MỞ ĐẦU
Sông Cầu hay còn gọi là sông Như Nguyệt hay sông Thị Cầu, là con
sông chảy qua 6 tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc
Ninh và Hải Dương. Nó là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông
Thái Bình. Lưu vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt
Nam, có vị trí địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như
về lịch sử phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của
Nó. Sông Cầu có nhiều vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, giao
thông vận tải, thủy điện, thủy lợi.v.v…Ngoài ra, nó còn cung cấp một
lượng thực phẩm khá phong phú, đặc biệt là nguồn lợi cá.
Những năm trước, lưu vực sông Cầu có sản lượng khai thác cá khá
cao, với thành phần loài đa dạng, phong phú, có nhiều loài cá mang lại giá
trị kinh tế cao. Tuy nhiên trong những năm gần đây, môi trường nước ở lưu
vực sông Cầu bị ô nhiễm đã làm suy giảm đến nguồn tài nguyên thiên
nhiên, phá hủy môi trường sống của nhiều loài thủy sinh, đặc biệt là các
loài cá. Nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là do có rất nhiều lượng
chất thải đổ vào sông Cầu như: chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp, chất
thải sinh hoạt, chất thải từ các bệnh viện, chất thải rắn và các loại thuốc
bảo vệ thực vật.v.v…Đặc biệt là hiện tượng khai thác cát, sỏi diễn ra hàng
ngày trên sông Cầu, mạnh mẽ nhất là khu vực các làng Đông Tiến, Nam
Ngạn gần cầu Bắc Ninh cũ thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Đa
dạng sinh học cá và mối quan hệ của chúng với chất lượng môi trường
nước sông Cầu thuộc địa phận huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”, với mong
muốn đánh giá đúng hiện trạng thành phần loài cá và xem xét mối quan hệ
1
của chúng với chất lượng môi trường nước. Từ đó nhằm giúp chính quyền
địa phương có những giải pháp hữu hiệu để bảo tồn ĐDSH và phần nào
cải thiện được môi trường nước tại lưu vực sông Cầu. Nội dung của đề tài
bao gồm:
1. Xác định thành phần loài cá của lưu vực sông Cầu thuộc địa phận
huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
2. Nghiên cứu biến động về thành phần loài cá của lưu vực sông
Cầu theo không gian.
3. Nghiên cứu mối quan hệ giữa thành phần loài cá và độ phong phú
của chúng với một số yếu tố sinh thái thủy, lý hóa.
4. Sử dụng chỉ số tổ hợp sinh học (index of biotic integrityIBI) cá
để đánh giá chất lượng môi trường nước sông Cầu thuộc địa
phận huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát về HST sông
1.1.1. Các hệ thống sông lớn ở Việt Nam
Sông ngòi Việt Nam tạo thành mạng lưới dày đặc, chứa lượng nước
lớn, nhất là vào mùa lũ, tạo thuận lợi cho phát triển giao thông, thủy lợi,
năng lượng và là cơ sở quan trọng cho sự phát triển nghề cá. Hai hệ thống
sông lớn nhất ở nước ta là hệ thống sông Hồng – Thái Bình và Cửu Long –
Đồng Nai.
Hệ thống sông Hồng – Thái Bình:
Hệ thống sông Hồng bắt nguồn từ dãy Ngụy Sơn, Vân Nam (Trung
Quốc), chảy vào lãnh thổ Việt Nam ở Hà Khẩu với chiều dài dòng chính là
1.126km (đoạn ở Việt Nam dài 510km). Diện tích lưu vực là 145.965km2,
riêng ở Việt Nam là 70.722km2 (chiếm 42,6% diện tích toàn miền Bắc)
[30].
Các phân lưu chính của sông Hồng là sông Đáy, sông Đuống, sông
Luộc, Trà Lí, sông Đào – Nam Định và sông Ninh Cơ.
Hệ thống sông Thái Bình là tên gọi của một hệ thống sông gồm sông
Thái Bình cùng các phụ lưu và chi lưu của nó. Các phụ lưu gồm sông Cầu,
sông Thương và sông Lục Nam ở thượng nguồn với tổng chiều dài khoảng
1.650km và diện tích lưu vực khoảng 10.000km2. Ngoài ra, hệ thống sông này
còn nhận một phần dòng chảy của sông Hồng trước khi đổ ra biển Đông
[30].
3
Hệ thống sông Cửu Long – Đồng Nai:
Sông Mekông là con sông lớn nhất ở Đông Dương, bắt nguồn từ dãy
Tuyết Sơn, Tây Tạng, tại độ cao trên 5.000m, với chiều dài dòng chính là
4.350km (ở Trung Quốc 2.000km, Lào 1.500km), chảy qua lãnh thổ nước ta
trên một đoạn dài 220km. Diện tích lưu vực sông là 810.000km2, phần ở
nước ta 64.300km2. Sông rất nhiều thác ghềnh, nhưng từ Kratie trở xuống,
sông chảy vào vùng đồng bằng thấp một cách êm đềm [30].
Phụ lưu chính của sông Mêkông là Nậm Hu, Nậm Ngạn, Nậm
Nhiếp, Nậm Kha Đinh, Xê Băngphai, Xê Băng Hiên, Xê San (tả ngạn),
Nậm Kok, Xế Mun, Xêreepoc (hữu ngạn). Từ Phom Penh, sông có 3 chi
lưu: sông Tonglesap đưa nước vào biển Hồ, sông Tiền và sông Hậu đưa
nước ra biển qua chín cửa mà ta quen gọi là sông Cửu Long [30].
1.1.2. Đặc điểm đăc trưng của hệ sinh thái sông
1.1.2.1. Điều kiện sống trong sông
Sông là thủy vực nước chảy tiêu biểu với đặc điểm là khối nước
luôn chảy theo một chiều nhất định, từ thượng lưu tới hạ lưu, do sự chênh
lệch về độ cao so với mặt nước biển của dòng sông. Dòng chảy của một
con sông khi nước đầy giữa hai bờ sông gọi là dòng chảy nền. Khi nước
cạn, dòng chảy của một con sông thu vào dòng chảy gốc, cách xa hai bờ
sông. Bãi đất cạn hở ra trong mùa nước cạn nằm giữa bờ sông và dòng
chảy gốc gọi là bãi sông, có thể phân thành nhiều tầng.
