Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu thực trạng nhiễm giun xoắn (Trichinella spp) tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và hiệu quả biện pháp can thiệp (2015 – 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.15 KB, 24 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, bệnh giun xoắn được phát hiện trên người từ năm 1967. Đến nay
đã có ít nhất 5 vụ dịch giun xoắn xảy ra tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La,
Yên Bái, Thanh Hóa với trên 140 người mắc và 15 người tử vong. Bệnh giun xoắn
được xếp ở nhóm C trong Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm số 3/2007/QH 12,
ngày 21 tháng 11 năm 2007. Các nghiên cứu dịch tễ Trichinella tại Việt Nam còn
hạn chế, chủ yếu là mô tả hình thái dịch, triệu chứng lâm sàng và điều trị và phòng
chống bệnh giun xoắn tại các vụ dịch xảy ra. Do vậy cần có một nghiên cứu toàn
diện hơn về bệnh giun xoắn tại cộng đồng để tìm hiểu về dịch tễ sự lưu hành bệnh,
sự tồn tại các ổ bệnh trong tự nhiên, loài giun xoắn và diễn biến của bệnh trong
cộng đồng tại những vùng đã từng xảy dịch để từ đó đề xuất được các biện pháp dự
phòng và chống dịch bệnh giun xoắn hiệu quả.
Từ thực tiễn và ý nghĩa nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu thực trạng nhiễm giun
xoắn (Trichinella spp) tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và hiệu quả biện
pháp can thiệp (2015 – 2017)” được triển khai.
Mục tiêu
1. Mô tả thực trạng nhiễm giun xoắn trên người và động vật tại 4 tỉnh: Yên Bái,
Sơn La, Điện Biên và Thanh Hóa năm 2015.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan tới tình trạng nhiễm giun xoắn ở người tại
các điểm nghiên cứu.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng bằng truyền thông giáo dục sức khỏe
tại các điểm nghiên cứu.
TÍNH KHOA HỌC, TÍNH MỚI VÀ TÍNH THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
-

Đánh giá được thực trạng nhiễm giun xoắn trên người và lợn nuôi, chuột tại 20 xã
thuộc 4 huyện có dịch giun xoắn cũ với tỷ lệ nhiễm ấu trùng trên người là 10,5% ở
Điện Biên; 9,8% ở Sơn La và 1,4% ở Thanh Hóa;

-



Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở lợn và chuột là 0,12% tại Sơn La.

-

Bằng kỹ thuật sinh học phân tử và giải trình tự gen, đề tài đã xác định được loài giun
xoắn ở chuột là loài Trichinella spiralis.
CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Luận án gồm 119 trang được chia thành các phần sau: Đặt vấn đề (2 trang),

tổng quan tài liệu (32 trang); Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (20 trang); Kết
quả nghiên cứu (34 trang); Bàn luận (27 trang); Kết luận (2 trang); Kiến nghị (1


2
trang). Tính mới, tính khoa học (1 trang). Luận án có 33 bảng, 26 hình , 116 tài liệu
tham khảo (25 tài liệu tiếng Việt và 91 tài liệu tiếng Anh) và 05 Phụ lục.
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học giun xoắn
Giun xoắn thuộc giới Animalia, ngành Nematodes, lớp Nematoda, bộ
Enoplida, họ Trichinellidea, giống Trichinella. Đến nay đã phát hiện được 8 loài
giun xoắn gồm T. spiralis, T. nativa, T. britovi, T. pseudospiralis, T. murrelli, T.
nelsoni, T. papuae, T. zimbabwensis và 3 kiểu gen Trichinella chưa được đặt tên
loài. Các nhà khoa học trên thế giới thống nhất chia giống Trichinella thành 2 nhóm
dựa trên dữ liệu về di truyền, sinh hóa và sinh học là (1) các Trichinella có tạo kén
trong cơ và (2) không tạo kén trong cơ. Trichinella có sự phân bố và vật chủ chính
khác nhau tùy từng khu vực, khả năng lây nhiễm trên động vật và sự đề kháng với
nhiệt độ âm (-29oC đến -15oC) khác nhau.
1.2. Đặc điểm dịch tễ học bệnh
1.2.1


