Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kinh tế: Đánh giá những yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khối ngành kỹ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.22 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

Đoàn Thị Thu Trang

ĐÁNH GIÁ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI
Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP SINH VIÊN KHỐI
NGÀNH KỸ THUẬT

Ngành: Kinh tế học
Mã số: 9310101

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ


Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Hiếu Học
TS. Phạm Thị Kim Ngọc

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ
cấp Trường họp tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Vào hồi …….. giờ, ngày ….. tháng ….. năm ………

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Thư viện Tạ Quang Bửu - Trường ĐHBK Hà Nội


2. Thư viện Quốc gia Việt Nam


ANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN

i.

ii.

iii.

iv.

v.

vi.

Trang Doan Thi Thu, Le Hieu Hoc, Kien Dao Trung.
(2016). Promoting the entreprenuership intention of
engineering students in Vietnam: A brief review and
proposed mearusing model. SEATUC International
Conferece. Feb 21-24 2016, Tokyo, Japan.
Trang Doan Thi Thu, Le Hieu Hoc, Kien Dao Trung.
(2016). Proposed measuring model on factors
affecting entreprenuership intention of students in
Vietnam. International Journal of Scientific Research
and Innovative Technology (IJSRIT). September
2016, Vol. 3 No. 9, pp. 36-47.
Đoàn Thị Thu Trang, Lê Hiếu Học, Đào Trung Kiên,
Nguyễn Ngọc Đạt. (2017). Các yếu tố ảnh hưởng tới ý

định khởi nghiệp của sinh viên các trường đại học tại
Hà Nội. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Khởi nghiệp – Từ ý
tưởng đến thành công”, Trường Đại học Ngoại
thương, tháng 6/2017, trang 100-112.
Trang Doan Thi Thu, Le Hieu Hoc. (2017). Building
up the entrepreneurial intent construct among
technical students in Vietnam. Journal of Small
Business and Entrepreneurship Development. June
2017, Vol. 5, No. 1, pp. 7-18.
Đoàn Thị Thu Trang, Lê Hiếu Học. (2017). Các yếu
tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên
ngành kỹ thuật: Nghiên cứu trường hợp trường Đại
học Bách khoa Hà Nội. Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, Số
97/2017, trang 46-57.
Đoàn Thị Thu Trang, Lê Hiếu Học, Nguyễn Phú
Khánh. (2017). Thúc đẩy ý định khởi nghiệp của sinh
viên nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả các
chương trình liên kết đào tạo quốc tế: Nghiên cứu tại
trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Kỷ yếu Hội thảo
khoa học quốc tế “Chất lượng và hiệu quả các
chương trình liên kết đào tạo quốc tế”, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, tháng 11/2017, trang 199-216.

0


MỞ ĐẦU
i. Tính cấp thiết của đề tài
Khởi nghiệp (KN) sáng tạo đóng vai trò đòn bẩy cho năng lực
sáng tạo và cạnh tranh, là động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng phát

triển kinh tế. Việt Nam đang đối mặt với tình trạng tốc độ phát triển
kinh tế có xu hướng giảm, thiếu bền vững và vấn nạn thất nghiệp
cao, đặc biệt là ở nhóm người có trình độ đại học. Một trong những
giải pháp hiệu quả được Chính phủ nhận định là nâng cao đội ngũ
doanh nhân khởi nghiệp có tri thức, được đào tạo bài bản nhằm phát
triển hình thức doanh nghiệp KN sáng tạo.
Do vậy, trong một vài năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành cơ sở pháp lý xây dựng các chương trình hành động quốc gia
khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên theo nhận định của các chuyên gia
về KN, tỷ lệ khởi nghiệp của Việt Nam tương đối thấp, cộng thêm
tình trạng nghèo nàn về khả năng đổi mới sáng tạo trong các doanh
nghiệp khởi nghiệp. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu cấp bách cho Việt
Nam là phát triển số lương đội ngũ doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo,
đi kèm với đó là nâng cao chất lượng của nhóm doanh nghiệp này
thông qua cải thiện hàm lượng công nghệ sáng tạo trong mỗi dự án
khởi nghiệp.
Để phát triển số lượng đội ngũ doanh nhân khởi nghiệp, cần bắt
đầu từ việc nâng cao ý định KN cá nhân bởi KN là hành vi có dự
định và có kế hoạch. Các yếu tố tác động về môi trường bên ngoài
đóng vị trí quan trọng tới việc hình thành ý định KN. Tuy nhiên khởi
nghiệp là một quá trình dài đi từ ý thức đến hành động, đòi hỏi sự tập
trung, cố gắng, nỗ lực của cá nhân nên các yếu tố nhận thức bên
trong người khởi nghiệp mang tính cảm nhận cá nhân lại đóng vai trò
tiên quyết trong quá trình này.
Để phát triển về chất đội ngũ doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo
thông qua việc nâng cao hàm lượng sáng tạo trong các doanh nghiệp
khởi nghiệp, sinh viên khối ngành kỹ thuật là nhóm chủ thể khởi
nghiệp sáng tạo tiềm năng bởi đây là ngành liên quan nhiều đến hoạt
động sáng tạo và đổi mới công nghệ, là ngành “cốt lõi” tạo ra giá trị
gia tăng cho xã hội.

Tất cả những điều này đã đặt ra sự cần thiết phải có những nghiên
cứu đầy đủ và toàn diện về các yếu tố tác động mang tính nhận thức
1


cá nhân tới ý định khởi nghiệp sáng tạo của sinh viên khối ngành kỹ
thuật Việt Nam và xem xét mức độ tác động của các yếu tố tới ý định
khởi nghiệp thay đổi ra sao đối với các nhóm sinh viên kỹ thuật khác
nhau; qua đó tìm hiểu yếu tố gây dựng nên “gen cơ bản” của ý định
khởi nghiệp sáng tạo ở sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt Nam;
đồng thời đề xuất một số đề xuất nâng cao ý định khởi nghiệp sáng
tạo và các chương trình đào tạo ngành kỹ thuật phù hợp nhằm gia
tăng đội ngũ doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, góp phần quan trọng
đưa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ của người Việt ứng dụng vào
thực tiễn.
ii.
Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án nhằm xác định, đánh giá và xem
xét mức độ tác động của các yếu tố nhận thức cá nhân đến ý định
khởi nghiệp của sinh viên khối ngành kỹ thuật tại Việt Nam; so sánh
sự khác biệt về mức độ tác động của các yếu tố trên tới ý định khởi
nghiệp và mức độ sẵn sàng khởi nghiệp của các nhóm sinh viên khối
ngành kỹ thuật khác nhau; trên cơ sở đó đề xuất một đề xuất đối với
nhà nước, nhà trường và bản thân sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt
Nam nhằm nâng cao ý định khởi nghiệp của nhóm nhân lực này.
Để đạt đươc mục đích này, luận án hướng tới việc trả lời bốn câu
hỏi nghiên cứu sau:
• Tình hình khởi nghiệp sáng tạo và phát triển phong trào khởi
nghiệp của sinh viên các trường đại học nói chung và các đại học
kỹ thuật nói riêng trong giai đoạn hiện nay như thế nào?