Theo dòng chảy, từ đầu nguồn tới cửa sông, dòng sông có thể chia
thành 3 phần: đầu nguồn (thượng lưu), giữa nguồn (trung lưu), cuối nguồn
(hạ lưu) với sự khác nhau về hình thái, tốc độ nước chảy, nền đáy và
4
nhiều đặc điểm khác. Sông ở thượng lưu thường hẹp, nông, tốc độ nước
chảy mạnh, nền đáy là nền đáy gốc bao phủ bởi các phần tử vật chất cỡ
lớn. Sông ở trung lưu có lòng sông rộng dần ra, có thêm nhiều phụ lưu, tốc
độ nước giảm đi. Nền đáy sông ở phần này có tính chất hỗn hợp: nền đáy
gốc chỉ có ở một số nơi, còn chủ yếu là nền đáy bồi đắp, cấu tạo bởi các
phần tử vật chất cỡ nhỏ (đá nhỏ, cát, bùn) do nước sông tải đến, lắng
đọng xuống. Vùng hạ lưu có lòng sông mở rộng cho tới cửa sông, tốc độ
nước chảy giảm nhẹ. Nền đáy ở phần này hoàn toàn là nền đáy bồi đắp và
chỉ gồm các phần tử vật chất cỡ nhỏ (cát, bùn). Vùng cửa sông là vùng tiếp
xúc với biển, chịu ảnh hưởng rõ rệt của thủy triều, nước sông pha lẫn với
nước biển tạo thành một vùng có đặc tính thủy lý hóa học và thủy sinh học
rất phức tạp và đặc sắc.
Tốc độ nước chảy của sông cũng thay đổi theo chiều ngang: mạnh ở
giữa dòng, giảm nhẹ đi ở hai bên bờ. Do vận động của nước sông, bờ sông
và nền đáy sông không ngừng bị hao mòn. Các vật chất bị bào mòn ở nơi
này sẽ được tải đến bồi đắp ở nơi khác, do đó làm dòng sông luôn biến đổi
theo chiều ngang cũng như theo chiều đứng, có khi làm dòng chảy đổi
hướng tạo thành hình thái khúc khuỷu của dòng sông ở trung lưu [31]. Cùng
một khối nước, tốc độ dòng chảy tỷ lệ nghịch với thiết diện ngang của
lòng sông. Ở những nơi có các hố sâu hoặc khuỷu, nước chảy hình thành
các xoáy, nước luôn bị xáo trộn mạnh. Nhìn chung, ở các sông đồng bằng,
tốc độ vào mùa kiệt nước thường không vượt quá 1m/s, vào mùa lũ 1,5 –
2,0m/s, ở vùng núi
5 – 6m/s.
5
Mực nước của sông phụ thuộc vào điều kiện khí hậu của từng vùng,
trước hết là sự thay đổi nguồn nước theo mùa, chế độ nước ngầm. Mực
nước trên sông chênh lệch nhau khá lớn giữa mùa lũ và mùa kiệt, có nơi đạt
đến
5 – 15m.
Nhiệt độ nước trong sông phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ của nước
cấp cho sông, vào khí hậu vùng mà dòng nước chảy qua và những đặc tính
thủy động học khác nhau của dòng chảy. Sự dao động nhiệt theo mùa trong
sông nằm trong giới hạn 0 – 30 0C, dao động ngày đêm 8 100C (vùng đồng
bằng).
Độ trong của nước sông phụ thuộc chính vào hàm lượng các chất
chứa trong nước. Trong nước sông muối cacbonat có ý nghĩa quan trọng
hơn là các ion khác như sulphat, nitrat, muối photpho, canxi, sắt, mangan…
Lượng các chất hữu cơ phụ thuộc vào đặc tính của dòng chảy qua
các vùng khác nhau và tiếp nhận sự rửa trôi của các lưu vực lân cận.
Chế độ khí của sông nói chung thuận lợi cho đời sống sinh vật.
Lượng oxy giảm từ thượng lưu tới hạ lưu [30].
1.1.2.2. Sự phân bố của các quần xã sinh vật ở sông
Những quần xã sinh vật sống trong dòng chảy, nơi nước luôn vận
động có nhiều nét đặc trưng:
Thành phần loài rất đa dạng do đa dạng về sinh cảnh (dạng hình, vị
trí địa lí của sông, tốc độ và mực nước, đặc tính của nền đáy,…). Hơn nữa,
sinh vật trong hệ thống sông bao gồm nhiều nhóm loài bản địa và những
loài di nhập từ nơi khác đến (từ các thủy vực nước đứng của nội địa và từ
6
biển). Khi những loài từ nơi khác rơi vào sông, nhiều loài trong chúng bị
chết, một số khác còn lại thích nghi với đời sống dòng chảy đã tồn tại và
phát triển, đôi khi khá hưng thịnh [30].
Từ thượng nguồn tới cửa sông, tính đa dạng về thành phần loài, sự
phát triển về số lượng, sinh vật lượng của quần xã sinh vật tăng dần, đồng
thời có sự thay thế những nhóm ưa oxi bằng các nhóm kém ưa oxi hơn,
những nhóm có khả năng chống chịu tốc độ dòng chảy lớn (thân trơn, dài,
có giác bám,…) bằng những loài kém thích nghi hơn (cá thân cao), những
loài ăn thịt (ấu trùng và côn trùng dưới nước) bằng những loài ăn thực vật,
mùn bã và sinh vật nổi, những loài đẻ trứng vùi bằng những loài đẻ trứng
bám và trứng nổi. Những thay thế đó liên quan chặt chẽ đến sự thay đổi của
tốc độc dòng chảy [30].
Theo chiều ngang sông, thành phần loài và sự phát triển về số lượng,
sinh vật lượng giảm từ bờ ra giữa dòng. Nơi giàu có nhất là nơi nước chảy
yếu xuất hiện trên các triền sông. Quy luật này không rõ ở các đoạn sông
miền núi do sự phân bố đồng đều của động vật đáy trên nền đáy khá đồng
nhất [30].
Từ các nhóm sinh thái khác nhau, những nhóm phát triển phong phú là
plankton, benthos, nekton, periphyton, còn neuson và pleuston hầu như vắng
mặt [30].
