Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Luận văn Thạc sỹ: Chất lượng sinh hoạt chi bộ của Đảng bộ khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 117 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chi bộ  là “nền tảng”, “gốc rễ” của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo  
HTCT (hệ thống chính trị) ở cơ sở, chi bộ là cầu nối trực tiếp giữa Đảng  
với nhân dân; chi bộ lãnh đạo đơn vị cơ sở thực hiện thắng lợi đường lối,  
chủ  trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực hiện 
nhiệm vụ chính trị của đơn vị cơ sở; xây dựng tổ chức đảng và phát triển 
đảng viên; làm công tác vận động quần chúng. Chi bộ  có mạnh thì nền  
tảng của Đảng mới vững chắc, muốn chi bộ  mạnh, trước hết cấp  ủy,  
đảng viên phải nêu cao trách nhiệm, tính tiên phong trong sinh hoạt chi bộ, 
sinh hoạt Đảng. Sinh hoạt chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi bộ  là nhân 
tố quyết định vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, giúp đảng 
viên nâng cao nhận thức chính trị, tư  tưởng và thực hiện chức năng lãnh 
đạo, giáo dục của chi bộ.
Sinh hoạt chi bộ có vai trò, tác dụng to lớn đối với xây dựng nội bộ 
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và  
sức chiến đấu của TCCSĐ (tổ  chức cơ  sở  đảng), là khâu cuối cùng bảo  
đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra. Cho nên, nếu sinh hoạt  
của chi bộ  bị  buông lỏng, rời rạc, thiếu nội dung chính trị, tư  tưởng cụ 
thể, thiết thực, thì vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng có nguy cơ suy yếu, 
vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên không được phát 
huy, kỷ luật lỏng lẻo, các hiện tượng tiêu cực nảy sinh và phát triển, sự 
gắn bó giữa Đảng và quần chúng giảm sút. Thực tế cho thấy, cấp  ủy chi  
bộ, đảng viên nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của sinh hoạt  
chi bộ  thì  ở  chi bộ  đó tính đảng được phát huy, công tác xây dựng Đảng 


2
được chú trọng, vai trò của cấp ủy, tính tiền phong gương mẫu của đảng 


viên và các nhiệm vụ chính trị của chi bộ đạt kết quả tốt.
Nhận thức rõ điều này, trong những năm qua Đảng ta đã có nhiều 
chủ  trương, giải pháp về  xây dựng củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, 
sức chiến đấu của TCCSĐ, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực  
hiện sự  chỉ  đạo của Trung  ương các cấp uỷ, các tổ  chức đảng đã tập 
trung lãnh đạo, tạo được chuyển biến tích cực về  các mặt công tác xây  
dựng Đảng. Tuy nhiên, vẫn còn không ít chi bộ  và TCCSĐ bộc lộ  những 
khuyết điểm, yếu kém. Một trong những nguyên nhân cơ  bản dẫn đến 
tình trạng đó là do chất lượng sinh hoạt đảng ở các chi bộ, đảng bộ cơ sở 
chưa đạt yêu cầu. Do đó, trong Báo cáo xây dựng Đảng tại Đại hội đại  
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã nhấn mạnh “Phải nâng 
cao chất lượng sinh hoạt của các TCCSĐ từ trung ương đến chi bộ, nâng 
cao chất lượng sinh hoạt của các cấp  ủy là vấn đề  quan trọng”. Sau đó, 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đều nêu rõ 
sự  lúng túng, nghèo nàn cả  về  nội dung và hình thức trong sinh hoạt chi 
bộ. Báo cáo xây dựng Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của 
Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định “Không ít cơ  sở  đảng yếu kém, năng 
lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp, sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên  
lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu” [19,  
tr. 27].
Chỉ thị số 10 – CT/TW, ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương  
đã chỉ rõ: Vẫn còn không ít TCCSĐ và chi bộ yếu kém; một bộ  phận cán  
bộ, đảng viên, trong đó có cả  đảng viên lẫn lãnh đạo quản lý  ở  các cấp  
suy thoái về  phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống; nhiều cấp uỷ, chi 
bộ chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt đảng, buông lỏng công tác 


3
quản lý, giáo dục đảng viên; nội dung sinh hoạt chi bộ  còn nghèo nàn  
thiếu nội dung chính trị, tư tưởng cụ thể; tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính  

chiến đấu, tinh thần tự phê bình và phê bình, ý thức tổ chức, kỷ luật yếu  
kém; tinh thần đoàn kết và tình đồng chí bị giảm sút; chi bộ chưa thực sự 
là nơi sinh hoạt tư  tưởng để  cấp  ủy nắm và hiểu tâm tư, nguyện vọng  
của đảng viên; chi bộ chưa thể hiện tốt vai trò là nơi lãnh đạo, giáo dục,  
quản lý, giám sát và rèn luyện đội ngũ đảng viên. Tình hình đó làm "Suy 
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, giảm năng lực lãnh đạo và sức  
chiến đấu của Đảng ngay từ chi bộ”[2, tr.3].
Đảng bộ  Khối các cơ  quan thành phố  Hà Nội, là đảng bộ  đặc thù, 
TCCSĐ là các cơ  quan lãnh đạo và quản lý đầu não trong HTCT của 
Thành phố, đảng viên của đảng bộ  bao gồm nhiều đồng chí là lãnh đạo  
cán bộ chủ chốt của Thành phố. Do vậy, hoạt động của các TCCSĐ, của 
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan thành  phố Hà  
Nội không chỉ có tác động đến phạm vi trong các cơ  quan, đơn vị  mà vai 
trò ảnh hưởng của chúng có sức lan tỏa đến toàn Thành phố.
Thực hiện các nghị  quyết, chỉ  thị  của Trung  ương và Thành ủy về 
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ. Đảng bộ Khối 
các cơ  quan Thành phố  đã có những chủ  trương, biện pháp tích cực lãnh 
đạo và chỉ  đạo các TCCSĐ trực thuộc đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm  
nâng   cao   chất   lượng   sinh   hoạt  Đảng.   Thực   hiện  nhiệm   vụ   xây   dựng  
Đảng của Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội  
lần thứ  XI, Đảng  ủy Khối đã xây dựng chương trình toàn khóa số  03 –  
CTr/ĐUK, với nội dung tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến  
đấu của TCCSĐ của Đảng bộ  Khối, trong đó đã thẳng thắn đánh giá: 
“Không ít nơi, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ chưa đáp  


4
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo còn mờ  nhạt, chất lượng  
sinh hoạt tự phê bình và phê bình yếu, kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm”.
Trên thực tế, chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc 