• Những nhân tố nào thuộc về nhận thức cá nhân đối với hoạt động
khởi nghiệp ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của của sinh viên
ngành kỹ thuật? Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố nhận thức cá
nhân trên tới ý định khởi nghiệp của sinh viên ngành kỹ thuật như
thế nào?
• Các đặc điểm nhân khẩu học, kiến thức và kinh nghiệm khởi
nghiệp khác nhau có tạo ra sự khác biệt về mức độ tác động của
các nhân tố nhận thức cá nhân đến ý định khởi nghiệp và mức độ
sẵn sàng khởi nghiệp của sinh viên đại học ngành kỹ thuật hay
không?
• Có những giải pháp nào đối với cơ quan quản lý Nhà nước, các
trường đại học và bản thân sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt
Nam để nuôi dưỡng và hiện thực hoá ý định khởi nghiệp của sinh
2


viên, từ đó hình thành văn hóa khởi nghiệp để tạo ra cộng động,
mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo năng động, hiệu quả?
iii.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các lý thuyết liên quan tới
ý định khởi nghiệp và các yếu tố mang tính nhận thức cá nhân tác
động tới ý định khởi nghiệp của nhóm SV ngành kỹ thuật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về mặt nội dung của luận án là nhóm yếu
tố bên trong (cá nhân) mang tính nhận thức tác động ý định khởi
nghiệp cá nhân của nhóm SV khối ngành kỹ thuật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian là sinh viên khối ngành
kỹ thuật hai năm cuối trong các trường đại học trên địa bàn Việt
Nam. Để nghiên cứu đối tượng này, luận án sẽ tiến hành khảo sát
chọn mẫu là 2500 SV chính quy ngành kỹ thuật hai năm cuối tại 8

trường ĐH kỹ thuật trọng điểm phân bổ ở cả ba miền của Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian: Luận án được thực hiện
trong thời gian 4 năm (2014-2016), trong đó việc điều tra khảo sát
được thực hiện chủ yếu trong năm 2016.
iii.
Thu thập số liệu và phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng cả các dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp. Dữ
liệu thứ cấp được thu thập thông qua các kênh thông tin chính thức
và được xử lý bằng các phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích.
Dữ liệu định lượng sơ cấp được thu thập qua điều tra sơ bộ tại 01
trường đại học trọng điểm về kỹ thuật và điều tra chính thức tại 08
trường đại học kỹ thuật Việt Nam trên cả nước, sau đó được tiến
hành làm sạch và phân tích với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS và
AMOS. Thu thập dữ liệu định tính sơ cấp được thực hiện qua các
phỏng vấn sâu với các chuyên gia về chính sách và đào tạo khởi
nghiệp, các SV đã và chưa tham gia các hoạt động khởi nghiệp.
Về phương pháp nghiên cứu, luận án sử dụng cả nghiên cứu định
tính và nghiên cứu định lượng. Phương pháp nghiên cứu định tính
chủ yếu là phương pháp nghiên cứu tại bàn thông qua việc phân tích
các dữ liệu thứ cấp nhằm giúp hệ thống hoá cơ sở lý thuyết của luận
án, phân tích mô tả hiện trạng. Phương pháp nghiên cứu định lượng
được sự dụng để xác định các yếu tố nhận thức các nhân ảnh hưởng
đến ý định khởi nghiệp và xem xét mức độ ảnh hưởng của từng nhân
tố tới ý định khởi nghiệp, so sánh mức độ tác động của từng yếu tố
3


tới ý định khởi nghiệp, và so sánh ý định khởi nghiệp của các nhóm
SV khác nhau.
iv. Những đóng góp mới của luận án

v Về mặt lý luận:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cả trong và ngoài nước về vấn đề ý
định KN trong đó tập trung vào hình thức khởi nghiệp sáng tạo, từ đó
xây dựng bộ tiêu chí đánh giá các yếu tố chỉ báo về mặt nhận thức cá
nhân có tác động tới ý định và hành vi KN.
- Xây dựng được khung phân tích đánh giá các yếu tố về mặt nhận
thức cá nhân có ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp dựa trên mô hình
Lý thuyết hành vi có kế hoạch, đồng thời có bổ sung thêm 01 biến
độc lập và 02 biến điều khiển vào mô hình nghiên cứu.
- Lượng hoá và đánh giá mức độ tác động của các tiền tố mang tính
nhận thức cá nhân tới ý định KN của SV kỹ thuật Việt Nam và sự
khác biệt về mức độ tác động của các tiền tố tới chỉ số ý định KN,
đồng thời so sánh mức độ sẵn sàng KN giữa nhóm SV khối ngành kỹ
thuật khác nhau.
v Về mặt thực tiễn:
- Xây dựng bản đánh giá toàn cảnh về tình hình phát triển hoạt động
KN và phong trào KN của SV các trường đại học nói chung và các
trường đại học khối ngành kỹ thuật nói riêng trong thời điểm hiện tại
ở VN.
- Thông qua đánh giá và phân tích dữ liệu nghiên cứu, luận án sẽ xây
dựng một số đề xuất đến từ ba thành phần quan trọng trong hệ sinh
thái KN đổi mới sáng tạo Việt Nam nhằm nuôi dưỡng “lửa khởi
nghiệp” sáng tạo của tầng lớp tri thức trẻ SV khối ngành kỹ thuật:
nhà nước, nhà trường và sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt Nam.
v. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 06 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về các yếu tố tác
động đến ý định khởi nghiệp.
Chương 2: Cơ sở lý luận về ý định khởi nghiệp và các yếu tố
tác động tới ý định khởi nghiệp.

Chương 3:Tình hình phát triển các hoạt động KN sáng tạo và ý
định KN sáng tạo của sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt Nam.

4


Chương 4: Mô hình và phương pháp nghiên cứu đánh giá các
yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên khối ngành kỹ
thuật Việt Nam.
Chương 5: Kết quả nghiên cứu đánh giá các yếu tố ảnh hưởng
tới ý định khởi nghiệp của sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt Nam.
Chương 6: Bàn luận và hàm ý nghiên cứu.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý ĐỊNH KN
1.1 Tổng hợp cách tiếp cận của các nghiên cứu trên thế giới liên
quan tới đề tài luận án
Ý định khởi nghiệp phản ánh mức độ quan tâm của một cá nhân
đối với hoạt động khởi nghiệp. Ý định phản ảnh dự đoán khá chính
xác khả năng diễn ra hành vi trong tương lai, do đó việc tìm hiểu và
đánh giá cụ thể các yếu tố tác động tới ý định khởi nghiệp là vô cùng
quan trọng để lý giải hành vi khởi nghiệp.
Cũng chính vì lập luận đó mà các nghiên cứu trên thế giới đã xây
dựng và chứng minh rất nhiều các yếu tố tố tác động tới ý định khởi
nghiệp như nhân khẩu học, năng lực cá nhân, điểm tính cách cá nhân
và cá tính, xã hội, văn hoá, môi trường, giáo dục và các chương trình
đào tạo khởi nghiệp nói riêng
Theo Richard W. (2012), trong lịch sử, các nghiên cứu về chủ
đề yếu tố tác động tới ý định KN có 4 cách tiếp cận cơ bản:
(1) Cách tiếp cận đặc điểm, tính cách cá nhân trả lời câu hỏi ai sẽ
là doanh nhân;