Plankton: Bao gồm các thủy sinh vật sống trôi nổi một cách thụ
động hoặc vận động yếu trong các lớp nước tầng mặt, chủ yếu nhờ vào
chuyển động của khối nước mà di chuyển. Plankton bao gồm:
bacterioplankton, phytoplankton, zooplankton. Về mặt chuyển hóa vật chất,
plankton bao gồm các sinh vật sản xuất sơ cấp (phytoplankton), các sinh
7
vật tiêu thụ bậc thấp (zooplankton), các sinh vật phân hủy
(bacterioplankton). Trong thành phần sinh vật nổi của sông, phát triển
mạnh là vi khuẩn, tảo khuê, luân trùng, tảo lam, tảo lục, còn giáp xác nhỏ
kém phát triển. Thành phần loài và số lượng nghèo ở thượng lưu và giàu
dần lên ở hạ lưu. Do chế độ nước chảy mạnh, nên sinh vật nổi phân bố
tương đối đồng đều theo chiều ngang cũng như thẳng đứng. Số lượng sinh
vật nổi nhiều nhất vào kỳ nước thấp và nghèo đi vào kỳ nước cao. Trong
thành phần sinh vật nổi các sông của miền Bắc Việt Nam, ở vùng đồng
bằng thường có các loài giáp xác nguồn gốc biển hoặc nước lợ di nhập vào
như các loài thuộc các giống Sinocalanus, Schmackeria, Cyathura.v.v.. [31].
Nekton: Sinh vật tự bơi là thành phần quan trọng trong các quần
loại sinh vật ở trong tầng nước, bao gồm các động vật có kích thước lớn
và phần lớn là các đối tượng khai thác. Sinh vật tự bơi đều là các sinh vật
tiêu thụ ở các bậc dinh dưỡng khác nhau, có cấu tạo cơ thể phức tạp, có cơ
quan vận động chủ động, tích cực. Sinh vật tự bơi ở sông gồm có cá, bò
sát, ở nước và động vật có vú ở nước. Các loài cá sông có thể là cá thường
trú, có thể là cá từ biển di nhập vào từng thời gian để sinh sản. Thành phần
khu hệ cá sông thường không đồng nhất từ thượng lưu về hạ lưu, ở mỗi
quãng sông có một khu hệ cá đặc trưng. Vùng thượng lưu sông Hồng có
nhiều loài cá đặc trưng cho vùng núi như: cá Bỗng, cá Sỉnh, cá Hỏa, cá
Chát, cá Lòa.v.v., trong khi đó ở vùng hạ lưu, khu hệ cá gồm các loài phổ
biến ở vùng đồng bằng (cá Chép, cá Diếc, cá Mè, cá Chày.v.v.) và các loài
cá từ biển di cư vào như (cá Mòi, cá Cháy.v.v.). Một số loài cá khác phân
bố rộng từ thượng lưu tới hạ lưu sông như cá Mương, cá Chạch, cá Măng,
cá Nheo.v.v.[31].
8
Benthos: Thành phần sinh vật sống ở nền đáy bao gồm cả sinh vật
sản xuất, tiêu thụ, và phân hủy. Sinh vật tiêu thụ ở đây được đặc trưng bởi
những nhóm động vật ăn mùn bã sinh vật hoặc bùn đáy. Ở những vùng
nước sâu không còn ánh sáng thì thực vật không còn nữa và sinh vật đáy chỉ
còn là những sinh vật tiêu thụ (động vật) ở các bậc dinh dưỡng khác nhau
và sinh vật phân hủy (vi khuẩn).
+ Theo vị trí nơi ở thì benthos được chia thành: sinh vật sống trên
mặt nên đáy (epifauna) và nhóm sống chui xuống nền đáy (infauna).
+ Theo tính ưa nền đáy thì benthos được chia thành: sinh vật ưa đáy
bùn (pelophile), sinh vật ưa đáy cát (psammophile), sinh vật ưa đáy đá
(lithophile), sinh vật ưa đáy sét (argilophile),…
+ Theo kích thước, sinh vật đáy có thể được chia thành nhiều kích cỡ
khác nhau; sinh vật đáy lớn (marcobenthos) có kích thước lớn hơn 2mm,
sinh vật đáy vừa (mesobenthos) từ 0,1 – 2mm và sinh vật đáy nhỏ
(microbenthos) dưới 0,1mm. Một cách tổng quát, có thể chia sinh vật đáy
thành hai nhóm lớn: động vật đáy (zoobenthos) và thực vật đáy
(phytobenthos).
1.1.2.3. Một số đặc điểm thích nghi quan trọng của quần xã sinh vật ở
sông
Ở các đại diện thuộc quần xã nơi nước chảy, sinh vật có những
thích nghi chuyên hóa cho phép chúng bám trụ được trong các thủy vực
nước chảy nhanh. Có thể liệt kê một số đặc điểm thích nghi quan trọng
nhất:
9
Bám thường xuyên vào giá thể cứng như đá, phiến gỗ, khối lá. Các
thực vật sản xuất quan trọng nhất cũng được liệt vào loại này. Đó là tảo
lục sống bám như Clado phora với những mấu phụ dài…Một số loài động
vật cũng sống bám vào giá thể, đó là thủy tức nước ngọt và ấu trùng bọ
suối mà bằng dịch của tuyến tiết chuyên hóa đã gắn tổ kén của chúng vào
đá.
Móc và giác bám: Phần lớn các loài động vật sống ở nơi nước chảy
nhanh thường có móc bám hoặc giác bám cho phép chúng bám chắc vào bề
mặt giá thể hầu như rất trơn. Ví dụ như: hai loài ấu trùng thuộc bộ Hai
cánh trong giống Simulium và giống Plepharocera. Simulium không những
sử dụng giác bám ở sau cơ thể mà còn tiết các sợi tơ buộc mình vào giá
thể.
Bề mặt phía dưới có chất dính: Nhiều động vật bám vào giá thể
bằng chất dính ở bề mặt phía dưới cơ thể, như một số nhuyễn thể chân
bụng và giun dẹp.
Cơ thể hình thoi: Hầu hết các động vật sống trong sông, từ ấu
trùng côn trùng đến cá đều có cơ thể hình thoi nhọn, nghĩa là cơ thể của
chúng có dạng gần giống như hình trứng: phía trước lượn tròn và phía sau
vuốt nhọn. Điều đó cho phép giảm sức cản của nước đến mức tối thiểu.
Cơ thể dẹp: Nhiều loài động vật sống ở nơi nước chảy nhanh
không chỉ có cơ thể dạng hình thoi nhọn mà còn dẹp nữa. Điều đó cho phép
chúng dễ dàng ẩn náu vào trong khe, kẽ và vào phía dưới các tảng đá. Ví dụ
như thiếu trùng phù du và thiêu thân.