Đảng bộ Khối đã đạt được nhiều kết quả tích cực; tuy nhiên, bên cạnh đó 
vẫn còn một số  mặt hạn chế, chưa  đáp  ứng được yêu cầu nhiệm vụ 
chính trị mới đang đặt ra. Chính vì vậy, việc đánh giá đúng thực trạng, xác 
định rõ nguyên nhân và đề  xuất các giải pháp nhằm khắc phục một cách  
có hiệu quả những khuyết điểm, yếu kém, nâng cao chất lượng sinh hoạt 
chi bộ, trên cơ  sở  đó nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của  
TCCSĐ là vấn đề  mang tính cấp bách. Với lý do đó, tác giả  chọn đề  tài:  
“Chất lượng sinh hoạt chi bộ  của Đảng bộ  Khối các cơ  quan thành  
phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài đã được các 
cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị ­ xã hội các 
cơ  quan tham mưu, các cơ  quan nghiên cứu khoa học và nhiều nhà khoa  
học nước ta đã tập trung nghiên cứu, nhờ  vậy các cơ  quan lãnh đạo của  
Đảng đã ban hành nhiều nghị  quyết, chỉ  thị, các quy định; các cơ  quan  
nghiên cứu, các nhà khoa học đã có nhiều quan điểm thể  hiện trên sách 
báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng. Cụ thể như:
­ Các đề tài khoa học, sách:
+ Ngô Đức Tính, “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác Đảng”, tập I, II, 
Nxb Tư tưởng – Văn hóa, Hà Nội, 1992.
+ Ngô Đức Tính, “Công tác Đảng ở cơ sở”, Nxb Chính trị Quốc gia, 
Hà Nội, 1994.


5
+ Ngô Đức Tính, “Chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn”, Đề tài nghiên 
cứu cấp cơ sở trọng điểm năm 2006, Hà Nội, 2006.
+ TS. Trương Ngọc Nam, (chủ nhiệm đề tài) “Nâng cao chất lượng  
sinh hoạt chi bộ trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp của thành phố Hà  
Nội”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 2009.

+ PGS,TS Đ ỗ  Ng ọ c Ninh, “ Nâng cao ch ấ t l ượ ng sinh ho ạt chi  
b ộ  t ổ  dân ph ố  c ủ a các qu ậ n  ở  thành ph ố  Hà Nộ i trong  điề u ki ệ n  
hi ệ n nay” , Nxb. Chính tr ị  qu ố c gia, Hà N ộ i, 2011.
+ Đ ứ c L ượ ng (ch ủ  biên), “V ề  đ ổ i mớ i và nâng cao ch ất l ượ ng  
sinh ho ạt Đ ả ng ”, Nxb Chính tr ị  qu ố c gia, Hà N ộ i, 2007.
+ Ban Tổ chức Trung  ương: “Nâng cao chất lượng tự phê bình và  
phê bình trong sinh hoạt Đảng”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986.
+ Ban Tổ chức Trung ương: “Nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng  
viên”, tập 1, Tạp chí Xây dựng Đảng, Hà Nội 2004.
+ Ban Tổ chức Trung ương: “Nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng  
viên”, tập 2, Tạp chí Xây dựng Đảng, Hà Nội, 2006.
Các đề tài khoa học và sách nêu trên đã đưa ra những căn cứ lý luận  
và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đổi mới sinh 
hoạt chi bộ cho phù hợp với đặc điểm từng loại hình chi bộ (chi bộ thôn, 
chi bộ  tổ  dân phố, chi bộ  trong các đơn vị  hành chính, sự  nghiệp); từ  đó  
đánh giá thực trạng, nguyên nhân, rút ra những kinh nghiệm để  nâng cao  
chất lượng sinh hoạt chi bộ; các đề  tài cũng đã đưa ra những phương 
hướng và giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các  
loại hình khác nhau; đồng thời, có những hướng dẫn và định hướng để 
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng TCCSĐ và 
đảng viên.


6
­ Các luận văn thạc sỹ:
+ Cao Duy Tiến, “Nâng cao chất lượng sinh hoạt các chi bộ  khối  
nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ”, luận 
văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 2001.
+ Huỳnh Ngọc Thanh, "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến  
đấu của các chi bộ   ở  Huyện Hóc Môn Thành phố  Hồ  Chí Minh",  Luận 

văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 2005.
+ Lê Hồng Sơn, “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của  
chi bộ  trong các trường phổ  thông công lập tại thành phố  Hồ  Chí Minh  
trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 
2005.
Các luận văn thạc sỹ  nêu trên, mặc dù có những góc độ  tiếp cận  
khác nhau nhưng đều tập trung nghiên cứu nâng cao chất lượng sinh hoạt 
chi bộ và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, nêu ra 
những cơ  sở  khoa học của việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ,  
đánh giá thực trạng, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm, các vấn đề 
đặt ra; đồng thời đã đưa ra các phương hướng và giải pháp cơ  bản để 
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
­ Các bài viết trên báo, tạp chí:
+ Phạm Văn Thành, “Một số  biện pháp nâng cao chất lượng sinh  
hoạt chi bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 5/2002.
+ Bùi Trọng Vy, “Cải tiến nội dung sinh hoạt chi bộ”,  Tạp chí xây 
dựng Đảng, số 6/2002.
+ Phương Thảo, “Biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ  
ở một số đảng bộ cơ quan”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 7/2004.


7
+ Hoàng Định: “Sinh hoạt chi bộ  nông thôn”,  Tạp chí Xây dựng 
Đảng, số 7/2004 
+ Nguyễn Công Huyên: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ  
trong doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2004. 
+ Minh Hiếu: “Phát huy dân chủ  trong sinh hoạt đảng  ở  xã ngoại  
thành Hà Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10/2004.
+ Hồng Phúc: “Sinh hoạt chi bộ   ở  Đảng bộ  khối Công nghiệp Hà  
Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2005. 

+ Hà Văn Tài, “Từ một đại hội chi bộ ở khu dân cư”, Tạp chí Xây 
dựng Đảng, số 8/2005.
+ Bạch Kim: “Chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ quan ­ Thực trạng và  
giải pháp”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2005. 
+ Phạm Thu Huyền: “Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ  
quan khối đoàn thể”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2006. 
 + Trần Thu Thuỷ: “Biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi  
bộ bệnh viên”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2006. 
+ Phúc Sơn,  “Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ   ở  
Đảng bộ Ban cơ yếu Chính phủ”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 9/2007.
+ Minh Hoàn: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ  trong doanh  
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2007
+ Hà Triều, “Để  nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ  ở  cơ  quan  
hành chính”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 1/2008.
Các bài viết trên xem xét chất lượng sinh hoạt chi bộ dưới các góc  
độ  khác nhau, đều đã đưa ra các căn cứ  lý luận và thực tiễn, đánh giá  
những hạn chế, yếu kém trong sinh hoạt chi bộ, từ  đó khái quát thành 
những kinh nghiệm để  nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ   ở  các loại 


8
hình chi bộ khác nhau; đồng thời đã đưa ra cách thức, biện pháp tổ  chức, 
điều hành buổi sinh hoạt chi bộ có hiệu quả, và một số bài viết đã nêu ra 
được phương hướng, giải pháp cơ  bản nhằm nâng cao chất lượng sinh  
hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của  
chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đã đề cập đến vấn 
đề  nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ   ở các góc độ  khác nhau, hoặc  ở 
dạng chung nhất hoặc đặt nó trong phạm vi nghiên cứu tổ chức hoạt động 
của những đơn vị  khác nhau; các công trình nghiên cứu trên đã có những  

đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn về sinh hoạt đảng hiện nay. 
Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình, đề tài nghiên cứu nào đi sâu 
nghiên cứu có hệ thống dưới góc độ luận văn khoa học về chất lượng sinh  
hoạt chi bộ  của Đảng bộ  Khối các cơ  quan thành phố  Hà Nội trong giai 
đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề  tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ  những cơ  sở  lý luận và  
thực  tiễn của chất lượng  sinh hoạt chi bộ  tại các TCCSĐ trực  thuộc 
Đảng bộ  Khối các cơ  quan thành phố  Hà Nội hiện nay, từ  đó đề  xuất 
những phương hướng và giải pháp chủ  yếu để  nâng cao chất lượng sinh 
hoạt chi bộ  tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ  Khối các cơ  quan thành 
phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
 ­ Làm rõ một số vấn đề lý luận về chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi  
bộ.
 ­ Khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra những nguyên 
nhân, rút ra một số  kinh nghiệm về  chất lượng sinh hoạt chi bộ  tại các  
TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay.


9
 ­ Xác định phương hướng và đề  xuất giải pháp chủ  yếu để  nâng  
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối 
các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng sinh hoạt chi bộ tại  
các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ  Khối các cơ  quan thành phố  Hà Nội 

hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
­ Về không gian: Các chi bộ ở các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các 
cơ  quan thành phố  Hà Nội (chi bộ  cơ  sở, chi bộ  trực thuộc đảng  ủy cơ 
sở).
­ Về phạm vi khảo sát: Khảo sát sinh hoạt chi bộ tại 45 chi bộ trực  
thuộc Đảng uỷ cơ sở và 10 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ 
quan thành phố Hà Nội (trong tổng số 543 chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ 
sở và 18 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan Thành phố)
­ Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng chất lượng sinh hoạt chi bộ ở 
các TCCSĐ thuộc Đảng bộ  Khối các cơ  quan thành phố  Hà Nội từ  năm 
2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật 
biện chứng và chủ  nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời trên cơ  sở  tư  tưởng 
Hồ  Chí Minh và hệ  thống các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam  
về chi bộ và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
 Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch 
sử. 
Đề  tài sử  dụng các phương pháp cụ  thể  sau: Phương pháp lôgic ­ 
lịch sử, phân tích – tổng hợp, khái quát hóa, thống kê, so sánh, khảo sát 
thực tế, điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận 
văn


10
6.1. Những đóng góp mới

­ Hệ thống hoá một số lý lý luận về chất lượng sinh hoạt chi bộ của 
Đảng Cộng sản Việt Nam.
­   Khái   quát   hoá   thực   trạng   chất   lượng   sinh   hoạt   chi   bộ   tại   các 
TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay 
và nêu lên một số kinh nghiệm.
­ Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng 
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các 
cơ quan thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
­ Luận văn có thể cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp các 
TCCSĐ thuộc Đảng bộ  Khối các cơ  quan thành phố  Hà Nội thực hiện  
việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
­ Luận văn có thể  làm tài liệu tham khảo cho dạy và học bậc đại  
học chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước trong những  
vấn đề có liên quan.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ  lục, luận  
văn gồm 3 chương, 8 tiết.

CHƯƠNG 1
 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LY LUÂN VÊ CHÂT L
́
̣
̀
́ ƯỢNG SINH HOAT CHI BÔ
̣
̣


11

1.1. Sinh hoạt chi bộ ­ Khái niệm, vai trò, nội dung, tính chất, hình 
thức 
1.1.1. Khái niệm sinh hoạt chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi bộ  
1.1.1.1. Khái niệm sinh hoạt
Theo từ  Điển Hán Việt, đây là khái niệm ghép lại từ  hai từ  đơn  
“sinh” và “ hoạt”, theo đó, “sinh” có nghĩa là sinh trưởng, sinh tồn, sinh 
mệnh, người có học, phát ra (sinh bệnh, sinh biến). Còn “ hoạt” có nghĩa 
là sinh tồn, sống mãi, làm việc bằng thể lực. Vậy sinh hoạt là hoạt động 
của con người để sinh tồn và phát triển.
Theo Đại từ  điển tiếng Việt: “sinh hoạt” là những hoạt động tập 
thể của một tổ chức; sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt chi đoàn, sinh hoạt tổ 
đảng; tiến hành những hoạt động tập thể; sinh hoạt văn nghệ  tại câu lạc  
bộ [55, tr.1446]
Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh cho rằng: Sinh hoạt là “sống”,  
“sinh kế”, là đời sống hoạt động của con người và tổ chức [1, tr.359].
Như  vậy, sinh hoạt là một loại hoạt động, một phương thức hoạt 
động của con người, hoạt động đó, phương thức đó được tiến hành bởi  
một tập thể, một cá nhân nhằm thực hiện một công việc nhất định nào đó  
bằng cách bàn bạc, thảo luận, quyết định các biện pháp để duy trì sự tồn  
tại của tổ chức, cá nhân. Sinh hoạt là một điều kiện cho sự tồn tại và phát 
triển của con người trong cộng đồng xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm chi bộ
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng thì “chi bộ là  
tổ chức cơ sở đảng thấp nhất của một đảng chính trị”
Cuốn sách “về đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng” do 
đồng chí Đức Lượng chủ biên đã đưa ra khái niệm: 
“chi bộ là một hình thức tổ chức của Đảng, được lập ra ở các đơn  
vị cơ sở ( địa bàn dân cư, nơi sinh sống hoặc công tác của đảng viên). Chi  
bộ  là đơn vị  chiến đấu của cơ  bản của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của  
đảng ở cơ sở” [39, tr.51].