Tác nhân gây bệnh và ổ bệnh

- Tác nhân gây bệnh: Trichina spiralis giun tạo kén trong cơ.
- Ổ bệnh: trong tự nhiên lưu hành ở các loại động vật hoang dại như lợn rừng, gấu,
ngựa, chó sói, cáo, mèo rừng…và các động vật gần người như lợn nuôi thả rông,
chuột.
1.2.2

Đường truyền bệnh

Người hoặc động vật mắc bệnh giun xoắn do ăn thịt sống, thịt tái, tiết canh hoặc
những thực phẩm từ thịt chưa nấu chín có chứa nang ấu trùng giun xoắn. Giun xoắn
không lây truyền trực tiếp từ người sang người.
1.2.3

Khối cảm nhiễm và miễn dịch

Mọi người không phân biệt giới tính, tuổi, dân tộc, đều có thể mắc bệnh giun
xoắn khi ăn thịt chưa nấu chín có chứa nang ấu trùng giun xoắn. Tuy nhiên trẻ em
có ít biến chứng và phục hồi nhanh hơn người lớn. Chứng tăng bạch cầu ái toan
(BCAT) máu và mô là đặc trưng bệnh giun xoắn ở người và IgE tổng số tăng xuất
hiện ở nhiều trường hợp nhiễm bệnh. Tuy nhiên, vai trò bảo vệ của quần thể tế bào
này chống lại ký sinh trùng Trichinella như thế nào vẫn còn gây tranh cãi. Hơn nữa,
khi số lượng bạch cầu ái toan rất lớn, có thể gây độc hại đối với các mô chủ. Triệu
chứng bệnh ở thai phụ thường nhẹ hơn so với những người không mang thai, có ghi
nhận sẩy thai hoặc thai chết lưu do giun xoắn. Các triệu chứng của bệnh giun xoắn
nặng một cách điển hình ở các phụ nữ đang cho con bú hơn là phụ nữ không cho



3
con bú. Các động vật nuôi như lợn, ngựa và động vật hoang dã như lợn rừng, chuột,
gấu, cáo, chim, những động vật ăn tạp khác đều có thể mắc bệnh giun xoắn khi ăn
thịt sống có chứa nang ấu trùng giun xoắn.
1.2.4

Phân bố bệnh giun xoắn trên thế giới và tại Việt Nam

- Thế giới: Sự phân bố Trichinella và tập quán ăn uống là những yếu tố chính liên
quan tới việc nhiễm bệnh trên người ở các nước trên thế giới. Có 55 nước phát hiện
Trichinella spp gây bệnh trên người bao gồm 7 nước ở Châu Phi , 5 nước ở nước ở
Châu Mỹ, 18 nước ở Châu Á, 23 nước ở Châu Âu, 2 nước ở Châu Đại Dương. Có
4/7 nước Châu Phi phát hiện người mắc bệnh giun xoắn ở các dân tộc ít người và
khách du lịch, và có liên quan ăn thịt chưa nấu chín hoặc thịt của một số loài động
vật hoang dã. Hiện nay có 43 nước phát hiện Trichinella spp trên gia súc bao gồm 3
nước ở Châu Phi, 5 nước ở nước ở Châu Mỹ, 9 nước ở Châu Á, 24 nước ở Châu
Âu, 2 nước ở Châu Đại Dương. Có 66 quốc gia phát hiện Trichinella spp trên động
vật hoang dã, bao gồm 13 nước ở Châu Phi, 3 nước ở nước ở Châu Mỹ, 14 nước ở
Châu Á, 34 nước ở Châu Âu, 2 nước ở Châu Đại Dương.
- Việt Nam: Năm 1929, một con lợn nhiễm ấu trùng giun xoắn được phát hiện tại lò
mổ ở Bình Tây ở Nam Bộ. Năm 1962, Nguyễn Bá Thi phát hiện được hai con lợn
nhiễm ấu trùng giun xoắn tại lò mổ tại Hà Nội. Đến tháng 2/1967 một vụ dịch giun
xoắn xảy ra ở Lai Châu trên người với 21 người mắc và 3 người chết. Từ 1970 2013, có sáu vụ dịch bùng phát của bệnh giun xoắn trên người tại các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam tại Yên Bái, Sơn La, Điện Biên và Thanh Hóa. Bệnh giun xoắn
trên người thường được phát hiện muộn sau 1 - 2 tuần. Nguyên nhân do hầu hết
người dân và cán bộ y tế tuyến cơ sở chưa có kiến thức đầy đủ về bệnh giun xoắn
và thiếu trang thiết bị để chẩn đoán bệnh.
1.3. Các yếu tố liên quan với tình trạng nhiễm giun xoắn
Bệnh giun xoắn liên quan tới tập quán ăn, chế biến và phương pháp bảo quản
thực phẩm như ăn tiết canh, ăn thịt tái, lạp, nem chua, thịt khô, thịt nướng, thịt hun

