ấn Độ giành nhiều số ghế Quốc hội và nắm quyền tại nhiều bang
nhất trong lịch sử; Đảng CPNUML là đảng cộng sản duy nhất tại khu vực Nam
Á nhiều lần lên nắm quyền.
Thứ hai, nội bộ phong trào cộng sản các nước, nhất là Ấn Độ và Nepal trở
nên đoàn kết và phối hợp hiệu quả.
Thứ ba, đóng góp trong vi ệc ph ục h ồi ho ạt động của phong trào cộng
sản quốc tế thông qua những thành quả trong ho ạt động đấ u tranh của mỗi
đảng và sự ủng hộ và tích cực tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phươ ng của
phong trào cộng sản khu v ực và quốc tế.
Nguyên nhân của những thành tựu trên:
18
Về khách quan: do cùng chung xu hướng phục hồi hoạt động của phong
trào cộng sản quốc tế và được truyền cảm hứng từ thành tựu phát triển kinh tế
xã hội của các nước XHCN, nhất là Trung Quốc, Việt Nam.
Về chủ quan, nền tảng chính trị vững vàng hơn từ kết quả hoạt động của
giai đoạn trước; sách lược đúng đắn trong một số giai đoạn; sự đoàn kết trong
nội bộ phong trào; và đóng góp tích cực của cá nhân lãnh đạo một số đảng.
3.2.2.2. Hạn chế
Thứ nhất, dù đã có những bướ c phục h ồi m ạnh m ẽ, nh ưng k ết qu ả
hoạt động của các đảng vẫn bấp bênh và thiếu vững chắc.
Thứ hai, sự phối hợp hoạt động giữa các đảng cộng sản và cánh tả tuy chặt
chẽ hơn nhưng chưa ổn định. Trong nước, việc thiết lập một mặt trận thống nhất
tại mỗi nước khó triển khai do không giải quyết được những bất đồng, mâu thuẫn
trong nội bộ phong trào cộng sản, cánh tả. Ở cấp độ khu vực, các đảng vẫn
chưa thành lập được một cơ chế phối hợp ổn định, chủ yếu thông qua cơ chế
trao đổi thông tin và gặp gỡ song phương.
Nguyên nhân: Về khách quan: Tình hình thế giới và khu vực có những
diễn biến phức tạp, trong đó sự can dự mạnh mẽ của Mỹ tại khu vực góp phần
tăng cường sự cấu kết giữa lực lượng đế quốc phản động với giai cấp tư sản và
các lực lượng tôn giáo cực đoan nhằm thu hẹp và xóa bỏ ảnh hưởng của các
đảng cộng sản, cánh tả.
Về chủ quan: Nhiều đảng còn lại vẫn lúng túng trong việc lựa chọn
biện pháp đấu tranh phù hợp, thiếu thống nhất trong đánh giá về m ột số vấn
đề quan trọng, nhất là về tình hình nội trị, bản chất, xu hướng chính trị của các lực
lượng chính trị trong nước. Ngoài ra, một số yếu kém, khuyết điểm kinh niên vẫn
tiếp tục tồn tại.
Nhận xét, đánh giá chung:
19
Trong 2 thập niên hoạt động từ sau hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu tan rã, xét về tổng th ể, các đảng tuy chưa hoàn toàn ra khỏi khủng
hoảng sau sự s ụp đổ củ a chế độ XHCN ở Liên Xô, Đông Âu như ng đã vượ t
qua giai đoạn khó khăn nhất và đang trong quá trình phục hồi.
Một số thành tựu cơ bản mà các đả ng đạ t đượ c là:
Thứ nhất, đã rút ra những kinh nghiệm từ sự sụp đổ hệ thống XHCN ở
Liên Xô và Đông Âu, điều chỉnh chiến lược và tích cực tìm con đường đấu tranh
mới phù hợp với thực tiễn của đất nước;
Thứ hai, củng cố lực lượng và từng bước phục hồi hoạt động trong đấu
tranh nghị trường lẫn ngoài nghị trường;
Thứ ba, nỗ lực hạn chế bất đồng, tăng cường phối hợp hoạt động giữa
các đảng cộng sản, công nhân và cánh tả trong nước nhằm tạo mặt trận dân tộc
thống nhất;
Thứ tư, luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, ủng hộ công cuộc bảo vệ độc
lập.