12
Ngày từ thời C.Mac và Ăngghen, các ông đã đưa ra quan niệm của  
mình về  chi bộ. Hai ông chỉ  ra rằng chi bộ  được thành lập bí mật trong  
các hiệp hội công nhân, là “trung tâm hạt nhân của các hiệp hội công 
nhân,   là   mắt   xích   quan   trọng,   là   chỗ   dựa   vững   chắc   của   Đảng”   [40 , 
tr.348]. Nếu các chi bộ  này bị  buông lỏng về  mặt tổ  chức thì sẽ  dẫn tới 
cắt đứt liên lạc với Ban chấp hành trung  ương, làm cho Đảng mất chỗ 
dựa “ vững mạnh và duy nhất”. V.I.Lênin người kế  thừa và phát triển  
những quan điểm của C.Mac và Ăngghen về  Đảng và xây dựng đảng thì 
cho rằng: chi bộ  là nơi rèn luyện, phân công công tác, quản lý, sang lọc 
đảng viên để  họ  luôn là người chiến sĩ tiên phong của giai cấp. Chi bộ 
còn là nền tảng của quần chúng, là hạt nhân chính trị của các tập thể lao  
động. Theo Chủ  tịch Hồ  Chí Minh: “tổ  chức gốc rễ  của Đảng là chi bộ. 
Chi bộ  do chi  ủy lãnh đạo, các đảng viên chịu sự  lãnh đạo của chi  ủy” 
[42, tr.240]. Hiện nay trong hệ  thống tổ  chức của Đảng có hai loại hình 
chi bộ:
Loại hình chi bộ  là một bộ  phận của đảng bộ  cơ  sở, trực thuộc  
đảng ủy cơ sở, được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi cư trú của đảng 
viên, mỗi chi bộ có từ 3 đến 30 đảng viên.
Loại   hình   chi   bộ   cơ   sở   là   TCCSĐ   được   tổ   chức   thành   lập   với  
những đơn vị cơ  sở  có từ  3 đến 30 đảng viên, không đủ  điều kiện thành  
lập đảng bộ cơ sở ” [6, tr.47].
Từ các cách hiểu như trên về chi bộ, ta có thể hiểu chi bộ thực chất 
là nh ững t ổ  ch ức đ ả ng tạ o nên các đả ng b ộ  c ơ  s ở  và toàn Đả ng, đó 
là nh ững t ế  bào c ủ a Đ ả ng, h ạ t nhân lãnh đ ạ o chính tr ị   ở  các đị a bàn 
dân c ư, trong các t ổ  ch ức và các lĩnh v ự c củ a đ ờ i số ng xã hộ i .
1.1.1.3. Khái niệm sinh hoạt chi bộ 
Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm sinh hoạt chi bộ  ta tìm hiểu  

khái niệm sinh hoạt Đảng.
Trong cuốn “Sách tra cứu các mục từ về tổ chức”, đưa ra định nghĩa  
rõ hơn về “sinh hoạt đảng”: 
“Sinh hoạt đảng là sự gắn kết về trách nhiệm chính trị và tình đồng  
chí của người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sinh hoạt đảng 


13
trực tiếp và thường xuyên nhất là  ở  các chi bộ,  ở  hội nghị  đảng viên và 
hội nghị đại biểu đảng bộ các cấp giữa nhiệm kỳ, ở đại hội đảng viên và 
đại hội đại biểu đảng bộ thường kỳ hay bất thường ở các cấp, ở hội nghị 
thường kỳ hay bất thường của cấp ủy các cấp” [49, tr.590]. 
Định nghĩa này đề  cập đến sinh hoạt đảng  ở  tất cả  các tổ  chức  
đảng các cấp trong toàn Đảng, kể cả đại hội và hội nghị đảng các cấp và 
coi đại hội và hội nghị đảng là một hình thức sinh hoạt đảng. 
Cũng có nhiều cấp uỷ và đảng viên cho rằng, sinh hoạt chi bộ là các 
hội nghị của chi bộ, gồm đại hội chi bộ thường kỳ, hội nghị chi bộ giữa 
nhiệm kỳ, hội nghị chi bộ cuối năm, giữa năm, hội nghị chi bộ thường kỳ 
hàng tháng... Cách hiểu này, thường gắn từng hội nghị  chi bộ  với nội  
dung của hội nghị tạo thành tên gọi của hội nghị đó. 
Ta nhận thấy, sinh hoạt chi bộ  là hoạt động tập thể  của một tổ 
chức đảng của một đảng chính trị. Sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ được  
thực hiện bằng các hình thức: sinh hoạt chính trị, sinh hoạt chuyên đề  và 
sinh hoạt học tập. Sinh hoạt chi bộ là nguyên tắc cơ bản của Đảng, đó là 
quy luật tồn tại và phát triển bền vững của các TCCSĐ, nhằm tăng cường  
sự lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: sinh hoạt chi bộ là các hoạt  
động tập thể  của  đảng viên trong chi bộ  để  thảo luận và quyết định  
những vấn đề cần thiết, gồm các cuộc họp chi bộ thường kỳ (có thể gọi  
là các cuộc sinh hoạt chi bộ  thường kỳ), các hội nghị  chi bộ  và đại hội  

chi bộ.
Như vậy sinh hoạt chi bộ là sự phản ảnh quá trình xây dựng đường  
lối, chủ  trương, chính sách thông qua hoạt động của tập thể, của đảng 
viên và tổ  chức đảng để  thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng; là sự 
phản ảnh quá trình hoạt động xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng và tổ 
chức,  rèn luyện đội ngũ  đảng viên và tổ  chức  đảng trong sạch, vững  
mạnh đủ sức gánh vác trọng trách đối với giai cấp, đối với dân tộc; là sự 
phản ảnh mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân.
1.1.1.4. Quan niệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ


14
Để đưa ra quan niệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ cần làm rõ khái 
niệm “chất lượng”. Thuật ngữ “ chất lượng” đã được sử  dụng từ lâu để 
mô tả  các thuộc tính như: tốt, đẹp, đắt tươi và xa xỉ. Vì thế  chất lượng  
dường như là một khái niệm rất đa dạng và được hiểu theo nhiều nghĩa  
khác nhau.
Triết học Mác­Lênin định nghĩa: “chất là một phạm trù triết học dùng 
để  chỉ  tính quy định khách quan vốn có của sự  vật và hiện tượng, là sự 
thống nhất hữu cơ  các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái 
khác” [56, tr.307].
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “chất lượng: cái làm nên phẩm chất, 
giá trị  của con người, sự  vật... Cái tạo nên bản chất sự  vật, làm cho sự 
vật này khác với sự vật kia; phân biệt với số lượng” [ 55, tr.331]. 
Từ điển Triết học chỉ rõ: “chất lượng (chất) là tính quy định bản chất 
của sự vật, tính quy định những đặc điểm và tính cách vốn có của sự vật; do  
tính quy định đó, sự vật là sự vật như nó đang tồn tại chứ không phải là sự 
vật nào khác; tính quy định đó, phân biệt sự vật ấy với những sự vật khác”  
[ 54, tr.150]. 
Trong lĩnh vực kinh tế, “chất lượng” được quan niệm là tập hợp 

những tính chất của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn những yêu cầu 
định trước cho nó, trong điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã hội.
Mỗi lĩnh vực khác nhau, có phương pháp khác nhau để  đánh giá 
chất lượng sự vật, sự việc, sản phẩm, song có điểm chung là: chất lượng  
của đối tượng được đánh giá là tổng hợp các yếu tố tạo nên bản chất của  
đối tượng, làm nên tác dụng, giá trị của đối tượng đó. Nói đến chất lượng  
là phải nói tới 2 phương diện:  thứ  nhất,  chất lượng là tổng hợp những 
phẩm chất, tính chất (thuộc tính) tạo nên giá trị  của một con người, một 
sự  vật;  thứ  hai, những phẩm chất, tính chất đó đáp  ứng đến đâu những 
yêu cầu đã đặt ra. Nói đến chất lượng là nói đến tốt hay xấu, đạt hay  
không đạt một chuẩn mực nào đó.
Từ sự phân tích trên, có thể quan niệm:  chất lượng sinh hoạt chi bộ  
là tổng hợp của các yếu tố làm cho sinh hoạt chi bộ phát huy tác dụng đối  