khói, thịt treo gác bếp, thịt nấu chưa chín kỹ. Bệnh thường xảy ra vào các ngày lễ
hội, nơi tập trung ăn uống nhiều người có giết mổ lợn hoặc săn được thú rừng. Hay
gặp ở cộng đồng có hiểu biết về bệnh giun xoắn và biện pháp phòng chống bệnh
giun xoắn còn hạn chế. Đặc biệt, nơi có tập quán nuôi lợn thả rông hoặc bán thả
rông, đặc biệt ở là các dân tộc ít người ở vùng rừng núi và trung du.
1.4. Chẩn đoán và điều trị bệnh giun xoắn
1.4.1.Chẩn đoán: Bệnh giun xoắn là bệnh thuộc nhóm C trong Luật phòng chống,


4
bệnh truyền nhiễm (ICD-10 B75).
- Trường hợp bệnh nghi ngờ: Là trường hợp có ăn thịt lợn chưa nấu chín, tiết canh
kèm theo các triệu chứng (1) Sốt nhẹ sau tăng dần, sau 2-3 ngày thân nhiệt có thể
lên tới 39-40oC; (2) Đau cơ xuất hiện khi thở sâu, ho, khi nhai, nuốt, đại tiện, đau cả
mặt và cổ, đau khi vận động và cả khi ăn, nói; (3) Phù mi mắt, phù mặt, sau lan
xuống cổ và chi trên; (4) Có biểu hiện rối loạn tiêu hóa (tiêu chảy hoặc táo bón).
- Trường hợp bệnh nghi ngờ có nồng độ creatine kinase máu tăng.
- Trường hợp bệnh xác định: Là trường hợp bệnh nghi ngờ và có một trong các kết
quả xét nghiệm (1) Xét nghiệm tìm kháng thấy kháng thể kháng giun xoắn bằng kỹ
thuật ELISA hoặc, (2) Sinh thiết tìm thấy ấu trùng giun xoắn trong cơ, hoặc (3) Xác
định được đoạn gen đặc hiệu của giun xoắn bằng kỹ thuật sinh học phân tử.
1.4.2.Điều trị: Điều trị đặc hiệu kết hợp với điều trị triệu chứng, biến chứng tim
mạch, phổi, viêm cơ, bù nước, điện giải và nâng cao thể trạng.
- Albendazol: Người lớn dùng 800mg/ngày (hoặc liều 15 mg/kg/ngày) x 7 ngày.
Trẻ em trên 2 tuổi dùng liều 10 mg/kg/ngày. Nếu nhiễm nặng có thể điều trị nhắc
lại sau đợt điều trị lần một 5 ngày.
- Mebendazol: liều 5-20mg/kg/ngày x 8 - 14 ngày.
- Thiabendazol: Liều 25mg/kg cân nặng/ngày x 24 ngà.
Điều trị triệu chứng: Chống dị ứng; Hạ sốt, giảm đau, an thần; Phòng và xử trí suy
hô hấp; Kháng sinh phòng và chống bội nhiễm; Nâng cao thể trạng: Bù nước, điện

giải và nghỉ ngơi tại giường.
1.5. Phòng chống
-

Tuyên truyền giáo dục: Cải tạo vệ sinh môi trường, không nuôi lợn thả rông,

nâng cao ý thức vệ sinh ăn chín, uống nước đã đun sôi, đặc biệt ở các vùng dân có
tập quán ăn sống, tái, ăn tiết canh.
-

Tăng cường kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm trong giết mổ súc vật, đặc biệt ở

các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa.
-

Diệt các loại gặm nhấm xung quanh nhà và chuồng gia súc.