(2) Cách tiếp cận đặc điểm xã hội học-nhân khẩu học trả lời câu
hỏi môi trường nào hình thành doanh nhân;
(3) Cách tiếp cận hành vi trả lời câu hỏi tại sao một số cá nhân
lựa chọn theo đuổi hành trình KN
(4) Cách tiếp cận tổng hợp với quan điểm ý định khởi nghiệp
chịu sự tác động của tổng hoà nhiều nhóm yếu tố khác nhau
Ở giai đoạn đầu của lịch sử nghiên cứu về ý định KN, các nhà
nghiên cứu tập trung chủ yếu vào tiếp cận đặc điểm cá nhân. Tuy
nhiên vào cuối những năm 1980, do không chứng minh được tính
nhất quán từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm, các mô hình và lý
thuyết xem xét ý định KN dựa trên cách tiếp cận đặc điểm tính cách
cá nhân có xu hướng bị giới học giả bác bỏ.
5


Song hành với cách tiếp cận đặc điểm tính cách cá nhân là
học thuyết đặc điểm xã hội - nhân khẩu học có tác động tới việc hình
thành và phát triển ý định KN cá nhân. Tuy nhiên ở các nghiên cứu
đương đại, cách tiếp cận này ít được sử dụng độc.
Bắt đầu từ cuối thập niên 80, hầu hết các các nghiên cứu KN
chuyển sang xu thế tiếp cận hành vi khởi nghiệp mà tiêu biểu là quá
trình hình thành ý định KN thông qua các mô hình ý định. Đây cũng
là xu thế nghiên cứu được sử dụng phố biến hiện nay. Nhìn nhận sâu
về cách tiếp cận này, khoảng vài thập kỷ gần đây, xu hướng chung
của các nghiên cứu trên thế giới tập trung vào đo lường ý định KN
của SV dưới tác động của các biến nhận thức cá nhân dựa trên Lý
thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) do học giả Ajzen khởi xướng năm
1991.
Bên cạnh đó, nhiều tác giả lại đưa ra quan điểm ý định khởi
nghiệp chịu sự tác động của tổng hoà nhiều nhóm yếu tố khác nhau.

Ví dụ Robinson & cộng sự cho rằng đặc điểm cá nhân kết hợp với
môi trường bên ngoài tác động tới ý định khởi nghiệp của một cá
nhân.
Tóm lại, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về các yếu tố tác
động tới ý tưởng khởi nghiệp, trong đó được áp dụng nhiều nhất phải
kể tới Lý thuyết TPB. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đương đại
gợi ý, đối với mỗi môi trường và mục đích nghiên cứu, nhà nghiên
cứu phải lựa chọn các nhóm yếu tố tác động thích hợp nhằm xây
dựng được mô hình nghiên cứu hợp lý nhất. Xu hướng chung của các
nghiên cứu đương đại là áp dụng TPB là mô hình gốc, đồng thời bổ
sung một số biến độc lập và biến điều khiển vào mô hình cho phù
hợp với thực tế triển khai nghiên cứu, đem lại kết quả khả thi nhất về
việc xem xét các yếu tố tác động tới ý định KN cá nhân. Đây cũng là
cách tiếp cận mà luận án lựa chọn.
1.2 Một số nghiên cứu điển hình ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nghiên cứu tập trung vào vấn đề nghiên cứu
ý định khởi nghiệp mới chỉ phát triển trong vài năm gần đây. Tuy
nhiên số lượng các nghiên cứu về ý định KN xuất hiện khá nhiều và
áp dụng trên nhiều khách thể nghiên cứu khác nhau, với các nhóm
tiền tố tác động đa dạng.
Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện nay chủ yếu được thực hiện
trong một phạm vi nhỏ (một hoặc một vài trường đại học). Chưa có
6


nghiên cứu dạng này trên phạm vi toàn quốc. Đặc biệt, các nghiên
cứu chuyên sâu về ý định KN về nhóm SV khối ngành kỹ thuật còn
chưa được thực hiện tại Việt Nam. Do vậy, hình thức KN sáng tạo
chưa được nhấn mạnh hoặc làm rõ trong các nghiên cứu này.
1.3 Nhận định khoảng trống lý thuyết của luận án

- Tác động của các tiền tố trong TPB đến ý định KN cá nhân
là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Luận án sẽ tiến hành kiểm nghiệm lại
lý thuyết này trong môi trưởng ở Việt Nam.
- Việc áp dụng TPB trong môi trường nghiên cứu hoàn toàn
mới là Việt Nam
- Luận án xem xét cả các yếu tố tác động trực tiếp và gián
tiếp, trong khi các nghiên cứu phần lớn xem xét nhóm yếu tố tác
động trực tiếp tới ý định KN cá nhân
- Luận án bổ sung thêm 01 biến độc lập (cảm nhận về sự may
mắn) và 02 biến điều khiển (đặc trưng nhân khẩu học và chương
trình đào tạo KN) vào mô hình nghiên cứu.
- Luận án tập trung vào đối tượng nghiên cứu là ý định KN
của SV khối ngành kỹ thuật, và do đó hình thức KN mà luận án
hướng tới là KN sáng tạo. Các nghiên cứu ở Việt Nam mới dừng lại
ở hình thức KN chung chung hoặc khởi sự doanh nghiệp.
Như vậy, luận án sẽ áp dụng 6 yếu tố tác động trong TPB
bao gồm: Thái độ/ quan điểm của cá nhân, Nhận thức kiểm soát
hành vi, Chuẩn chủ quan, Giá trị mong đợi của cá nhân, Niềm tin
với các chuẩn mực xã hội, Cảm nhận về năng lực bản thân. Bổ sung
01 yếu tố tác động bên trong cá nhân dựa trên thực tế tình hình khởi
nghiệp sáng tạo ở Việt Nam, ý kiến của một số chuyên gia về đào
tạo khởi nghiệp cho sinh viên và quan điểm của một số nghiên cứu
đương đại: Cảm nhận về may mắn. Bổ sung 02 yếu tố tác động bên
ngoài cá nhân có ảnh hưởng ngoại sinh tới ý định khởi nghiệp dựa
trên mô hình Bird: Đặc trưng nhân khẩu học và dựa trên mô hình
Lüthje & Franke: Các chương trình đào tạo khởi nghiệp trong trường
đại học.
Trên cở đo lường tác động trực tiếp và gián tiếp của 7 yếu tố
nhận thức cá nhân tới ý định khởi nghiệp, luận án sẽ xem xét đâu là
những yếu tố có tác động nhiều nhất và hình thức tác động (trực

tiếp/gián tiếp). Chưa dừng lại ở đó, luận án còn xem xét sự khác biệt
về mức độ tác động của 7 yếu tố trên tới ý định khởi nghiệp ở các
7