15
với mọi hoạt động của chi bộ, trước hết là đề  ra các chủ  trương, nghị  
quyết đúng,, góp phần để  chi bộ  thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ  của  
mình.
Hoạt động của chi bộ gồm: hoạt động xây dựng chi bộ về chính trị,  
tư  tưởng và tổ  chức; hoạt động lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ  chính trị,  
lãnh đạo chính quyền, ban công tác Mặt trận Tổ  quốc, các chi hội đoàn 
thể chính trị­xã hội trên địa bàn; hoạt động lãnh đạo các lĩnh vực đời sống  
của xã hội. 
Hoạt động lãnh đạo của chi bộ gồm: xác định đúng đắn nhiệm vụ 
chính trị  của mình cùng các giải pháp thực hiện và lãnh đạo thực hiện 
thắng lợi nhiệm vụ  chính trị  đó; xác định đúng đắn các chủ  trương, giải  
pháp và lãnh đạo thực hiện thắng lợi chỉ  thị, nghị  quyết của cấp trên,  
đường lối, chủ  trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.  
Chất lượng sinh hoạt chi bộ góp phần rất quan trọng để chi bộ thực hiện 

có kết quả những công việc này. 
Chất lượng sinh hoạt chi bộ được tạo nên bởi các nhân tố chủ yếu  
tố  như: nền nếp sinh hoạt chi bộ; nội dung sinh hoạt chi bộ; hình thức  
sinh hoạt chi bộ; công tác chuẩn bị sinh hoạt chi bộ; số lượng, chất lượng  
đảng viên tham gia sinh hoạt chi bộ; năng lực điều hành chủ trì sinh hoạt 
chi bộ của bí thư hoặc phó bí thư chi bộ; việc thực hiện các nguyên tắc tổ 
chức, sinh hoạt đảng; điều kiện, cơ sở vật chất phục vụ sinh hoạt chi bộ;  
sự chỉ đạo, hỗ trợ, kiểm tra của cấp ủy cấp trên. 
1.1.2. Vai trò của sinh hoạt chi bộ
Sinh hoạt chi bộ  là hoạt động thường xuyên của chi bộ; hình thức  
lãnh đạo chủ yếu của chi bộ. Chi bộ là tế bào cấu tạo nên Đảng, năng lực 
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phụ  thuộc và được quyết định chủ 
yếu bởi năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ. Các chi bộ là 
nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị  lãnh đạo  ở  cơ  sở, là một nhân tố 
quyết định trên thực tế đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp 
luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên được thực hiện ở cơ 
sở. Các chi bộ có vai trò rất quan trọng để thực hiện thành công các nhiệm 


16
vụ  của Đảng  ở  cơ  sở. Vai trò của sinh hoạt chi bộ  thể  hiện  ở  các khía 
cạnh sau:
Thứ  nhất,  đây là một hoạt động rất quan trọng đối với việc nâng 
cao năng lực và sức chiến đấu của TCCSĐ. Nó bảo đảm cho chi bộ  và 
mỗi đảng viên thực hiện được chức năng nhiệm vụ của mình. 
Hiện nay, trong Đảng ta đang tồn tại ba loại hình đảng bộ  cơ  sở: 
Một là: Những đảng bộ cơ sở có các chi bộ, đảng bộ bộ phận trực thuộc  
đảng uỷ  cơ  sở  và có các chi bộ  trực thuộc đảng uỷ  bộ  phận.   Hai là; 
Những đảng bộ cơ sở có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ  sở.  Ba là: Chi 
bộ cơ sở có vai trò đảng bộ cơ sở.

Phần lớn hoạt động của đảng bộ  cơ  sở  được diễn ra  ở  chi bộ, vì  
vậy chi bộ có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của đảng bộ cơ sở.  
Chi bộ trong sạch, vững mạnh thì đảng bộ cơ sở mới vững mạnh và hoàn 
thành xuất sắc nhiệm vụ.
Vì thế, củng cố, nâng cao chất lượng các chi bộ  là vấn đề  thường  
xuyên, trọng yếu của các đảng bộ  cơ  sở, trong đó nâng cao chất lượng  
sinh hoạt chi bộ là việc làm không thể thiếu.
 Chi bộ là tế bào của đảng bộ trực tiếp tiến hành các hoạt động xây  
dựng nội bộ TCCSĐ, giáo dục, rèn luyện đảng viên, phân công công việc,  
quản lý đảng viên và tiến hành các thủ  tục để  kết nạp đảng viên, đưa 
người không đủ  tư cách đảng viên ra khỏi Đảng…Chi bộ trực tiếp tuyên 
truyền đường lối, chính sách, nghị  quyết của Đảng và nghị  quyết của  
đảng uỷ cơ sở tới nhân dân và lãnh đạo tổ chức thực hiện. 
Vì thế, sinh hoạt chi bộ có vai trò, tác dụng to lớn đối với xây dựng  
nội bộ  Đảng, củng cố, tăng cường sự  đoàn kết thống nhất trong Đảng,  
khẳng định và phát huy những mặt mạnh, chỉ  ra những sai lầm, khuyết  
điểm của cán bộ đảng viên và của chi bộ.
Lênin coi chi bộ  cơ  sở  là nơi rèn luyện phân công công tác đảng  
viên, quản lý sàng lọc đảng viên để  họ  luôn là người chiến sĩ tiên phong 
của giai cấp. Mỗi đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với Đảng bằng việc tự 
mình tham gia sinh hoạt và hoạt động  ở  một tổ  chức của Đảng. Vì vậy 
mà ngay cả khi xác định người được kết nạp vào Đảng, Lênin nêu: 


17
“Tất cả  những người nào thừa nhận cương lĩnh của Đảng và ủng 
hộ  Đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng cách tự  mình  
tham   gia   một   trong   những   tổ   chức   của   Đảng   thì   được   coi   là   đảng 
viên”[38. tr.268]. 
Ở đây ông đã xác định rằng: Đảng không thể chỉ đạo những người  