-

Xử lý hợp vệ sinh các sản phẩm săn bắn.

-

Biện pháp hiệu quả nhất để diệt các loài Trichinella là nấu chín thức ăn để diệt

ký sinh trùng. Ấu trùng giun xoắn có thể bị diệt bằng cách đun đến 60°C trong 2
phút hoặc 55°C trong 6 phút.
-

Đông lạnh cũng là một phương pháp để diệt giun xoắn. Miếng thịt 15cm, nhiệt


độ để diệt ấu trùng tại -15°C trong 20 ngày hoặc -23°C trong 10 ngày, hoặc -29°C


5
trong 6 ngày. Thịt ướp muối, xông khói, hoặc làm khô thịt sẽ không tiêu diệt được
nang kén.
Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Người: Những người dân từ 6 tuổi trở lên, không phân biệt dân tộc, giới tính, nghề
nghiệp sinh sống tại các địa điểm nghiên cứu được lựa chọn
- Động vật: Lợn nuôi hoặc thả rông tại điểm nghiên cứu không phân biệt nguồn
gốc, giống, tuổi; Chuột hoang bắt tại các cánh đồng điểm nghiên cứu.
- Ấu trùng giun xoắn thu được trên động vật và bệnh nhân trong các điểm nghiên
cứu (nếu có).
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
- Thực địa: Bốn tỉnh Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Thanh Hóa, mỗi tỉnh chọn chủ
đích 1 huyện gồm 1 xã đã từng có dịch giun xoắn và 4 xã giáp ranh chưa có dịch
- Phòng thí nghiệm: Phòng xét nghiệm Ký sinh trùng, Trường Cao đẳng Y tế
Đặng Văn Ngữ, Phòng xét nghiệm Khoa Sinh học phân tử, Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương.
2.2. Thời gian thực hiện
Nghiên cứu được triển khai từ tháng 5/2015 đến tháng 5/2017.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
- Mục tiêu 1 và 2: Nghiên cứu dịch tễ học mô tả có phân tích.
- Mục tiêu 3: Nghiên cứu dịch tễ học can thiệp cộng đồng có đối chứng
2.4 Cỡ mẫu nghiên cứu
2.4.1 Nghiên cứu dịch tễ học (mục tiêu 1 và 2)
- Mẫu nghiên cứu tỷ lệ nhiễm trên người và phỏng vấn


n  (12  /2)

p(1  p)
d2

Trong đó: n là số lượng người cần điều tra tối thiểu tại một xã;Z1-α/2 = 1,96; d =
0,05; p là tỷ lệ nhiễm giun xoắn bằng kỹ thuật Western Blot là 17%. (Theo Lê Ngọc
Anh (2014) tỷ lệ xét nghiệm Ab-ELISA tại Điện biên là 28,5%. Ước tính tối thiểu
có 60% số mẫu ELISA (+) sẽ dương khi xác định lại bằng Western Blot). Điền số
liệu vào công thức và tính toán được n = 216 người tại mỗi xã điều tra. Tổng số
người cần điều tra ở 20 xã là 4.320 người, trong đó người tham gia nghiên cứu vừa
được xét nghiệm máu đồng thời vừa được phỏng vấn.


6
- Cỡ mẫu điều tra trên động vật: Tổng số lợn tối thiểu cần xét nghiệm là: 36 lợn x
20 xã = 720 lợn. Trên thực tế nghiên cứu đã xét nghiệm máu cho 860 lợn.
- Cỡ mẫu nghiên cứu định loài: tất cả ấu trùng và hoặc con trưởng thành thu được
trên người (nếu có) và chuột (tiêu cơ) trong nghiên cứu dịch tễ được bảo quản lưu
giữ cho định loại
2.4.2. Nghiên cứu can thiệp truyền thông tại cộng đồng (mục tiêu 3) Cỡ mẫu 206
người tại mỗi xã điều tra cắt ngang xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun xoắn và điều
tra KAP ở mục tiêu 1 được sử dụng để đánh giá hiệu quả can thiệp truyền thông
giáo dục sức khỏe về bệnh giun xoắn và phòng chống bệnh giun xoắn. Hai huyện
được chọn chủ đích có tỷ lệ ELISA dương tính cao với Trichinella. Bốc thăm ngẫu
nhiên chọn 1 huyện tiến hành can thiệp và huyện còn lại là huyện đối chứng
2.5. Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu
- Kỹ thuật điều tra phỏng vấn cộng đồng (theo bộ câu hỏi phỏng vấn).
- Kỹ thuật lấy và bảo quản máu tĩnh mạch: Theo quy trình chuẩn của Viện Sốt rétKý sinh trùng-Côn trùng Trung ương.

- Kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể Trichinella.
- Kỹ thuật Western Blot phát hiện kháng thể Trichinella.
- Kỹ thuật xét nghiệm giọt máu đàn để đếm và phân loại bạch cầu.
- Kỹ thuật tiêu cơ phát hiện ấu trùng giun xoắn ở động vật.
- Thu thập ấu trùng giun xoắn theo khóa định loại của Murrell và cs., 2000. Bảo
quản trong cồn 70oC ở nhiệt độ âm.
- Kỹ thuật PCR đa mồi định loại theo quy trình của phòng thí nghiệm tham chiếu
thế giới về bệnh giun xoắn (ISS, Rome, Ý).
- Giải trình tự gen: Tiến hành giải trình tự trên máy giải trình tự ABI 3500, so sánh
kết quả với các trình tự gen được lưu trữ trên ngân hàng genbank, xác định độ
tương đồng của các trình tự gen.
-

Tiến hành can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe.

-

Can thiệp bằng điều trị đặc hiệu albendazol 800mg/ngày x 7 ngày.

2.6. Chỉ số và biến số
-

Các biến số thu thập bằng bộ câu hỏi:
+ Tuổi: tính bằng năm và chia 4 nhóm (dưới 15; từ 15 – 59 tuổi; trên 59 tuổi).
+ Giới: nam và nữ.
+ Trình độ học vấn: mù chữ, tiểu học, THCS, THPT, trên THPT.
+ Nghề nghiệp: nông dân và khác


7

+ Thu nhập: mức thu nhập bình quân/người/tháng
+ Kiến thức về bệnh giun xoắn: mức độ hiểu biết của đối tượng nghiên cứu về
nguyên nhân gây bệnh, tác hại, đường lây truyền, biện pháp phòng chống. Đánh giá
theo mức độ.
+ Thực hành phòng chống bệnh giun xoắn, tần suất thực hành phòng chống
bệnh. Đánh giá đạt hay không đạt.
+ Thói quen ăn thịt lợn tái, sống.
+ Hình thức chế biến thức ăn thịt lợn tái sống.
-

Các biến số thu thập bằng phương pháp quan sát và đánh giá:
+ Thực trạng nguồn nước sinh hoạt
+ Tình trạng chế biến, nguồn gốc thịt.

-

Các biến số thu thập thông qua xét nghiệm
+ Tỷ lệ dương tính ELISA
+ Tỷ lệ dương tính Western Blot.
+ Kích thước các băng AND chuẩn định loại các loài giun xoắn.
+ Trật tự các axit amin trong đoạn gen thu được và giải trình tự.
+ Vị trí trên cây phả hệ.
+ Tỷ số tương đồng với loài Trichinella xác định được.

-

Tỷ lệ % dương tính giun xoắn theo ELISA, WB của từng nhóm đối tượng

-


Các chỉ số hiệu quả (CSHQ):
+ CSHQ của nhóm can thiệp= (TLtct - TLsct)/TLtct x 100%
+ CSHQ của nhóm chứng=(TLtc - TLsc)/TLtc x 100%
+ Chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp (HQCT)
= CSHQ của nhóm can thiệp - CSHQ của nhóm chứng

2.7. Phƣơng pháp xử lý số liệu
-

Kết quả nghiên cứu được trình bày theo tỷ lệ (%) của các biến số.

-

Phân tích so sánh các chỉ số thông qua p, 2.

-

Tính độ chênh OR, CI 95%

-

Kích thước các băng AND chuẩn định loại các loài giun xoắn.