Tính hướng dương theo dòng chảy: Động vật sống ở sông luôn luôn
định hướng ngược với dòng chảy. Đó là loại hình tập tính bẩm sinh.
10
Tính hướng tiếp xúc dương: Nhiều động vật ở sông có tập tính
bẩm sinh đặc trưng là bám chặt vào bề mặt hoặc duy trì tiếp xúc chặt chẽ
với bề mặt. Nếu như thả một nhóm thiếu trùng thiêu thân vào lọ trơn thì
chúng tìm bám ngay vào các que hoặc mảnh vụn thực vật nằm ở đáy. Nếu
như không có bề mặt tiếp xúc thích hợp thì chúng bám vào nhau [3].
1.2. Đa dạng sinh học cá và ý nghĩa của nó trong các hệ sinh thái nước
1.2.1. Đa dạng sinh học cá
Khái niệm về Đa dạng sinh học:
Thuật ngữ đa dạng sinh học (biodiversity) ra đời từ những năm 80
của thế kỷ trước và được hiểu là “sự phồn vinh của sự sống trên Trái Đất,
là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa trong
các loài, là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi
trường “ (WWF, 1989).
McNeely et al. (1991) cho rằng, “Đa dạng sinh học là một khái niệm
chỉ tất cả động vật, thực vật và vi sinh vật, những đơn vị phân loại dưới
chúng và các hệ sinh thái mà sinh vật là những đơn vị cấu thành”. Đó là một
thuật ngữ bao trùm đối với mọi mức độ biến đổi của thiên nhiên, gồm cả
số lượng và tần suất xuất hiện của các hệ sinh thái, của loài hay gen trong
một tập hợp đã biết”.
Như vậy đa dạng sinh học được xét trong 3 cấp: đa dạng về loài sinh
vật, đa dạng về gen chứa trong các loài hay đa dạng về di truyền, đa dạng
về hệ sinh thái [29].
Đa dạng sinh học cá: Cá gồm 4 lớp trong tổng số 8 lớp thuộc phân ngành
động vật có xương sống hiện sống. Chúng rất đa dạng, gồm khoảng
11
21.000 loài sống trong môi trường nước, từ các vực nước trong lục địa cũng
như ở đại dương kể cả những vùng sâu thẳm. Chúng đông hơn động vật
có xương sống ở cạn. Mặc dù cá là động vật có xương sống cổ nhất,
chúng đã có một thời hưng thịnh, sau đó được thay thế bởi các nhóm động
vật có xương sống tiến hóa hơn. Nhưng không có bất cứ động vật nào ở
biển đe dọa được sự tồn tại của chúng [5].
1.2.2. Ý nghĩa đa dạng sinh học cá trong các hệ sinh thái nước
Đa dạng sinh học đóng vai trò rất quan trọng đối với sinh giới và con
người. Việt Nam được coi là “điểm nóng” về đa dạng sinh học trên thế
giới với 3 lý do:
Thành phần các giống loài động vật, thực vật khá phong phú. Riêng ở
dưới nước đã xác định được trên 2740 loài và dưới loài thủy sinh vật nước
ngọt và trên 11000 loài thủy sinh vật nước mặn.
Có mức độ đặc hữu cao so với các nước trong phân vùng Đông
Dương (MacKinnon,1986).
Đa dạng sinh học bị thất thoát nghiêm trọng vào bậc nhất [29].
Đối với các hệ sinh thái nước, cá có vai trò và ý nghĩa to lớn:
Đảm bảo cân bằng sinh thái ở các thủy vực, góp phần đảm bảo không
một loài nào đó phát triển hoặc là suy giảm số lượng một cách quá mức.
Thành phần mỗi loài cá là một mắt xích trong chuỗi và lưới thức ăn của
quần xã dưới nước, nó đảm bảo sự tuần hoàn vật chất và sự chuyển hóa
năng lượng ở các HST nước. Làm cho không một loài nào đó phát triển
hoặc là suy giảm số lượng một cách quá mức.
Là nguồn gen dự trữ.
12
Cung cấp nguồn thực phẩm phong phú cho con người. Trong đó phải
kể đến HST sông cung cấp thường xuyên rất nhiều loại cá nước ngọt có
chất lượng cao về thịt như (cá Anh Vũ, cá Chép, cá trôi, cá chuối, cá
Trắm…).
Cung cấp nguồn dược liệu. Ở HST sông có một số loài cá có thể dùng
làm thuốc. Ví dụ: mật cá Trắm đen có thể làm thuốc sát trùng [36].
Thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người do một số loài được nuôi
cảnh.
Phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học để phát triển nghề cá và
bảo tồn ĐDSH; đồng thời có thể sử dụng chỉ số đa dạng sinh học cá (index
of biotic intergrity IBI) để việc đánh giá chất lượng môi trường nước.
HST nước có ĐDSH cá có thể phát triển làm nơi du lịch. Ví dụ: ao cá
Bác Hồ, ở Thanh Hóa có suối cá thần Cẩm Lương – Cẩm Thủy thu hút rất
nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm, quan [10,24].
1.3. Quan hệ của Đa dạng sinh học cá với một số yếu tố sinh thái
chính ở HST sông
Các nhân tố vô sinh của môi trường sống bao gồm các yếu tố lý, hóa,
cơ học của môi trường nước và nền đáy cùng với quá trình biến đổi của
chúng trong đời sống thủy vực. Ở hệ sinh thái sông có rất nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến ĐDSH cá như: đặc tính cơ lý học (áp lực nước, độ nhớt,
ánh sáng, nhiệt độ,…), đặc tính thủy học (chuyển động của khối nước
trong thủy vực), đặc tính thủy hóa học (chất hòa tan, chất vẩn, pH) của
khối nước, đặc tính nền đáy, các yếu tố hữu sinh. Trong phạm vi luận văn
13
này chúng tôi chỉ đề cập đến các yếu tố chính ảnh hưởng mẽ tới ĐDSH cá:
độ trong, nhiệt độ, pH, chất hòa tan [31].