đứng ngoài tổ  chức của Đảng và đảng viên phải tham gia trong một tổ 
chức Đảng thì Đảng mới giáo dục và kiểm tra được họ. Chính vì vậy, mà  
thông qua sinh hoạt chi bộ cũng có thể quản lý một cách hiệu quả nhất.
Thứ  hai,  Sinh hoạt chi bộ  còn có một vai trò là diễn đàn dân chủ 
phát huy tính tự giác, sáng tạo của đảng viên để tìm chủ trương, giải pháp 
thực hiện nhiệm vụ chính trị. Qua sinh hoạt chi bộ, từng đảng viên trưởng  
thành.  Đảng được tổ  chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân 
chủ. Trong sinh hoạt chi bộ, đảng viên tham gia sinh hoạt phải phát huy 
cao nhất tinh thần tự  giác, gương mẫu, dân chủ, mang hết trí tuệ  đóng  
góp cho những quyết định của chi bộ. Sinh hoạt chi bộ là nơi đảng viên 
thể  hiện rõ vai trò lãnh đạo của mình. Song, đảng viên phải thực hiện 
nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, khi ý kiến của cá nhân đảng  
viên thuộc về thiểu số, đảng viên đó, phải chấp hành vô điều kiện quyết 
định của tập thể. 
Do vậy, chất lượng sinh hoạt chi bộ  là một trong những yếu tố 
quyết định sức sống, sự tồn tại, phát triển của chi bộ. Không tổ chức sinh  
hoạt chi bộ  hoặc tổ  chức sinh hoạt chi bộ  nhưng chất lượng sinh ho ạt  
thấp thì chi bộ  không thể  hoàn thành nhiệm vụ. Thực tế  đã chứng minh, 
những chi bộ  trong sạch, vững mạnh là những chi bộ  duy trì thành nếp  
sinh hoạt chi bộ, có nội dung sinh hoạt phong phú, thiết thực, hình thức  
sinh hoạt đa dạng, có chất lượng tốt. 
1.1.3. Nội dung, tính chất, hình thức sinh hoạt chi bộ
1.1.3.1. Nội dung sinh hoạt chi bộ
Nội dung sinh hoạt chi bộ là toàn bộ những công việc, nhiệm vụ mà 
chi bộ phải giải quyết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Nội  
dung sinh hoạt chi bộ  hiện nay theo Hướng dẫn số 09­HD/BTCTW ngày 


18
02/3/2012 của Ban Tổ  chức Trung  ương về  nội dung sinh hoạt chi b ộ.  

Những nội dung sinh hoạt cụ thể như sau :
Một là, học tập, quán triệt đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng  
và chính sách, pháp luật của nhà nước, chỉ  thị, nghị  quyết của tổ  chức  
đảng cấp trên; thông tin những vấn đề  tình hình thế  giới, trong nước, địa  
phương có liên quan đến tư tưởng của đảng viên trong chi bộ, quần chúng 
trong đơn vị. Việc học tập nội dung này làm cho mọi đảng viên của chi  
bộ  được quán triệt đầy đủ, chính xác đường lối, chủ  trương của Đảng, 
chính sách, pháp luật của nhà nước, các chỉ  thị, nghị quyết, quy định, các 
chương trình, kế hoạch công tác của cấp trên (tổ chức đảng, chính quyền, 
đoàn thể  cấp trên), để  từ  đó bản thân mỗi đảng viên nghiên cứu, nghiền 
ngẫm làm theo đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cũng như 
tuyên truyền vận động gia đình, quần chúng nhân dân biết và làm theo.  
Đồng thời, cung cấp kịp thời những thông tin mới về  tình hình thế  giới, 
trong nước và địa phương, đơn vị để đảng viên định hướng tư tưởng đúng  
đắn, chủ động và tự giác thực hiện nhiệm vụ, tiến hành công tác tư tưởng 
tạo nên nhiệm vụ chính trị của chi bộ, đảng bộ.
Hai là, bàn bạc quyết nghị  những vấn đề  về  sự  lãnh đạo của chi 
bộ  đối với các nhiệm vụ  phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, an  
ninh, quốc phòng, công tác vận động quần chúng. Trên cơ  sở  chức năng,  
nhiệm vụ  của chi bộ, theo quy định của Điều lệ  Đảng, của Trung  ương  
Đảng, xuất phát từ những vấn đề  đặt ra  ở  đơn vị, chi bộ  tiến hành thảo  
luận, đề ra những chủ trương, tiêu chí và biện pháp thực hiện các nhiệm 
vụ  phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng, cải  
thiện và nâng cao đời sống nhân dân ở cơ quan, đơn vị.


19
Để  thực hiện tốt nội dung này, chi bộ  cần nắm vững những quan  
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ 
thị, nghị quyết, chủ trương, kế hoạch công tác của cấp trên và những đặc  

điểm, những vấn  đề  nảy sinh  ở  đơn vị  để  bàn bạc thoả  thuận và có 
những quyết nghị đúng đắn, không trái với đường lối của Đảng, pháp luật  
của Nhà nước, chỉ  thị, nghị  quyết của tổ  chức đảng cấp trên, cơ  quan 
chuyên môn cấp trên. Chi bộ bàn bạc và quyết nghị  những vấn đề  thuộc 
phạm vi của các tổ  chức khác (quản lý, điều hành của chính quyền, chủ 
trương của đơn vị, các đoàn thể nhân dân). Những vấn đề phức tạp chưa  
giải quyết được cần tăng cường bàn bạc, thảo luận trong chi bộ  và báo 
cáo đảng uỷ cơ sở, để đảng uỷ cơ sở xem xét giúp đỡ.
Ba là, thảo luận, quyết nghị những vấn đề  xây dựng nội bộ Đảng:  
chủ  trương, biện pháp xây dựng đảng bộ  trong sạch, vững mạnh; thực  
hiện tự  phê bình và phê bình, công tác kiểm tra giữ  gìn kỷ  luật Đảng và 
tăng cường đoàn kết thống nhất trong chi bộ; những nội dung của công 
tác đảng viên như:  kết nạp đảng viên, phân công việc cho đảng viên, 
quản lý đảng viên, đánh giá chất lượng đảng viên. Sinh hoạt chi bộ  bàn 
về những vấn đề xây dựng nội bộ được tiến hành theo định kỳ hàng quý, 
hàng năm; hoặc khi đột xuất có những vấn đề tư tưởng, tổ chức cần giải  
quyết. Dù sinh hoạt theo định kỳ  hay đột xuất đều phải được tiến hành  
nghiêm túc, đúng nguyên tắc. Trong sinh hoạt chi b ộ c ần b ảo đảm cho  
mỗi đảng viên có thể  trình bày với chi bộ  tâm tư, nguyện vọng, những  
khó khăn, vướng mắc trong công tác, trong cuộc sống đời thường mà 
đảng viên không khắc phục được để  chi bộ  góp ý hoặc có biện pháp 
giúp đỡ, giúp đảng viên đó hoàn thành tốt nhiệm vụ  được chi bộ  phân 
công và giải quyết tốt những khó khăn trong cuộc sống gia đình.