-

Trật tự các axit amin trong đoạn gen thu được và giả trình từ.

-

Vị trí trên cây phả hệ.


-

Tỷ số tương đồng với loài Trichinella xác định được.


8
2.8. Sai số và biện pháp hạn chế sai số
Sai số có thể gặp trong phỏng vấn và các tha tác kỹ thuật. Để hạn chế sai số, chọn
các điều tra viên được tập huấn thành thạo, áp dụng các quy trình chuyên môn
chuẩn của các phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO.
2.9. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu đã thực hiện nghiêm túc các quy định về đạo đức của Hội đồng
đạo đức trong nghiên cứu y sinh của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung
ương.
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin đối tƣợng tham gia nghiên cứu
Tổng cộng có 4.362 người thuộc 20 xã tại 4 tỉnh miền Bắc Việt Nam đã
tham gia vào nghiên cứu. Trong đó, tỉnh Sơn La có 1.033 người, Điện Biên có
1.019 người, Yên Bái có 1.135 người, và Thanh Hóa có 1.175 người. Nhóm tuổi từ
15 - 59 tuổi có 3.789 người (86,9%). Tỷ lệ nữ tham gia cao hơn nam (66,0% vs 34,0
%). Dân tộc Thái tỷ lệ cao nhất (51,3%). Tỷ lệ đối tượng mù chữ cao nhất (37,7%)
3.1.1. Tình hình nhiễm giun xoắn trên người
Bảng 3.5. Kết quả sàng lọc người nhiễm giun xoắn bằng ELISA
Điểm nghiên cứu

Số xét

ELISA dương tính


nghiệm

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Sơn La

1.033

142

13,7

Điện Biên

1.019

135

13,2

Thanh Hóa

1.175

24

2,0


Yên Bái

1.135

0

0,0

Tổng cộng

4.362

301

6,9

Giá trị p

< 0,05

Nhận xét: Tỷ lệ người dương tính với ấu trùng giun xoắn bằng ELISA tại cộng
đồng dân cư tại 4 tỉnh là 6,9%. Tỷ lệ ELISA dương tính ở Sơn La và Điện Biên
tương đối cao 13,7% và 13,2%. Tỷ lệ ELISA dương tính ở Thanh Hóa thấp 2,0%;
Yên Bái không tìm thấy trường hợp nào hiễm Trichinella. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05.


9
Bảng 3.6. Kết quả nhiễm giun xoắn bằng Western Blot
Số xét


WB (+)

Điểm nghiên cứu

nghiệm

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Sơn La

1.033

101

9,8

Điện Biên

1.019

107

10,5

Thanh Hóa

1.175


17

1,4

Yên Bái

1.135

0

0

Tổng cộng

4.362

225

5,2

Giá trị p

< 0,05

Nhận xét: Tất cả 301 mẫu huyết thanh dương tính ELISA được xác định lại bằng
WB. Mẫu nào có hình ảnh 3 dải băng trọng lượng phân tử Protein tương đương từ
53 - 72 kDa: 53 - 55 kDa; 59 - 62 kDa; 67 - 72 kDa sẽ cho kết quả dương tính giun
xoắn. Trong số 301 trường hợp dương tính ELISA được xác định lại bằng WB có
225 người vẫn dương tính với giun xoắn. Tỷ lệ người nhiễm giun xoắn của 4 tỉnh là

5,2% (225/4.362) sau xét nghiệm ELISA và WB. Tỷ lệ nhiễm tại Điện Biên và Sơn
La tương đối cao lần lượt là 10,5% và 9,8%; tại Thanh Hóa có tỷ lệ nhiễm thấp hơn
1,4% và Yên Bái không tìm thấy trường hợp nào nhiễm Trichinella. Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Phân bố nhiễm giun xoắn theo tuổi, giới và dân tộc
- Nam nhiễm giun xoắn thấp hơn giới nữ (3,8% vs 5,9%, p<0,05).
- Nhiễm giun xoắn ở nhóm tuổi 16-59 thấp nhất (4,8%), tiếp là 60-92 tuổi (7,6%),
và 6-15 tuổi nhiễm cao nhất (7,8%) (p>0,05).
- Dân tộc Hmông có tỷ lệ nhiễm giun xoắn cao nhất là 6 %, tiếp là Thái 5,1%, Kinh
2,4% và thấp nhất là dân tộc Mường 1,5% (p>0,05).
Bảng 3.11. Phân bố tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan ở nhóm nhiễm giun xoắn tại bốn tỉnh
nghiên cứu
Nhiễm giun
xoắn