Nguyên nhân: i) tinh thần cách mạng đầy nhiệt huyết, kiên cường và trung
thành với lý tưởng cách mạng của chủ nghĩa MácLê nin ; ii) sự tôi luyện qua nhiều
giai đoạn khó khăn, gian khổ; iii) sự lựa chọn sách lược và biện pháp đấu tranh đúng
đắn và phù hợp trong một số giai đoạn nhất định.
Tuy vậy, quá trình phục hồi của các đảng gập ghềnh và không đồng
đều cũng như còn nhiều thách thức ở phía trướ c. Nổi bật trong số đó là:
Thứ nhất, vẫn lúng túng trong việc tìm ra hình thức, phương pháp cách mạng
phù hợp với thực tiễn mới;
Thứ hai, công tác xây dựng Đảng trên các lĩnh vực còn yếu kém, đặc biệt
về chính trị, tư tưởng, tổ chức;
20
Thứ ba, sự phối hợp hoạt động giữa các đảng trong phong trào cộng sản
trong nước còn lỏng lẻo, chưa hiệu quả và vẫn bị chia rẽ, bất đồng;
Thứ tư, trong đấu tranh nghị trường, thế và lực của hầu hết các đảng
tuy đã được cải thiện nhưng còn yếu;
Thứ năm, quan hệ đối ngoại chưa đa dạng cả về nội dung và hình thức.
Nguyên nhân: Về khách quan: i) Tác động bất lợi từ sự sụp đổ của mô
hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu; ii) yêu cầu và thách thức mới từ đặc điểm, xu
thế mới của tình hình thế giới; iii) sự phức tạp của tình hình chính trịan ninh khu
vực Nam Á; iv) sự chống phá của các thế lực tư sản phản động, chủ nghĩa cực
đoan tôn giáo, cộng đồng; v) sự phân tán, yếu kém của giai cấp công nhân ở hầu
hết các nước Nam Á.
Về chủ quan: i) chưa thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của tình hình
thế giới; ii) chưa khắc phục được những yếu kém, khuyết điểm trong hoạt động
từ giai đoạn trước; iii) thiếu ngọn cờ lãnh đạo trong bản thân phong trào cộng
sản mỗi nước cũng như ở cả khu vực ; iv) phải tập trung đối phó với tình hình ở
nước mình kết hợp với khó khăn về điều kiện tài chính, cơ sở vật chất.
Triển vọng c ủa các đảng phụ thuộc vào quá trình đổ i mới cả về lý
luận, đườ ng lối chính trị, tổ chức lẫn n ội dung, hình thứ c đấ u tranh và phối
hợp hoạt động phong trào cộng sản, công nhân, cánh tả trong nướ c, trong khu
vực và trên thế giới.
Chương 4
MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
ĐẢNG CỘNG SẢN NAM Á VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ
GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN NAM
Á
4.1. Một số kinh nghiệm
21
4.1.1. Củng cố đoàn kết, thống nhất trong đảng và trong phong trào cộng
sản mỗi nước
4.1.2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
4.1.3. Đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng;
đổi mới nội dung và kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình thức đấu tranh
4.1.4. Phát huy sức mạnh tổng hợp từ quần chúng nhân dân và các lực
lượng chính trịxã hội
4.1.5. Tăng cường phối hợp hoạt động trong phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ với các chính đảng tiến bộ, có ảnh
hưởng và tích cực tham gia các diễn đàn đa phương chính đảng trong khu vực và
trên thế giới.
4.2. Một số giải pháp tăng cường quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt
Nam với các đảng cộng sản Nam Á thời gian tới
4.2.1. Thực trạng quan hệ
Giai đoạn trước năm 1991: Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng CSVN) và
các đảng cộng sản Nam Á có mối quan hệ truyền thống, lâu đời. Người đặt nền
móng và vun đắp mối quan hệ giữa Đảng CSVN với phong trào cộng sản Nam Á là
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi có các cuộc gặp trực tiếp đầu tiên với lãnh đạo Đảng
Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Sri Lanka vào năm 1946. Trong các cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam, các đảng cộng sản Nam Á có nhiều hành
động thiết thực thể hiện sự ủng hộ, đoàn kết mạnh mẽ đối với cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ của nhân dân và Đảng CSVN. Khi Việt Nam gặp khó
khăn do vừa bị bao vây, cấm vận lại vừa phải tiến hành hai cuộc kháng chiến
bảo vệ tổ quốc ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, các đảng cộng sản Nam Á vẫn
là những người bạn luôn sát cánh ủng hộ Việt Nam. Từ cuối những năm 1970