nhóm sinh viên khác nhau về đặc trưng nhân khẩu học, và kiến thức
và kinh nghiệm khởi nghiệp. Kết quả phân tích hai vấn đề trên sẽ
giúp luận án đề xuất giải pháp đối với cơ quan quản lý Nhà nước,
các trường đại học và bản thân sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt
Nam để nuôi dưỡng và hiện thực hoá ý định khởi nghiệp sáng tạo
của sinh viên, từ đó hình thành văn hóa khởi nghiệp để tạo ra cộng
động, mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo năng động, hiệu quả.
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KN VÀ
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP
2.1 Ý định khởi nghiệp
Trong nghiên cứu này, ý định KN được định nghĩa theo quan
điểm của Krueger, đó là sự cam kết về mặt nhận thức sẵn sàng thành
lập và làm chủ một doanh nghiệp mới dựa trên nền tảng khoa học
công nghệ trong tương lai gần với hai lý do: (1) Nghiên cứu của
Krueger là mô hình đã được kiểm định riêng cho KN, và (2) lí thuyết
gắn kết hiệu quả đối với việc thúc đẩy ý định của con người được
minh chứng qua nhiều thực nghiệm với những kĩ thuật khác nhau.
2.2 Khởi nghiệp
Trong khuôn khổ luận án này, khởi nghiệp được hiểu như
cách nhìn nhận chung trên thế giới là việc một cá nhân tự đứng ra
làm chủ hoặc đồng làm chủ gây dựng một doanh nghiệp mới dựa trên
áp dụng hoặc sáng tạo khoa học công nghệ và được gọi là nhóm
doanh nghiệp KN sáng tạo. Cách gọi này tương đồng với Điều 3 Luật
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành năm 2017, theo đó KN
sáng tạo là thành lập doanh nghiệp mới để khai thác một ý tưởng

sáng tạo.
2.3 Các hình thức khởi nghiệp
KN độc lập - KN hợp tác hoặc đồng khởi nghiệp
KN dưạ trên khoa học công nghệ - KN kinh doanh thông thường.
KN độc lập của cá nhân - KN trong nội bộ doanh nghiệp
KN cơ hội - KN cấp thiết
KN vì mục đích lợi nhuận - KN không vì mục tiêu lợi nhuận

8


2.4. Mô hình ý định khởi nghiệp
(1) Nhóm mô hình xem xét các yếu tố tác động bên trong cá nhân
• Mô hình xu hướng thái độ kinh doanh của Robinson & cs (1991)
• Mô hình sự kiện KN của Shapero và Sokol (1982),
• Mô hình tiềm năng KN của Krueger & Brazeal (1994)
• Mô hình Lý thuyết hành vi kế hoạch (TPB) của Ajzen (1991)

Hình 2.6: Mô hình Lý thuyết hành vi kế hoạch TPB
• Mô hình ý định KN của Linan (2004)
(2) Nhóm mô hình xem xét các yếu tố tác động bên ngoài cá nhân
• Mô hình thực hiện ý định KN của Bird (1988)
• Mô hình ý định khởi nghiệp Lüthje & Franke, (2003)
Đánh giá về các mô hình nghiên cứu

Hình 2.10: Tổng hợp khung lý thuyết mô hình nghiên cứu ý định KN
9


Trong các mô hình kể trên, chỉ riêng mô hình Lý thuyết hành

vì có kế hoạch do Ajzen (1978, 1981) xây dựng là xem xét cả các
yếu tố có tính cá nhân và các yếu tố xã hội nhằm dự đoán ý định của
con người trước các quyết định quan trọng. Điều đó lý giải vì sao
TBB được ứng dụng phổ biến hơn cả trong các nghiên cứu về ý định
KN. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu gợi ý, ngoài các yếu tố tác động
mang tính cảm nhận cá nhân trong khung mô hình TPB, nhà nghiên
cứu nên xem xét bổ sung các yếu tố cảm nhận các nhân khác, đồng
thời xem xét cả các yếu tố môi trường bên ngoài nhằm đem lại cái
nhìn tổng quát nhất, phù hợp nhất với môi trường nghiên cứu về ý
định KN và các yếu tố tác động. Đây là hướng nghiên cứu đang được
áp dụng phổ biến và cũng là cách xây dựng mô hình nghiên cứu luận
án áp dụng.
CHƯƠNG 3. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÁC HOẠT ĐỘNG
KN VÀ Ý ĐỊNH KN CỦA SV KHỐI NGÀNH KỸ THUẬT VN
3.1. Tổng quan về hoạt động khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam
Trong một vài năm gần đây, vấn đề khởi nghiệp trong giới trẻ
đã và đang là câu chuyện thời sự - kinh tế của đất nước và nhận được
sự quan tâm của toàn xã hội. Hàng loạt các chính sách, quy chế, dự
án được thành lập nhằm thúc đẩy phòng trào khởi nghiệp, đặc biệt là
khởi nghiệp sáng tạo dựa trên nền tảng khoa học công nghệ. Điển
hình là Nghị định 118/2015/NĐ-CP với những quy định chi tiết và
hướng dẫn một số điều trong Luật Đầu tư đã mở rộng đối tượng ưu
đãi đầu tư gồm các nhà đầu tư mạo hiểm và phát triển công nghệ cao
trong các dự án khởi nghiệp sáng tạo; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày
16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Luật
Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và được Quốc hội thông qua vào tháng
6/2017 và chính thức có hiệu lực từ năm 2018 đã chính thức đặt nền
móng pháp lý cho hệ thống pháp luật về hỗ trợ nhóm doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo (startup) chiếm vị trí đặc biệt trong nền kinh tế
Việt Nam

Với những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc ban hành
các chính sách, cơ chế và chương trình thúc đẩy doanh nghiệp khởi
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở
trên, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về KN đáng ghi nhận như tăng
10


số lượng các doanh nghiệp KN, sự phát triển các quỹ đầu tư cho KN,
tinh thần KN của các cá nhân trong xã hội được nâng cao.
Tuy nhiên so với các nước trong khu vực thì thực trạng về hoạt
động khởi nghiệp, đặc biệt là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở nước ta
còn khá nhiều hạn chế, nhận thức về văn hóa khởi nghiệp còn thấp,
chưa có nhiều chính sách, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp đi vào thực
tiễn một cách hiệu quả. Đặc biệt các hoạt động kinh doanh khởi
nghiệp ở Việt Nam đa phần không mang tính đổi mới sáng tạo.
Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân xuất phát từ ba chủ thể
quan trọng trong nền kinh tế: (1) các cơ quan quản lý nhà nước với
các rào cản về cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật, bộ máy quản
lý khởi nghiệp vĩ mô; (2) các đơn vị đào tạo nguồn nhân lực mà đặc
biệt là các trường đại học khối ngành kỹ thuật – nơi được coi là một
trong những môi trường hiệu quả ươm mầm các cá nhân đam mê
khởi nghiệp sáng tạo; (3) bản thân người khởi nghiệp tiềm năng mà
trong luận án này chính là đội ngũ sinh viên khối ngành kỹ thuật
Việt Nam.
Như vậy Việt Nam cần gấp rút xây dựng các cơ chế chính
sách, nền tảng văn hoá xã hội và chương trình hành động nhằm đẩy
mạnh hoạt động khởi nghiệp ở mỗi cá nhân, đặc biệt là tầng lớp tri
thức trẻ SV và chú trọng tới nhóm SV khối ngành kỹ thuật để thúc
đẩy việc hình thành và phát triển các thế hệ khởi nghiệp sáng tạo
trong tương lai gần.