Không
Tổng

Bạch cầu ái toan
Tăng

Bình thường

66

159

(25,9%)

(3,9%)


189

3948

(74,1%)

(96,1%)

255

4107

Tổng
225
4.137

OR
(CI 95%)
87
(6,28-11,96)

Giá trị p

<0,05

4.362

Nhận xét: Tỷ lệ người nhiễm giun xoắn có tăng BCAT là 25,9% và người nhiễm



10
giun xoắn nhưng BCAT bình thường là 3,9%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p <0,05.
3.1.2. Nhiễm giun xoắn ở động vật:
3.1.3.1 Nhiễm giun xoắn ở lợn:
Bảng 3.13-14. Tỷ lệ lợn nhiễm giun xoắn bằng kỹ thuật ELASA và WB tại điểm
nghiên cứu
Điểm nghiên cứu

Số XN

ELISA

Western Blot

(con)

Số +

Tỷ lệ %

Số +

Tỷ lệ %

Sơn La

215


5

2,33

1

0,47

Điện Biên

215

1

0,8

0

0

Thanh Hóa

215

2

0,9

0


0

Yên Bái

215

2

0,9

0

0

Tổng cộng

860

10

1,16

01

0,12

Nhận xét: Tổng số 860 mẫu huyết thanh lợn thu thập tại 20 xã nghiên cứu, có 10
mẫu ELISA dương tính với kháng thể giun xoắn chiếm 1,16%. Tỷ lệ ELISA dương
tính ở lợn tại Sơn La cao nhất với 2,33%.
Thẩm định bằng kỹ thuật Western Blot chỉ có 01/10 mẫu dương tính tại xã Phiên

Ban huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La chiếm tỷ lệ 0,12%.
3.1.3.2 Nhiễm giun xoắn ở chuột
Tổng số 860 chuột bắt được bằng bẫy và mổ quan sát các cơ của chuột. Sau khi
tiến hành lấy mẫu thịt chuột tại các địa điểm nghiên cứu và được tiêu cơ để thu hồi
ấu trùng giun xoắn. Tuy nhiên do một số chuột bé không đủ trọng lượng để làm xét
nghiệm chúng tôi tiến hành gộp mẫu xét nghiệm. Có 510 mẫu thịt chuột được được
tiến hành tiêu cơ để kiểm tra ấu trùng giun xoắn, kết quả được thể hiện bảng sau:
Bảng 3.15. Kết quả xác định ấu trùng giun xoắn ở chuột bằng hình thể
Số thu bắt

Số mẫu làm

(con)

tiêu cơ

Sơn La

215

200

1

0,5

Điện Biên

215


100

0

0,0

Thanh Hóa

215

100

0

0,0

Yên Bái

215

110

0

0,0

Tổng cộng

860


510

1

0,2

Địa điểm NC

Số + (con)

Tỷ lệ
(%)

Nhận xét: Tổng số 510 mẫu thịt chuột chỉ có 01 mẫu chuột bắt tại cánh đồng xã
Làng Chếu huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La thu được ấu trùng giun xoắn chiếm tỷ lệ


11
0,2%.
3.1.4. Kết quả xác định loài giun xoắn
3.1.4.1. Kết quả định loại hình thể ấu trung giun xoắn thu được
Kết quả soi kính hiển vi trên tiêu bản tiêu cơ chuột phát hiện các ấu trùng có hình
xoắn 2,5 vòng cuộn tròn sau phẫu tích có kích thước chiều dài khoảng 1,00 mm +
0,35 mm chiều dài, chiều rộng 0,03 + 0,005 mm, có hình xoắn 2,5 vòng.
3.1.4.2. Kết quả phân tích mẫu bằng kỹ thuật PCR