1.3.1. Quan hệ với các yếu tố thủy lý
Độ trong:
Độ trong chịu ảnh hưởng bởi các phần lơ lửng khác nhau và có vai
trò rất quan đối với sinh vật ở nước. Trước hết độ trong thấp sẽ làm giảm
khả năng xuyên sâu của ánh sáng bề mặt, qua đó giới hạn quang hợp cũng
như tầm nhìn của các động vật sống ở nước [30]. Hệ số hấp thụ ánh sáng
của nước tỷ lệ nghịch với độ trong của nước [31]. Khi quang hợp bị giới
hạn thì sự sống của sinh vật sản xuất, đặc biệt là thực vật nổi cũng bị giới
hạn từ đó làm giảm các sinh vật tiêu thụ ở các bậc khác nhau trong đó có
cá. Độ trong của nước ở sông thường rất thấp. Ở các con sông lớn, độ
trong chỉ trong khoảng 12 m còn ở các sông nhỏ có khi chỉ vài cm [30,31].
Nhiệt độ:
Nguồn nhiệt chủ yếu của nước trong các thủy vực là từ bức xạ mặt
trời và chủ yếu do các tia có sóng dài gồm hồng ngoại, đỏ da cam. Lớp
nước trên mặt hấp thụ nhiều nhiệt hơn ở lớp nước dưới sâu nên các tia
sáng này chủ yếu chỉ tập trung ở các lớp nước tầng trên. Chế độ nhiệt ở
nước tương đối ổn định hơn trong không khí, do có độ tỏa nhiệt và thu
nhiệt lớn đồng thời các lớp nước ở trên bề mặt và ở dưới sâu có sự điều
hòa nhiệt độ lẫn nhau trong quá trình lạnh đi hay bốc hơi, làm cho nhiệt độ
của cả khối nước tương đối ít biến đổi [31].
Nhiệt độ nước trong thủy vực có ảnh hưởng lớn đến thủy sinh vật
và có tính chất quyết định đối với đời sống thủy sinh vật. Trong đời sống
14
cá thể, nhiệt độ có ảnh hưởng tới tốc độ trao đổi chất, thông qua ảnh
hưởng đối với hoạt động của các enzyme theo định luật Vanhoff, do đó chế
độ nhiệt trong các thủy vực ảnh hưởng tới nhịp độ sinh sản và phát triển
của thủy sinh vật. Cùng với nồng độ muối, chế độ nhiệt trong thủy vực
quyết định sự phân bố theo vĩ độ, theo thủy vực của thủy sinh vật nói
chung và cá nói riêng [3,31].
Độ muối:
Độ mặn hay độ muối được ký hiệu S‰ (S salinity độ mặn) là
tổng lượng (tính theo gram) các chất hòa tan chứa trong 1 kg nước. Đối với
các loài thủy sinh vật, độ muối là một nhân tố sinh thái quan trọng vì nó
ảnh hưởng lớn tới các yếu tố khác như: pH, nhiệt độ, hàm lượng oxy hòa
tan, các nguồn thức ăn .v.v…[49], đồng thời có vai trò xác định giới hạn
phân bố của các loài.
Độ dẫn:
Độ dẫn điện của nước liên quan đến sự có mặt của các ion trong
nước. Các ion này thường là muối của kim loại như muối NaCl, KCl và các
iôn SO42, NO3 , PO43 v.v... Tác động ô nhiễm của nước có độ dẫn điện cao
thường liên quan đến tính độc hại của các ion hòa tan trong nước. Để xác
định độ dẫn điện, người ta thường dùng các máy đo điện trở hoặc cường
độ dòng điện [49].
1.3.2. Quan hệ với các yếu tố thủy hóa
Độ pH:
Trong thành phần nước thiên nhiên, ion H+ có hàm lượng rất nhỏ,
nhưng có một vai trò rất quan trọng. Độ pH trong nước phụ thuộc vào
15
nhiều yếu tố và ảnh hưởng đến hàm lượng của nhiều thành phần khác. Độ
pH phụ thuộc vào hàm lượng muối hữu cơ đáy hồ và khả năng thủy phân
của các muối kim loại nặng. Ở các thủy vực nội địa nước thay đổi từ axit
(pH từ 3,4 – 6,95), trung tính (pH từ 6,95 – 7,3), kiềm (pH từ 7,3 – 10) [31].
Độ pH trong thủy vực có thể biến đổi theo ngày đêm, do biến đổi
của hàm lượng CO2 trong nước trong quá trình quang hợp. Độ pH cũng thay
đổi theo độ sâu, càng xuống sâu càng giảm đi do sự thay đổi hảm lượng
CO2 theo độ sâu. Ngoài ra, độ pH còn biến đổi theo mùa do biến đổi của
các quá trình phân hủy chất hữu cơ, liên quan tới hàm lượng CO2 trong
nước [31].
Giữa độ pH của nước trong thủy vực và thủy sinh vật có quan hệ
qua lại rất mật thiết. Hoạt động sống của thủy sinh vật như quang hợp, hô
hấp làm thay đổi độ pH của nước trong thủy vực. Ngược lại pH của nước
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự phân bố và hoạt động sống của
thủy sinh vật. Độ pH thay đổi còn làm thay đổi cân bằng các hệ thống hóa
học trong nước, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đời sống thủy sinh vật, Ví dụ
pH axit làm muối của Fe hòa tan nhiều trong nước gây độc cho thủy sinh
vật [31].
Điểm gây chết của axit và kiềm lần lượt xấp xỉ thấp hơn 4 và cao
hơn 11. Với mức pH từ 4 – 6,5 cá phát triển chậm. Vào buổi sáng, giá trị
pH trong môi trường thay đổi trong khoảng 6,5 – 9,0, được coi là phù hợp
nhất cho cá sinh trưởng và phát triển [40]. Nếu cá bị chuyển nhanh chóng
từ môi trường nước này sang môi trường nước khác có sự khác nhau nhiều
về pH thì cá bị sốc hoặc chết ngay cả khi pH của môi trường mới chuyển
sang trong khoảng chịu đựng thông thường của loài cá đó [40].
16
Hàm lượng oxy hóa học (COD):
Trong hóa học môi trường, chỉ tiêu và thử nghiệm nhu cầu ôxy hóa
học (COD chemical oxygen demand) được sử dụng rộng rãi để đo gián
tiếp khối lượng các hợp chất hữu cơ có trong nước. Phần lớn các ứng
dụng trong sử dụng chỉ số là nhằm xác định khối lượng của các chất ô
nhiễm hữu cơ tìm thấy trong nước bề mặt (ví dụ trong các con sông hay
hồ), làm cho COD là một phép đo hữu ích về chất lượng nước. Nó được
biểu diễn theo đơn vị đo là miligam trên lít (mg/l), chỉ ra khối lượng ôxy
cần tiêu hao trên một lít dung dịch. Các nguồn tài liệu cũ còn biểu diễn nó
dưới dạng các đơn vị đo khác như phần triệu (ppm) [49].