3.2 Ý định KN của SV khối ngành kỹ thuật VN
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, KHKT đã trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển, là
lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu bởi đặc điểm của
kinh tế tri thức là vai trò ngày càng to lớn của những đổi mới liên tục
về khoa học kỹ thuật trong sản xuất và vai trò chủ đạo của thông tin
và tri thức với tư cách là nguồn lực cơ bản tạo nên sự tăng trưởng và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó, trình độ phát triển kỹ
thuật có tính quyết định trong việc phát triển kinh tế quốc gia. Trong
bối cảnh đó, nguồn nhân lực có chất lượng cao về kỹ thuật và khoa
học công nghệ đã trở thành lợi thế quyết định của mỗi quốc gia.
Nắm bắt xu hướng đó, nền giáo dục Việt Nam đã có bước
chuyển dịch rõ nét về cơ cấu ngành nghề trong đào tạo ở bậc đại học,
11


trong đó tập trung và ưu tiên vào khối ngành kỹ thuật. Theo nghiên
cứu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2015 (không bao gồm Trung
Quốc và Ấn Độ), Việt Nam xếp vị trí thứ 10 trong danh sách các
nước có nhiều SV tốt nghiệp ngành kỹ thuật nhất, với 100.390 kỹ sư
tốt nghiệp mỗi năm. Bên cạnh đó, sự quan tâm trở lại của toàn xã hội
với nhóm ngành kỹ thuật đưa đến xu hướng tăng tỷ lệ đào tạo khối
ngành kỹ thuật trong các trường đại học. Cơ cấu quy mô SV đại học
chính quy theo nhóm ngành trong thời gian gần đây được Bộ
GD&ĐT ban hành cho biết nhóm ngành V khoa học công nghệ
chiếm vị trí lớn nhất trong tỷ trọng đào tạo (32,6%). Theo báo cáo
cập nhật giáo dục đại học tháng 7/2014 của Quỹ Giáo dục Việt Nam
(VEF), kỹ thuật là một trong các nhóm ngành mà SV giỏi Việt Nam
thường có xu hướng lựa chọn.
Như vậy, với số lượng lớn SV khối ngành kỹ thuật, sự rộng

mở các ngành nghề đào tạo trong các trường đại học cho khối ngành
kỹ thuật và sự quan tâm của toàn xã hội đối với khối ngành này, Việt
Nam được coi là quốc gia tiềm năng cho khởi nghiệp sáng tạo bởi
SV khối ngành kỹ thuật được coi là nhóm nhân lực nguồn cho các
thế hệ KN sáng tạo của xã hội trong tương lai, từ đó tạo đà đưa Việt
Nam có thể đi tắt đón đầu về khoa học công nghệ và phát triển nền
kinh tế tri thức.
Những năm trở lại đây phong trào đưa KN vào giảng đường
đại học nhằm nâng cao ý định KN và thúc đẩy văn hóa KN cho SV
diễn ra khá mạnh mẽ ở Việt Nam. Không chỉ khối các trường đại học
kinh tế chú trọng tới hoạt động này mà các trường đại học về kỹ
thuật cũng đã bắt đầu chuyển mình theo hướng tiếp cận giảng dạy và
nghiên cứu khoa học áp dụng vào thực tế. Các trường đại học kỹ
thuật Việt Nam đã nhìn nhận ngành kỹ thuật là ngành có lợi thế về
KN, đặc biệt là KN sáng tạo. SV khối ngành kỹ thuật Việt Nam được
khuyến thích tham gia công tác nghiên cứu khoa, câu lạc bộ KN,
vườm ươm SV KN, cuộc thi KN (Bảng 3.7).
Với những nỗ lực thắp lửa KN cho SV khối ngành kỹ thuật
đã đạt nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên theo nhận định của các
chuyên gia, phong trào SV khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay đang
chỉ chú trọng khởi nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ, công nghệ phần
mềm, đặc biệt phát triển phần mềm ứng dụng cho game, trong khi
12


các lĩnh vực công nghệ cao mang tính đột phá thì chưa nhiều, số
lượng các dự án KN áp dụng vào thực tế còn rất thấp.
Điều này đặt ra yêu cầu bức thiết về các cơ chế chính sách và
môi trường KN phù hợp để khai thác hiệu quả hơn nữa lợi thế về số
lượng đông đảo SV khối ngành kỹ thuật tại Việt Nam hiện nay và làn

sóng khởi nghiệp rất sôi động của SV nhóm ngành này.
Bảng 3.5:Hoạt động hỗ trợ nâng cao ý định khởi nghiệp sinh viên
Tiêu chí
ĐHBK HN
ĐHBK HCM
Văn hóa của
Trường
Vai trò của
lãnh đạo

Vườm ươm
KNST

Văn hóa KN trong trường
ĐH từ rất sớm và đang tiếp
tục phát triển theo hướng,
đại học sáng tạo
Ban lãnh đạo đặt trọng tâm
đào tạo và truyền cảm hứng
KN cho SV qua đam mê
nghiên cứu KH và sáng tạo.
Hình thành vườm ươm
doanh nghiệp từ sớm (hiện
không hoạt động)

Văn hóa KN sáng tạo cho
SV được định hình từ rất
sớm và tiếp tục được duy
trì, phát triển
Ban lãnh đạo hỗ trợ tối đa

các hoạt động KN cho SV
trong nhà trường.

-Hình thành vườm ươm
doanh nghiệp từ sớm (hiện
không hoạt động)
-TT Ươm tạo doanh
nghiệp công nghệ
Co-Working UP-BK (2017)

Không gian hỗ BKHup
trợ
Space (2016)
KN sáng tạo Việt – Đức Bachkhoa
Cuộc thi KNST
(2013)
(2018)
Nhiều CLB
CLB SV KN Nhiều CLB

Innovation

Môn học start-up chính thức Nhiều khóa học start up
được đưa vào giảng dạy lựa chọn cho SV
theo hình thức tự chọn
Chuẩn bị đưa KNST vào
Khóa học chính
chương trình đào tạo chính
quy KNST
khóa cho SV các ngành

Hội thảo đa dạng, trong Hội thảo đa dạng, trong
Hội thảo KNST
nước và quốc tế
nước và quốc tế
Đánh giá của Số lượng các Startup theo Là một trong hai lò đào
chuyên gia
học khá lớn
tạo Starrup của Việt Nam
Khóa học tự
chọn KNST