20
Trên đây là ba loại vấn đề chủ yếu thuộc nội dung sinh hoạt chi bộ.  
Tuy nhiên, do sự khác nhau về nhiệm vụ của các chi bộ nên nội dung sinh 
hoạt của các chi bộ  có sự  khác nhau. Tuỳ  theo đặc điểm, nhiệm vụ  của 
chi bộ và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, trên cơ sở ba nội dung chủ 

yếu nêu trên, sinh hoạt chi bộ cần tập trung giải quyết những vấn đề  cụ 
thể. Trong một buổi sinh hoạt chi bộ có thể giải quyết một hoặc hai vấn  
đề thuộc những nội dung nêu trên.
Trong giai đoạn hiện nay, việc chuẩn bị nội dung sinh hoạt chi bộ 
còn phải gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí 
Minh”. Có gắn nội dung sinh hoạt chi bộ  với việc học tập và làm theo 
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thì càng nâng cao được chất lượng các  
buổi sinh hoạt, vừa đàm bảo thiết thực, vừa có tính giáo dục. Đặc biệt, là 
trong tình hình hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy  
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống. Việc gắn sinh hoạt chi bộ 
với “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có hiệu quả 
nhất là ở các buổi sinh hoạt chuyên đề. Vì vậy, trong hướng dẫn của Ban 
tổ chức Trung ương về nội dung sinh hoạt chi bộ đưa ra yêu cầu là chi bộ 
ít nhất mỗi quý phải sinh hoạt chuyên đề một lần.
Như vậy, để sinh hoạt chi bộ nghiêm túc, có kết quả cần đảm bảo 
ba tính chất nêu trên. Ngoài ra, cần chú ý đến tình đồng chí, thương yêu, 
tôn trọng lẫn nhau, hiểu rõ hoàn cảnh, thông cảm, giúp đỡ  tận tình, tạo 
điều kiện thuận lợi để  mỗi đảng viên giải quyết những khó khăn, vươn  
lên trong công việc và trong đời sống.
1.1.3.2. Tính chất của sinh hoạt chi bộ
Sinh hoạt chi bộ có 3 tính chất đó là: Tính lãnh đạo, tính chiến đấu 
và tính giáo dục.


21
­ Tính lãnh đạo: Tính lãnh đạo thể  hiện  ở  chỗ, trong sinh hoạt chi  
bộ  đảng viên phải bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ  những vấn đề 
cần giải quyết và ra được nghị quyết về hoạt động của chi bộ thể hiện ở 
các nội dung sau:
Thứ   nhất,   định   hướng   được   những   hoạt   động   chủ   yếu   của   địa 

phương, đơn vị  trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, bảo đảm 
cho đơn vị  phát triển đúng đắn trong một thời gian nhất định, cũng như 
giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.
Thứ hai, chỉ rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng tổ chức, từng cán 
bộ, đảng viên.
Để   đảm bảo tính lãnh  đạo của sinh hoạt chi bộ  cần thực hiện  
nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, mở  rộng dân chủ  trong sinh  
hoạt Đảng phải đi liền với tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất.
­ Tính giáo dục: Tính giáo dục của sinh hoạt chi bộ thể hiện  ở chỗ 
qua mỗi kỳ sinh hoạt chi bộ, trình độ  mọi mặt của đảng viên được nâng 
lên, ngày càng nhận thức sâu sắc hơn đường lối, chính sách của Đảng, 
mỗi đảng viên có thêm những kiến thức mới bổ  ích, những kinh nghiệm 
thiết thực trong hoạt động thực tiễn. Qua mỗi kỳ sinh hoạt chi bộ, đảng 
viên tự  nhận thấy vững vàng hơn trong công tác. Đó là điều kiện quan  
trọng để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Để  đạt điều đó, trong sinh hoạt chi bộ  cần chú trọng nghiên cứu,  
thảo luận nghiêm túc các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, 
pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, tránh lối sinh 
hoạt qua loa, đại khái, hoặc chỉ  giao nhiệm vụ  nhưng không chú ý đến  
việc cung cấp thông tin, hạn chế  việc phát huy tính chủ  động, sáng tạo  
của đảng viên.


22
Tính   giáo   dục   của   sinh   hoạt   chi   bộ   còn   được   thể   hiện   ở   việc: 
Thông qua sinh hoạt chi bộ để nêu gương điển hình tiên tiến, gương đảng 
viên tiên phong gương mẫu và phê bình những sai lầm, khuyết điểm của  
chi bộ, tổ chức đảng và của đảng viên.
­ Tính chiến đấu: Tính chiến đấu của sinh hoạt chi bộ  thể hiện  ở 
chỗ sinh hoạt chi bộ phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng ưu điểm  

thành tựu, phê phán nghiêm khắc những sai lầm, khuyết điểm của chi uỷ,  
chi bộ và từng cán bộ, đảng viên, từ đó đề ra được biện pháp phát huy ưu  
điểm, sửa chữa khuyết điểm.
Để nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt chi bộ cần phát tính huy 
dân chủ  nội bộ  khi bàn bạc và quyết định mọi vấn đề  thuộc phạm vi  
nhiệm vụ của chi bộ, thực hiện nghiêm túc quyền của đảng viên, duy trì 
thành nền nếp chế  độ  tự  phê bình và phê bình trên tinh thần thẳng thắn,  
trung thực, khách quan, công tâm và trên tình đồng chí, tôn trọng lẫn nhau  
giữa những người cộng sản.
Cần tránh tình trạng né tránh, nể  nang, lựa chiều khi phê bình và 
tình trạng đoàn kết một chiều. Cần xử lý kịp thời và nghiêm minh những 
người lợi dụng dân chủ  tiến hành phê bình để  đả  kích, gây chia rẽ  hoặc  
lợi dụng phê bình để trả thù cá nhân.
Muốn sinh hoạt chi bộ đạt chất lượng tốt cần đảm bảo ba tính chất  
nêu trên, ngoài ra cần chú ý đến tình đồng chí, thương yêu, tôn trọng lẫn  
nhau, hiểu rõ hoàn cảnh, thông cảm, giúp đỡ  tận tình, tạo điều kiện để 
mỗi đảng viên giải quyết những khó khăn, vướng mắc, vươn lên trong 
công tác, trong đời sống.
1.1.3.3. Hình thức sinh hoạt chi bộ


23
Hình thức là phương thức, cách thức thể  hiện và thực hiện nội 
dung. Hình thức sinh hoạt chi bộ rất đa dạng nhưng sinh hoạt chi bộ được 
thể hiện dưới những hình thức chủ yếu sau:
Sinh hoạt chính trị: Đây là loại hình sinh hoạt để chi bộ  thảo luận,  
đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi 
bộ. Sinh hoạt chính trị  là hình thức sinh hoạt có thể  áp dụng cho cả  một 
buổi sinh hoạt nhưng cũng có thể chỉ áp dụng cho một phần của một buổi  
sinh hoạt chi bộ. Trong thực tế, đây là hình thức sinh hoạt phổ biến nhất.