Hàm lượng oxy sinh hóa (BOD):
Nhu cầu ôxy hóa sinh học hay nhu cầu ôxy sinh học (ký hiệu: BOD
Biochemical (hay Biological) Oxygen Demand), là một chỉ số được sử dụng
để xác định xem các sinh vật sử dụng hết ôxy trong nước nhanh hay chậm
như thế nào. Nó được sử dụng trong quản lý và khảo sát chất lượng nước
cũng như trong sinh thái học hay khoa học môi trường. BOD không là một
thử nghiệm chính xác về mặt định lượng, mặc dù nó có thể coi như là một
chỉ thị về chất lượng của nguồn nước [49].
Các chất hòa tan trong nước:
Chất hòa tan trong nước thiên nhiên bao gồm nhiều thành phần khác
nhau. Có thể chia làm ba nhóm lớn là: chất vô cơ hòa tan, chất hữu cơ hòa
tan và chất khí hòa tan [31].
Chất vô cơ hòa tan: Chất vô cơ hòa tan trong tự nhiên gồm 3 thành
phần:
17
+ Thành phần muối cơ bản là thành phần chủ yếu của muối vô cơ hòa
tan trong nước thiên nhiên. Trong nước ngọt thành phần này chiếm tới 90 –
95%, trong nước có nồng độ muối cao, tới 99%. Thành phần muối cơ bản
này gồm các muối clorit, sunfat cacbonat, hidrocacbonat của Na, Mg, Ca và
K. Thành phần này tồn tại trong nước thiên nhiên dưới dạng các ion chủ
yếu: Cl, SO4, HCO3, CO3, Na, K, Mg, và Ca.
+ Các nguyên tố tạo sinh (biogen) gồm các hợp chất vô cơ và hữu cơ
hòa tan của N, P và Si, là các chất cần thiết cho sự tạo thành cơ thể sống.
Thuộc vào nhóm này còn có thể kể cả một số muối khác như Na, Ca, K,
Mg…và được gọi chung là các muối dinh dưỡng. N ở trong nước ở dạng
các ion NH4+, NO2, NO3, và các chất hữu cơ hòa tan và không hòa tan trong
nước. P cũng ở dạng vô cơ và hữu cơ hòa tan hoặc không hòa tan trong
nước. Dạng vô cơ trong nước tự nhiên là H3PO4 và các dẫn xuất. Si trong
nước tự nhiên ở dạng hòa tan có thể là H4SiO4 và các dẫn xuất.
+ Các nguyên tố vi lượng bao gồm các nguyên tố có hảm lượng rất nhỏ,
nhưng rất quan trọng đối với đời sống thủy sinh vật. Các nguyên tố này rất
nhiều và càng ngày càng được phát hiện nhiều thêm bằng các phương pháp
phân tích hiện đại. Các nguyên tố phổ biến là: Fe, Ni, Pb, Cu, Mn, Co, …
Chất hữu cơ hòa tan:
Trong thành phần nước tự nhiên, ngoài lượng chất hữu cơ chứa trong
sinh vật, còn có thành phần chất hữu cơ ở các dạng khác ngoài sinh vật
như chất hữu cơ hòa tan, chất vẩn và chất keo [31].
Chất khí hòa tan:
18
Trong nước thiên nhiên có các chất khí hòa tan, trong đó các chất khí
thường gặp và có hàm lượng cao như: O2, CO2, N2, CH4, H2S, NH3.
Nguồn gốc của các chất khí này là: từ không khí đi vào nước (O2, CO2,
N2) hoặc do các quá trình sống của thủy sinh vật và các quá trình chuyển
hóa vật chất xảy ra trong thủy vực (CO 2, CH4, H2S, NH3, H2) hay do quá
trình phân giải khí và chuyển hóa ở các lớp đất sâu dưới tác dụng của nhiệt
độ cao và áp lực cao (CO2, CO, H2S, NH3, HCl…). Đối với nước trên mặt
đất, hai nguồn gốc trên là chủ yếu, còn đối với nước ngầm, nguồn gốc thứ
ba là chủ yếu.
Để đánh giá chất lượng nước, thường dùng chỉ tiêu hàm lượng oxy hòa
tan trong nước (DO). Nồng độ oxy hòa tan là chỉ thị quan trọng thể hiện
chất lượng nước trong thủy vực [6]. Oxy hòa tan có trong thủy vực là từ
không khí và từ hoạt động quang hợp của thực vật trong tầng quang hợp.
Lượng oxy này sẽ được tiêu thụ trong quá trình hô hấp, trong các quá trình
ôxy hóa các chất trong thủy vực, nếu ở hàm lượng cao có thể thoát ra ngoài
không khí. Ở nền đáy, oxy còn được chuyển từ oxit mangan khó hòa tan
trong nước lắng xuống đáy. Khi mất oxy, chất này lại trở thành hợp chất
Mn hòa tan, lấy lại oxy trong nước rồi lại lắng xuống đáy.
+ Khí Cacbonic: Cũng từ không khí, từ hoạt động hô hấp của thủy sinh
vật và từ các quá trình phân hủy chất hữu cơ mà tạo ra trong nước. CO 2 hòa
tan trong nước được tiêu thụ trong quá trình quang hợp, trong quá trình
chuyển hóa thành HCO3 và CO32 và có thể thoát ra ngoài nước.
Hàm lượng oxy và CO2 trong nước của các thủy vực phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như nhiệt độ nước và nồng độ muối,… Hàm lượng oxy và
CO2 trong thủy vực còn biến đổi theo mùa, theo ngày đêm, theo độ sâu, theo
19
hoạt động sống của thủy sinh vật, các quá trình chuyển hóa vật chất hữu
cơ trong thủy vực và theo sự thay đổi đặc tính vận động của khối nước.
Phân bố của oxy và CO2 trong các thủy vực cũng theo quy luật nhất định.
Các tầng nước trên thường giàu oxy, có khi tới bão hòa, rồi giảm dần theo
độ sâu. Các tầng nước sâu thường giàu CO2 và nghèo oxy, có khi còn có các
khí độc (CH4, H2S).