13


CHƯƠNG 4. MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Từ những nghiên cứu tổng hợp về các vấn đề xung quanh lĩnh
vực KN và ý định KN, có thể khẳng định quyết định trở thành một
doanh nhân KN là một quyết định có chủ ý và có ý thức, đòi hỏi thời
gian, lập kế hoạch cẩn thận và mức độ xử lý nhận thức cao. Do đó,
một quyết định về khởi nghiệp được coi là một hành vi có kế hoạch
có thể được giải thích bằng các mô hình ý định. Việc nghiên cứu hiện
tượng doanh nhân và ý định khởi nghiệp của các cá nhân dựa trên
các mô hình ý định được coi là một cách tiếp cận thích hợp để phân
tích vấn đề thành lập liên doanh mới. Trên cơ sở phân tích các ưu
nhược điểm phù hợp với đối tượng và phạm vị nghiên cứu đã trình
bày ở trên, luận án đề xuất khung mô hình nghiên cứu cụ thể như
sau:
• Dựa vào mô hình Lý thuyết TPB: hình thành 06 yếu tố tác
động mang tính cảm nhận cá nhân gồm Giá trị mong đợi của cá

nhân, Thái độ đối với việc KN, Niềm tin về các chuẩn mực xã hội,
Chuẩn chủ quan, Cảm nhận về năng lực bản thân, Nhận thức kiểm
soát hành vi cũng như mối quan hệ giữa các yếu tố này.
• Dựa vào ý kiến thực tế của các chuyên gia, văn hóa kinh
doanh “buôn may bán đắt” ở Việt Nam và lý thuyết về Tâm điểm
kiểm soát: hình thành 01 yếu tố tác động mang tính cảm nhận cá
nhân là Cảm nhận về may mắn cũng như mối quan hệ giữa Cảm
nhận về may mắn với Tính khả thi cảm nhận và Ý định KN.
• Dựa vào mô hình Thực hiện ý tưởng KN của Bird: hình thành
01 biến điều khiển: Đặc trưng nhân khẩu học nhằm xem xét sự khác
biệt về mức độ tác động của các biến cảm nhận cá nhân tới ý định
KN ở các nhóm SV khác nhau về đặc trưng nhân khẩu học.
• Dựa vào mô hình Ý định KN của Lüthje & Franke: hình
thành 01 biến điều khiển: Các chương trình đào tạo KN nhằm xem
xét sự khác biệt về mức độ tác động của các biến cảm nhận cá nhân
tới ý định KN ở các nhóm SV khác nhau về kiến thức và kinh
nghiệm KN.

14


GT
H1
H2a
H2b
H3
H4
H5
H6a
H6b

H7
H8
&
H9

Hình 4.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Các giả thuyết của mô hình nghiên cứu như sau:
Tác động
MQH
Giá trị mong đợi - Thái độ
+
Niềm tin về chuẩn mực xã hội – Chuẩn chủ quan
+
Niềm tin về chuẩn mực xã hội - Thái độ
+
Cảm nhận năng lực bản thân - Nhận thức kiểm
+
soát hành vi
Cảm nhận về may mắn - Nhận thức kiểm soát
Thái độ - Ý định khởi nghiệp
+
Chuẩn chủ quan - Ý định khởi nghiệp
+
Chuẩn chủ quan - Nhận thức kiểm soát hành vi
+
Nhận thức kiểm soát hành vi - Ý định khởi nghiệp
+
Mức độ tác động của các yếu tố nhận thức cá Có sự
nhân -Ý định KN giữa các nhóm SV khác nhau về khác
đặc trưng nhân khẩu, kiến thức &kinh nghiêm KN biệt


4.2 Thiết kế nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu được thực hiện qua 4 bước: Xây dựng
mô hình và thang đo; Đánh giá sơ bộ; Đánh giá chính thức; Phỏng
vấn sau NC định lượng (Hình 4.2). Các thang đo cho từng nhân tố
trong mô hình được phát triển dựa vào các thang đo đã được sử dụng
15


trong các nghiên cứu trước đây về ý định KN và tiến hành đánh giá,
bổ sung, hiệu chỉnh, phỏng vấn thử nghiệm để đánh giá tinh tin cậy
trước khi có được bảng hỏi cuối cùng.
4.3 Chọn mẫu và phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu
Luận án điều tra 2500 SV thuộc hai năm cuối hệ đại học tại 8
trường đại học phía Bắc và phía Nam trên cả nước, trong đó riêng tại
trường ĐHBK HN sẽ tiến hành lấy mẫu theo cơ cấu ngành đào tạo.
4.4 Phương pháp phân tích dữ liệu
Nghiên cứu sử dụng cả nghiên cứu định tính và nghiên cứu
định lượng cùng các dữ liệu thứ cấp, sơ cấp. Trong đó: Phân tích dữ
liệu thứ cấp bằng các PP. tổng hợp, so sánh, phân tích và Phân tích
dữ liệu sơ cấp bằng phương pháp định lượng và phân tích dữ liệu sơ
cấp bằng phương pháp định tính (Hình 4.2). Phân tích dữ liệu sơ cấp
bằng phương pháp định lượng như Hình 4.5

Hình 4.5: Phân tích dữ liệu sơ cấp bằng phương pháp định lượng

16


Hình 4.2 Quy trình nghiên cứu luận án

CHƯƠNG 5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
5.1 Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Kết quả điều tra từ 8 trường đại học trên cả nước với 2500
phiếu điều tra phát đi, thu về được 1.789 phiếu hợp lệ (71.5%).
5.2 Kết quả đánh giá sơ bộ thang đo
PP. Cronbach alpha kiểm định 41 biến quan sát thuộc 08
thang đo trong mô hình nghiên cứu đề xuất có đủ độ tin cậy để lấy ý
kiến trong Phiếu khảo sát. Phân tích EFA loại 04 biến: EXP5, SUB3,
SEF4, SEF6.
5.3 Kết quả đánh giá chính thức thang đo
Phân tích CFA được thực hiện với mô hình đo lường và mô
hình tới hạn với mẫu nghiên cứu chính thức (n=1.789).
17