Sinh hoạt chuyên đề: Đây là hình thức sinh hoạt chỉ   đi sâu thảo 
luận, giải quyết một vấn đề nào đó, chi bộ thấy cần thiết tập trung thảo  
luận, tìm giải pháp giải quyết, ví dụ: sinh hoạt chuyên đề về công tác phát 
triển đảng viên, về  học tập và làm theo tấm gương   đạo  đức Hồ  Chí 
Minh... Cần chú ý xem xét việc chọn đúng vấn đề  để  đưa ra thảo luận  
trong sinh hoạt chi bộ và việc chuẩn bị để chi bộ thảo luận về vấn đề đó.
 Sinh hoạt học tập: Đây là hình thức sinh hoạt chủ  yếu để  nghiên 
cứu, quán triệt nghị  quyết, chỉ  thị của Đảng, của tổ  chức đảng cấp trên,  
hoặc để thông tin, thông báo tình hình thời sự, chính sách, pháp luật mới, 
những vấn đề mới về quan điểm, lý luận và thực tiễn… Đây là hình thức 
sinh hoạt  rất cần thiết  để  nâng cao nhận thức,  năng lực  và cập nhật 
những thông tin, tri thức mới cho đảng viên. 
1.2. Quan điểm của Đảng ta về  chi bộ và vấn đề  sinh hoạt chi 
bộ
1.2.1. Quan điểm của Đảng ta về chi bộ
Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của 
Đảng, là hạt nhân chính trị   ở  cơ  sở  (Điều lệ  Đảng cộng sản Việt Nam,  
Điều 21, 2011). TCCSĐ trực tiếp gắn bó với quần chúng, hàng ngày được 
tiếp xúc với nhân dân, tìm hiểu nắm bắt tâm tư tình cảm và nguyện vọng  
của nhân dân. TCCSĐ vừa là nơi trực tiếp biến đường lối, chính sách của  


24
Đảng thành hành động cách mạng của đảng viên và quần chúng; vừa là  
nơi tập hợp những sáng kiến, trí tuệ của đảng viên và quần chúng để hình 
thành nên đường lối, chính sách của Đảng. Thực tiễn phong phú sinh động 
ở cơ sở là một trong những nguồn trí tuệ cách mạng to lớn của Đảng.
Đảng mạnh là do các chi bộ  cơ  sở, đảng bộ  cơ  sở  vững mạnh. 
Ngược lại, nếu TCCSĐ yếu kém thì các cấp trên cơ  sở  không thể  mạnh 
và sẽ hạn chế thành tựu cách mạng. 

Tổ  chức cơ sở  đảng là hạt nhân chính trị   ở  cơ  sở, thể  hiện vai trò 
đoàn kết và lãnh đạo các tổ  chức chính trị   ở  cơ  sở  và nhân dân ở  cơ  sở,  
giữ  vững mục tiêu độc lập và chủ  nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới.  
TCCSĐ là trung tâm quy tụ, tập hợp được mọi lực lượng  ở  cơ  sở  thành 
một khối thống nhất về  ý chí và hành động; phải định hướng phát triển 
đúng đắn cho cơ  sở  cũng như  trong mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị 
bằng những chủ trương, nhiệm vụ cụ thể, có tính khả thi, đồng thời phải 
tạo được sức mạnh tổng hợp của cơ sở  bằng việc tổ  chức và phối hợp  
chặt chẽ các lực lượng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ 
sở.
Hoạt động của TCCSĐ diễn ra thường xuyên và chủ yếu ở các chi 
bộ. Từng đảng viên phải gắn bó và chịu sự  quản lý trực tiếp của chi bộ 
phân công. Những quần chúng ưu tú, có đủ điều kiện trở thành đảng viên 
thì kết nạp vào Đảng tại chi bộ.
Chi bộ  là hạt nhân chính trị   ở  đơn vị  mà mình phụ  trách. Chi bộ 
phải đoàn kết và lãnh đạo quần chúng trong đơn vị  chấp hành nghiêm  
minh  đường lối, chủ  trương  chính sách của  Đảng, pháp luật của Nhà 
nước; thực hiện tốt nhiệm vụ của đảng  ủy cơ  sở  và giải quyết kịp thời 
những vấn đề do thực tiễn đơn vị đặt ra, làm cho đơn vị không ngừng đổi 
mới và phát triển, góp phần xây dựng cơ  sở  ngày càng tiến bộ. Dù có  
những đặc điểm riêng nhưng chi bộ   ở đâu và lúc nào cũng phải thể hiện 
được vai trò hạt nhân chính trị  ở  cơ  sở  đơn vị. Xem nhẹ, hạ  thấp vai trò 
đó thì chi bộ không giữ vững được vị trí của một tổ chức quần chúng tin  
cậy, giao phó cho nhiệm vụ  tổ  chức và lãnh đạo các hoạt động của đơn  
vị.
1.2.2. Quan điểm của Đảng ta về sinh hoạt chi bộ


25
Đối với Đảng cộng sản Việt Nam, ngay từ  khi mới thành lập cho  

đến nay, không lúc nào xa rời nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Trong qúa trình 
tồn tại và phát triển của Đảng, Đảng không ngừng chăm lo, giáo dục rèn 
luyện, nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng các tổ  chức cơ  sở  đảng  
trong sạch, vững mạnh. Trong điều kiện hoạt động bí mật, Đảng ta yêu 
cầu các chi bộ “Phải sinh hoạt cho đều và không vì lẽ gì mà để cho nó rời  
rã, chệch choạc” [48, tr.66]. Trong nhiệm kỳ Đại hội II của Đảng (1951­
1960), Đảng ta đã ra Nghị  quyết chuyên đề  về  công tác củng cố  nội bộ. 
Trong đó nhấn mạnh việc tăng cường giáo dục tư  tưởng và lãnh đạo tư 
tưởng gắn liền với chỉnh đốn chi bộ.
Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng trình bày  ở  Đại hội Đại 
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã nêu “Hễ nơi nào, lúc nào mà sinh  
hoạt chi bộ buông lỏng, rời rạc không có nội dung chính trị, tư tưởng cụ 
thể, thiết thực thì nơi đó, lúc đó bắt đầu có nguy cơ  chệch đường lối,  
chính sách của Đảng, hạ  thấp vai trò tiên phong gương mẫu của đảng  
viên, làm cho kỷ luật của Đảng bị lỏng lẻo”[14, tr.76].
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI ( 1986), đồng 
chí Trường Chinh – Tổng bí thư  Ban chấp hành Trung  ương Đảng khóa 
VI phát biểu rằng: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ của các cấp ủy  
là một yêu cầu quan trọng” [15, tr.98].
Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ  nhằm tăng 
cường sự  đoàn kết thống nhất trong Đảng, quản lý, giáo dục, rèn luyện 
nâng cao phẩm chất năng lực trí tuệ, ý thức tổ  chức kỷ  luật cho đảng  
viên, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ  trong sinh hoạt Đảng,  
kịp thời đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện tiêu cực, làm trong sách đội  
ngũ đảng viên, bảo đảm mỗi đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 
được giao. Quan điểm này được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng. 
NQ TW 3 khóa VII chỉ rõ “Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ trước hết là cán bộ 
cao cấp phải không ngừng rèn luyện, nâng cao tính tổ  chức kỷ  luật, tự 
giác đặt mình vào trong sự quản lý của tổ chức Đảng, thường xuyên tham  
gia sinh hoạt Đảng đầy đủ, tự giác khép mình vào khuôn khổ kỷ luật của  

Đảng”, Báo cáo chính trị  trình tại Đại hội lần thứ  IX của Đảng đề  ra:  
“Giữ  vững nề  nếp, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp  ủy, sinh hoạt chi  


×