+ H2S: Trong thủy vực, H2S được hình thành do hoạt động của vi khuẩn
thối rữa phân hủy chất hữu cơ và vi khuẩn lưu huỳnh khử sunfat trong
nước. Loại thứ nhất hay gặp ở nước ngọt, loại thứ hai hay gặp ở biển và
đại dương, nơi có nhiều sunfat. Khối lượng H 2S sinh ra trong thủy vực
nhiều khi rất lớn, làm nhiễm độc một diện tích rất rộng trong thủy vực.
H2S là khí rất độc, trực tiếp hay gián tiếp gây tác hại cho thủy sinh vật. Có
những thủy sinh vật chết ở nổng độ H2S rất nhỏ. H2S còn làm giảm lượng
oxy hòa tan trong nước, thu hẹp diện tích hoạt động bắt mồi của thủy sinh
vật trong các thủy vực [31].
1.4. Khái quát về chỉ số tổ hợp sinh học (Index of Biotic Integrity IBI)
1..4.1. Lịch sử của chỉ số tổ hợp sinh học – IBI
Chỉ số tổ hợp sinh học được phát triển bởi James R. Karr từ năm
1981 và đầu những năm 80. Ban đầu Ông đã sử dụng quần xã cá trong các
dòng suối vùng phía tây ở miền Trung nước Mỹ để tính điểm IBI. IBI được
phát triển bởi vì có nhiều ưu điểm như có tính hiệu quả, dễ sử dụng,
không tốn kém và khá chính xác [38,42].
IBI là cách tiếp cận sử dụng phương pháp so sánh để đo tổ hợp sinh
học (Moyle và Randall, 1998). Tổ hợp sinh học được kiểm tra bởi so sánh
20
giá trị IBI của một vị trí bị tác động xấu với một vị trí không bị xáo trộn
hoặc ít bị xáo trộn nhất (Karr, 1981). Các giá trị IBI được xác định dựa trên
hầu hết các thuộc tính hệ thống sống mà có chứa thông tin về cấu trúc,
chức năng và tổ chức của các quần xã sinh vật (Osborne và các cộng sự
1992). Nhờ có các thuộc tính này mà IBI phản ánh các thành phần của HST,
kết cấu nơi sống và dinh dưỡng, sức sống cá thể và sự phong phú loài
(Hughes và các cộng sự, 1998) [38,42].
1.4.2. Ý nghĩa của việc sử dụng chỉ số tổ hợp sinh học để đánh giá
chất lượng môi trường nước
Ý nghĩa của chỉ số tổ hợp sinh học:
Khi so sánh các kết quả đánh giá chất lượng môi trường nước bằng
các phương pháp vật lý, hóa học và sinh học thì cục môi trường Mỹ (EPA)
nhận thấy rằng 50% trường hợp suy giảm môi trường nhận biết bằng các
chỉ số sinh học trùng với sự suy giảm các chỉ số hóa học. Ngược lại chỉ có
3% trường hợp nhận biết bằng các chỉ số hóa học trùng với các chuẩn mực
sinh học. Tù kết luận đó EPA dùng chỉ số tổ hợp sinh học để đánh giá môi
trường có nhiều thuận lợi và chính xác hơn [24].
+ Phương pháp phân tích lý, hóa học xác định các yếu tố riêng lẻ trong
môi trường nước ô nhiễm. Tác động này rất khác với tác động tổng hợp
của toàn bộ các yếu tố. Tác động tổng hợp này chỉ được thể hiện qua các
dữ liệu sinh học, do phương pháp sinh học thu được kết quả tác động tổng
hợp của nhiều yếu tố trên cá thể sinh vật hoặc qua quần xã sinh vật trong
môi trường nước bị ô nhiễm [31].
+ Phương pháp phân tích lý, hóa xác định chất lượng môi trường nước
chỉ ở trong một thời điểm tức thời nhưng các chất ô nhiễm có thể biến đổi
21
hoàn toàn theo thời gian. Trong khi đó, phương pháp sinh học thể hiện chất
lượng môi trường nước qua một quá trình diễn ra trong một thời gian nhất
định đủ cho một vài chu kỳ sống của sinh vật chỉ thị [44].
+ Các phương pháp kỹ thuật phân tích lý, hóa học hiện nay chưa có
khả năng xác định các chất có hàm lượng siêu nhỏ trong môi trường nước
nằm dưới giới hạn phân tích. Trong khi đó phương pháp sinh học có khả
năng gián tiếp xác định được các chất có hàm lượng siêu nhỏ, dựa vào khả
năng tích tụ sinh học của sinh vật chỉ thị.
+ Có đến hơn 1500 chất ô nhiễm được thải vào trong môi trường nước
song chỉ có 25 chất trong số đó là được xác định. Với số lượng lớn các chất
độc hại như vậy thì không thể có phân tích hóa, lý nào có thể kiểm soát
được các hóa chất thực tế đang gây ô nhiễm [31].
Ý nghĩa của chỉ số tổ hợp sinh học cá:
Những nghiên cứu sử dụng chỉ số tổ hợp sinh học IBI đã ứng dụng ở
nhiều sinh vật khác nhau như: cá, động vật không xương sống, sự kết hợp
giữa cá và những sinh vật khác. Nhưng chỉ số tổ hợp sinh học cá lại được
ứng dụng nhiều nhất trong số các nhóm sinh vật và cá được sử dụng cá để
phát triển IBI [38]. Vì cá có nhiều ưu điểm sau:
+ Cá có mặt ở hầu hết tất cả các loại môi trường nước, từ những
dòng suối rất nhỏ đến những dòng suối lớn và cả những thủy vực có môi
trường bị ô nhiễm.
+ Cá là sinh vật chỉ thị trong thời gian dài (vài năm) và phản ánh môi
trường sống rộng bởi vì chúng sống tương đối lâu dài và di chuyển nhiều.
+ Các mẫu cá thu thập được, nhìn chung bao gồm một loạt các loài
cá mà chúng đại diện cho các khâu khác nhau trong chuỗi thức ăn (cá ăn
tạp, ăn mùn bã hữu cơ, cá ăn động vật phù du, cá ăn thủy sinh vật bậc cao,
22
cá dữ ăn cá…). Chúng có xu hướng tổ hợp được các khâu thức ăn bậc thấp
vì thế cấu trúc thành phần khu hệ cá phản ánh tổng hợp các điều kiện môi
trường sống.