Kết quả phân tích bằng mô hình tới hạn cho thấy mô hình
tương thích với dữ liệu thực tế và có thể xem xét đưa vào phân tích ở
mô hình tới hạn để đánh giá giá trị hội tụ và phân biệt giữa các nhân
tố trong mô hình. 06 biến có hệ số tải nhân tố nhỏ sẽ tiếp tục bị loại
khỏi mô hình tới hạn: ATT5, BEL4, SUB1, SEF7, PBC6, RIS1.
Như vậy, 8 biến trong mô hình được đo bằng 31 thang đo.
Kết quả phân tích bằng mô hình tới hạn cho thấy mô hình
nghiên cứu tương thích với dữ liệu thị trường. Các hệ số tải nhân tố
đều có hệ số tải nhỏ đều lớn hơn 0.5, cho thấy các nhân tố trong mô
hình đạt giá trị hội tụ và các hệ số tương quan giữa các nhân tố đều
nhỏ hơn 0.9 chứng tỏ các nhân tố đạt giá trị phân biệt
Kết quả đánh giá độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích cho
thấy các hệ số tin cậy tổng hợp đều lớn hơn 0.7, phần lớn phương sai
trích của các nhân tố đều > 0.5. Kết quả kiểm định hệ số tương quan
khác đơn vị bằng phương pháp bootstrap cho thấy các khái niệm

nghiên cứu trong mô hình đạt giá trị phân biệt.
Kết quả phân tích bằng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM và
kiểm định các giả thuyết nghiên cứu cho thấy chấp nhận các giả
thuyết H1, H2a, H2b, H3, H4, H5, H6b, H7; bác bỏ 01 giả thuyết
H6a. Kết quả phân tích đa nhóm kiểm định các giả thuyết nghiên cứu
H8, H9 cho thấy chấp nhận giả thuyết H9 nhưng H8 bị bác bỏ.
Kết quả đánh giá tác động trực tiếp, gián tiếp của các yếu tố
trong mô hình tới ý định khởi nghiệp của SV cho thấy tác động mạnh
nhất là biến “Thái độ đối với việc KN”, tiếp theo là “Nhận thức kiểm
soát hành vi”. Đây cũng là 2 biến có tác động trực tiếp tới “Ý định
KN”. 05 biến còn lại tác động gián tiếp tới Ý định KN trong đó
“Cảm nhận về năng lực bản thân” có điểm tác động đứng thứ ba tới ý
định KN, tiếp đó là “Giá trị mong đợi của cá nhân”; “Niềm tin về
chuẩn mực xã hội”; “Chuẩn chủ quản” và “nhận thức về may mắn”
có mức tác động nhỏ nhất.
Kết quả so sánh mức độ tác động của các yếu tố cảm nhận cá
nhân tới ý định khởi nghiệp của sinh viên cho thấy không tồn tại sự
khác biệt ở các nhóm sinh viên với đặc trưng nhân khẩu học khác
nhau. Sự khác biệt tồn tại duy nhất trong trường hợp so sánh nhóm
có và không tham gia chương trình đào tạo khởi nghiệp, theo đó sinh
viên có kiến thức và kinh nghiệm khởi nghiệp độc lập hơn trong việc
18


ra quyết định, sự tự tin vào năng lực bản thân cũng cao hơn và không
cảm nhận yếu tố may mắn tồn tại trong khởi nghiệp.
Kết quả đánh giá của SV về từng yếu tố trong mô hình và
mức độ ý định khởi nghiệp của SV cho thấy Ý định khởi nghiệp của
SV khối ngành kỹ thuật Việt Nam ở mức điểm trung bình (Mean =
3.293). Trong các yếu tố tác động, Thái độ với việc khởi nghiệp có

điểm đánh giá ở mức khá cao (Mean = 3.8), trong khi các biến thể
hiện nhận thức về năng lực của bản thân SV, nhận thức kiểm soát
hành vi chỉ ở mức trung bình. Điểm khả quan là SV hầu như không
tin tưởng nhiều vào yếu tố may rủi trong kinh doanh.
Kết quả so sánh ý định KN của các nhóm SV khác nhau cho
thấy SV tham gia các khoá đào tạo KN có ý định KN cao hơn. Ý
định KN của SV giữa các trường cũng khác nhau, theo đó ý định KN
của SV ở các trường phía Nam cao hơn phía Bắc và SV các trường
đại học nhỏ, địa phương có ý định KN cao hơn tại các trường ở trung
tâm. Xét về ngành học, xu hướng cho thấy nhóm ngành Cơ khí có ý
định khởi nghiệp cao hơn ngành CNTT và cac ngành khác
CHƯƠNG 6. BÀN LUẬN VÀ HÀM Ý NGHIÊN CỨU
6.1 Bàn luận về kết quả nghiên cứu
Kết quả sơ bộ ghi nhận SV kỹ thuật Việt Nam có xuất thân
gia đình làm kinh doanh ở mức thấp, rất ít cơ hội tham gia nghiên
cứu khoa học nhưng lại đi làm thêm khá nhiều, tỷ lệ SV tham gia các
khoá đào tạo khởi nghiệp trong trường rất thấp. SV có lo lắng lớn
nhất khi khởi nghiệp là khó khăn liên quan tới vốn, thủ tục vay vốn,
tiếp đó là nhận thức thiếu hụt các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng
KN. Nhận xét chung là các điều kiện cơ bản để sinh viên phát huy
tiềm năng khởi nghiệp là khá thấp.
Kết quả phân tích cho thấy ý định khởi nghiệp chỉ đạt ở mức
trung bình, ước lượng có hơn 50% SV có ý định khởi nghiệp. Đây là
một con số khá lớn, tuy nhiên việc đi từ khía ý định tới hành vi là
một chặng đường dài. Nhà trường vẫn cần có những khuyến khích,
tạo những cơ hội để SV nuôi dưỡng ý định khởi nghiệp và có thể
chuyển nó thành hành động trong thực tế.
Trong các yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp, thái độ
với việc khởi nghiệp có điểm đánh giá khá cao. Đây cũng là yếu tố
19



tác động mạnh nhất tới ý định khởi nghiệp. Điều này cho thấy, SV
hiện nay có thái độ khá tích cực với việc khởi nghiệp kinh doanh, thể
hiện mong muốn “cho việc” hơn là “xin việc”. Đặt trong bối cảnh
của nghiên cứu này và hầu hết các nghiên cứu trên thế giới, thái độ
KN là yếu tố có tác động lớn nhất tới ý định KN thì đây là một tín
hiệu vô cùng tích cực.
Tuy nhiên, nhóm các yếu tố liên quan tới năng lực bản thân
gồm “Nhận thức kiểm soát hành vi”, ‘Nhận thức về năng lực bản
thân’ và ‘Giá trị mong đợi của cá nhân’ lại có điểm đánh giá rất thấp
cho thấy tính tự tin, khả năng đánh giá năng lực bản thân vẫn là một
rào cản đối với SV. Kết quả này cho thấy SV có thái độ rất tốt với
khởi nghiệp nhưng chưa thực sự tin tưởng vào năng lực bản thân
mình cũng như khả năng thực hiện hoạt động KN. Kết quả cũng phản
ảnh đúng thực trạng hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay
mang tính chất phong trào, tuyên truyền là chính; trong khi việc đào
tạo và cung cấp kiến thức, kinh nghiệm khởi nghiệp, tạo cơ hội cho
SV kỹ thuật được cọ sát với thực tế khởi nghiệp lại là một lỗ hổng
lớn mà nhà trường và xã hội cần giải quyết. Đây cũng là một đòi hỏi
về việc cần tạo ra những chương trình, môn học thúc đẩy tính tự tin,
am hiểu về việc khởi sự kinh doanh để tạo ra, nuôi dưỡng ý định
khởi nghiệp của SV.
Nhóm yếu tố liên quan tới cảm nhận của SV về ý kiến người
xung quanh, về chuẩn chủ quan đạt mức điểm trung bình. Tín hiệu
này cho thấy quan niệm của xã hội về việc KN có được SV khối
ngành kỹ thuật quan tâm, nhưng ở mức tham khảo.
Yếu tố Cảm nhận về may mắn được đánh giá ở mức điểm thấp
chứng tỏ phần đông SV không tin vào số phận và khẳng chính mình
mới là nhân tố quyết định hành động KN của bản thân. Tuy vậy, cảm