+ Nhiều loài cá nằm ở phần chóp của chuỗi thức ăn trong thủy vực
và chúng lại được con người sử dụng làm thực phẩm. Chính vì thế, cá là
đối tượng quan trọng để đánh giá nhận biết ô nhiễm.
+ Cá là đối tượng dễ thu thập và dễ phân loại đến loài. Các mẫu cá
có thể phân loại, đếm ngay tại hiện trường và thả trở lại môi trường nước.
+ Các nguồn sách phân loại cá (khóa phân loại) chuẩn, thường có sẵn
hơn là nguồn sách phân loại đối với các thủy sinh vật khác.
+ Môi trường sống của nhiều loài cá con người biết rõ hơn so với
môi trường sống của các thủy sinh vật khác.
+ Các thông tin về phân bố của các loài cá thường được biết nhiều và
rõ ràng hơn so với bất kì loài thủy sinh vật nào khác.
Chính vì thế, dùng chỉ số tổ hợp sinh học cá để đánh giá tình trạng môi
trường thủy vực là một trong những biện pháp rẻ tiền mà có hiệu quả
được áp dụng ở Mỹ và rất nhiều nước khác trong đó có Việt Nam
[24,38,40].
1.4.3. Những nghiên cứu sử dụng chỉ số tổ hợp sinh học cá để đánh
giá chất lượng môi trường nước
1.4.3.1. Trên thế giới
IBI được các nhà khoa học sử dụng nhiều nơi trên thế giới. Ngay từ
đầu những năm 1980, tại Mỹ đã có trên 30 bang sử dựng IBI (Karr et al,
1986). Lần đầu tiên IBI được sử dụng để đánh giá chất lượng môi trường
nước ở các dòng suối thuộc phía tây ở miền Trung nước Mỹ. Sau đó nó
23
được biến đổi đi và sử dụng ở những vùng khác ở phía bắc nước Mỹ và ở
Canada, Mexico, Pháp, Ấn Độ, …(Hghes et al 1998). IBI được sử dụng dựa
trên các quần xã cá ở phía nam Carolina Coastal Plain để đánh giá tác động
của môi trường (Paller và các cộng sự, 1996) và ở các dòng sông thuộc Nam
Phi (Kleynhans, 1996). Adams và các cộng sự (1992) đã so sánh các quần
thể cá dọc theo một dòng sông ô nhiễm. Hall và các cộng sự (1994) đã sử
dụng IBI để so sánh các quần thể cá ở các dòng suối thuộc Maryland
Coastal Plain để đánh giá chất lượng nước.
Kerans và Karr (1994) đã sử dụng IBI để xác định các điều kiện sống
ở các dòng suối thuộc Tennesee. Frenzel và Swanson (1996) sử dụng IBI ở
các thủy vực vùng trung tâm Nebraska (Mỹ). Ganasan và Hughes (1998) đã
sử dụng IBI ở các dòng sông thuộc Trung Ấn [38,42].
Fausch và cộng sự (1984) sử dụng 12 chỉ số để tính IBI. Bramblett và
cộng sự (1991) khi đánh giá suy thoái môi trường sông vùng đồng bằng miền
tây dùng 9 chỉ số. John Lyon (1992) phát triển kỹ thuật chỉ thị sinh học để
kiểm định sinh học qua IBI đối với vùng nước ấm Winconsin cũng dùng 12
chỉ số. Robert M. Perez và J. Gammon (1987) khi nghiên cứu vùng sông
Willamette dùng 13 chỉ số IBI. John Lyon, Sonia Navarro, Perez và cộng sự
(1997) tính IBI đối với suối và sông ở vùng trung tâm phía tây Mexico dùng
10 chỉ số. Khi chỉ số IBI để đánh giá môi trường sông Xen ở Pháp, Oberdoff
và Hughes (1992) đã dùng 12 chỉ số. Ganasan và Hughes (1997) khi sử dụng
IBI ở sông Khan và sông Kshipra thuộc Ấn Độ cũng dùng 12 chỉ số [24,
38,42].
1.4.3.2. Ở Việt Nam
24
Nguyễn Kiêm Sơn (2000) là người đầu tiên ở Việt Nam đã sử dụng
IBI dựa trên khu hệ cá để đánh giá chất lượng nước suối thuộc vườn Quốc
Gia Tam Đảo bằng cách sử dụng 12 chỉ số [24]. Năm 2007, Nguyễn Kiêm
sơn cũng đã sử dụng chỉ số IBI cá để đánh giá hiện trạng môi trường nước
sông Bồ (Thừa Thiên – Huế) [25]. Nguyễn Thị Nam Hiền (2008) đã sử
dụng IBI bằng cách tính điểm cho 12 chỉ số ĐDSH cá ở sông Chu thuộc địa
phận huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá [10]. Nguyễn Thành Nam, Nguyễn
Kiều Oanh, Nguyễn Xuân Huấn (2010) cũng sử dụng bộ 12 chỉ số IBI để
đánh giá chất lượng nước suối ở khu BTTN Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai [19].
1.5. Điều kiện tự nhiên và xã hội vùng nghiên cứu
1.5.1. Điều kiện tự nhiên
Sông Cầu nằm trong phạm vi tọa độ địa lý: 21 007’ – 22018’ vĩ bắc,
105028’ – 106008’ kinh đông, là phụ lưu của sông Hồng, có diện tích lưu vực
6.030 km2. Lưu vực sông Cầu là một phần của lưu vực sông Hồng – Thái
Bình (chiếm khoảng 8% diện tích lưu vực sông Hồng – Thái Bình trong
lãnh thổ Việt Nam). Tổng chiều dài các nhánh sông trong lưu vực dài
khoảng 1.600 km. Lưu vực sông Cầu bao gồm toàn bộ hay một phần lãnh
thổ của các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc
và Hải Dương.
Lưu vực sông Cầu có cả ba vùng sinh thái: đồng bằng, trung du và
miền núi. Địa hình chung của lưu vực theo hướng Tây Bắc – Đông Nam.
Mạng lưới sông suối trong lưu vực sông Cầu tương đối phát triển. Các
nhánh sông chính phân bố tương đối đều dọc theo dòng chính, nhưng các
sông nhánh tương đối lớn đều nằm ở phía hữu ngạn lưu vực, như các sông:
25