nhận về khả năng tự kiểm soát trong hoạt động thực tiễn của SV lại ở
mức thấp, không tương xứng với nhận thức này của SV. Điều này
một lần nữa đặt ra nhu cầu xây dựng chương trình học về khởi
nghiệp, tạo lập, quản trị và điều hành doanh nghiệp, điều hành các dự
án kinh doanh và quản lý rủi ro cho SV các ngành kỹ thuật.
Có hai yếu tố chính tác động mạnh nhất và có ảnh hưởng trực
tiếp đến ý định khởi nghiệp của SV là thái độ với việc khởi nghiệp và
nhận thức kiểm soát hành vi. Các yếu tố còn lại có tác động gián tiếp
tới ý định khởi nghiệp và ở mức độ tác động yếu hơn. Kết luận trên
20


tương đối nhất quán với các kết quả nghiên cứu về ý định khởi
nghiệp và nhân tố tác động tại các nước phát triển. Điều này một lần
nữa chứng minh TPB được áp dụng hiệu qủa trong môi trường kinh
tế đang phát triển như Việt Nam. Kết quả trên đem lại hàm ý quan
trọng trong việc định hình và nâng cao ý định khởi nghiệp của SV
khối ngành kỹ thuật Việt Nam: Các chính sách vĩ mô và nhà trường
trước hết cần quan tâm tới việc nâng cao quan điểm tích cực của SV
với khởi nghiệp, tiếp đó là xây dựng lòng tin của SV với năng lực
khởi nghiệp của mình và cung cấp các nguồn lực hỗ trợ KN để tăng
niềm tin của SV đối với các hỗ trợ hiệu quả từ phía nhà trường và xã
hội.
Chuẩn chủ quan không có tác động trực tiếp tới ý định khởi
nghiệp của SV mà chỉ tác động gián tiếp tới ý định KN thông qua
nhận thức kiểm soát hành vi, và ở mức tác động rất khiêm tốn. Đây
là nhân tố gây bàn cãi nhất trong số ba tiền tố chính ở TPB. Như vậy,
nghiên cứu đã chứng minh trong môi trường nghiên cứu Việt Nam,
với nhóm khách thể nghiên cứu là SV khối ngành kỹ thuật thì chuẩn
chủ quan hầu như không có ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của

SV. Rất nhiều nghiên cứu trên thế giới đưa ra kết luận tương tự.
Kết quả so sánh cho thấy SV tham gia đào tạo khởi nghiệp có
ý định khởi nghiệp cao hơn và không bị tác động bởi các quan niệm
về may mắn, thái độ với khởi nghiệp cũng tích cực hơn. Như vậy,
việc đưa các chương trình đào tạo khởi nghiệp ở cả hình thức môn
học chính khoá và hoạt động ngoại khoá vào chương trình đào tạo
của SV khối ngành kỹ thuật được luận án chứng minh là tạo ra sự
khác biệt về mức độ tác động của các tiền tố tới ý định KN của SV
khối ngành kỹ thuật VN.
Ngoài ra, kết quả so sánh còn cho thấy xu thế SV khối ngành
Cơ khí, cơ khí chế tạo, khoa học vật liệu có ý định KN cao hơn so
với SV thuộc nhóm ngành CNTT, Điện, Điện tử và Tự động hóa. Kết
quả này đi ngược lại hoàn toàn so với các nghiên cứu thực nghiệm
trên thế giới và dự đoán của các chuyên gia KN là SV nhóm ngành
CNTT dẫn đầu về hoạt động KN. Kết quả trên được nhóm chuyên
gia khởi nghiệp lý giải do khối ngành CNTT có cơ hội thu nhập rất
tốt ở các doanh nghiệp, do vậy SV không quan tâm tới khởi nghiệp là
điều dễ hiểu. Kết quả này phản ảnh chính xác thực tế khởi nghiệp ở
21


các nước đang phát triẻn như Việt Nam là do nhu cầu, áp lực cuộc
sống chứ không phải do sở thích cá nhân
So sánh ý định KN của SV ở 8 trường đại học luận án tiến hành
điều tra, xu hướng cho thấy SV các trường đại học phía Nam có ý
định KN cao hơn ở các trường đại học phía Bắc. Điều này cũng phải
ảnh đúng thực tế hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay và xu
hướng đào tạo các trường phía Nam có tính áp dụng cao hơn.
SV ở các trường đại học quy mô nhỏ (như ĐH Điện Lực) và các
trường đại học địa phương (như ĐH Công nghệ – ĐH Thái Nguyên,

ĐH Cần Thơ) có ý định KN cao hơn so với SV ở các trường trung
tâm và các trường đại học lớn.. Về vấn đề này, các chuyên gia nhận
định có 2 lý do: thứ nhất các trường đại học lớn như ĐHBK HN có
chương trình đào tạo nặng hơn, do vậy SV không còn nhiều thời gian
cho khởi nghiệp. Thứ hai, cơ hội việc làm tốt với mức thu nhập cao
của SV các trường đại học lớn, trọng điểm. Do vậy các em không có
nhiều mong muốn khởi nghiệp là điều dễ hiểu.
6.2 Một số đề xuất từ kết quả nghiên cứu nhằm nâng cao ý định
khởi nghiệp cho SV khối ngành kỹ thuật Việt Nam
Trong số yếu tố nhận thức cá nhân mà luận án kiểm nghiệm
có sự ảnh hưởng tới ý định KN của SV khối ngành kỹ thuật Việt
nam, thái độ tích cực với KN là yếu tố nhận thức cá nhân có tác động
lớn nhất tới ý định khởi nghiệp. Do đó, luận án đề xuất rằng nâng cao
thái độ tích cực của SV với hoạt động KN là việc làm đầu tiên mà
nhà nước và nhà trường cần hướng đến vì mục tiêu xây dựng xã hội
KN. Tiếp đó, kết quả nghiên cứu của luận án ghi nhận yếu tố Nhận
thức kiểm soát hành vi đóng vai trò quan trọng thứ hai tác động tới ý
định khởi nghiệp của sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt Nam. Do
đó, đây phải là yếu tố được chú trọng để hoạt động khởi nghiệp của
sinh viên đi vào thực chất, tránh tính chất phong trào, hô hào khẩu
hiệu hay xây dựng dự án khởi nghiệp để đi thi là chính.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu chính trên, luận án đưa ra một
số đề xuất thúc đẩy ý định khởi nghiệp của nhóm sinh viên khối
ngành kỹ thuật nhằm phát triển các hoạt động khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo trong tương lai. Các đề xuất hướng đến tác động tích cực
vào các yếu tố tác động cá nhân mà luận án đã phân tích có ảnh
hưởng lớn tới việc hình thành và nâng cao ý định KN cho sinh viên
22



×