Hình 3.10. Kết quả PCR xác định Trichinella spiralis gen đích EVS
M: Thang chuẩn ADN 100 bp. Giếng 1: Mẫu SL53 - dương tính với Trichinella
spiralis; Giếng 2: Mẫu YB48 – âm tính; Giếng 3: Chứng dương Trichinella spiralis
– ngân hàng mẫu ITM


Hình 3.11. Kết quả PCR xác định giống Trichinella gen đích COI
M: Thang chuẩn ADN 100 bp. Giếng 1: Mẫu SL53 - dương tính với giống
Trichinella. Giếng 2: Mẫu YB48 – âm tính. Giếng 3: Chứng dương Trichinella
spiralis – ngân hàng mẫu ITM
Nhận xét: Sau khi phân tích bằng kỹ thuật multiplex PCR xác định có 01 mẫu có


12
kích thước 173 bp được xác định có khả năng nhiễm T. spiralis. Khuếch đại ADN
gen đích COI của mẫu này thu được sản phẩm PCRcó kích thước 419 bp – băng
chuẩn của giống Trichinella và mẫu này đã được giải trình tự lặp lại 2 lần trên cả
hai mạch xuôi và ngược được đoạn gen dài 398 nucleotid , kết quả so sánh với
ngân hàng gen thấy có độ tương đồng từ 94-99% với các mẫu đã được lưu trữ trên
ngân hàng genbank là loài Trichinella spiralis.

Hình 3.14. Cây chủng loại phát sinh của giống Trichinella dựa trên trình tự gen COI
– sử dụng phần mềm MEGA 71
Sử dụng trình tự COI để xây dựng cây chủng loại phát sinh với các loài giun xoắn
khác đã được công bố trên ngân hàng gen. Trình tự gen của mẫu phân tích có độ
tương đồng 100% với trình tự của Trichinella spiralis được thu thập tại Trung Quốc
và có sự khác biệt với các loài Trichinella khác.
3.2. Kết quả nghiên cứu yếu tố liên quan đến nhiễm giun xoắn ở ngƣời tại điểm
nghiên cứu:
3.2.1. Mối liên quan giữa người sống tại các xã đã từng có dịch giun xoắn và
người sống ở xã khác với nhiễm giun xoắn
Bảng 3.16. Liên quan giữa người sống ở xã đã có dịch và xã không có dịch với
nhiễm giun xoắn
Sống ở xã


Nhiễm giun xoắn

Tổng

(+)

(-)

Có dịch

51

880

931

Không dịch

174

3.257

3.431

Tổng

225

4.137


4.362

OR

Giá trị

(CI 95%)

p

1,08
(0,79 -1,49)

>0,05

Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối liên quan giữa người sống ở


13
xã đã từng có dịch giun xoắn và sống ở xã không có dịch với nhiễm ấu trùng giun
xoắn (OR = 1,08; CI 95%: 0,79-1,49; p > 0,05).
3.2.2. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành nhiễm giun xoắn
Bảng 3.18. Liên quan giữa kiến thức về bệnh giun xoắn của ĐTNC với nhiễm giun
xoắn
Nhiễm

Kiến thức

(+)


(-)

212

3.436

Biết về bệnh

Không

giun xoắn*



13

Không

Tổng

OR

Giá trị

(CI 95%)

p

3.648


3,33

701

714

(1,89-5,86)

214

3.463

3.677

3,8



11

674

685

(2,05-6,98)

Biết cách phòng

Không


217

3.459

3.706

5,0

bệnh



8

638

646

(2,46-0,18)

Biết tác hại bệnh

<0,05
<0,05
<0,05

*Biết tác hại của bệnh hoặc biết cách phòng chống bệnh
Nhận xét: Có mối liên quan giữa hiểu biết của người dân với nhiễm giun xoắn,
những người không biết về bệnh giun xoắn nguy có nhiễm bệnh cao gấp 3,33 lần
những người biết về bệnh với p < 0,05; những người không biết tác hại của bệnh

nguy có mắc bệnh cao gấp 3,8 lần những người biết tác hại của bệnh với p < 0,05;
những người không biết cách phòng bệnh nguy cơ mắc bệnh cao gấp 5,0 lần những
người biết biểu hiện của bệnh với p < 0,05.
3.2.3. Mối liên quan giữa thực hành phòng chống bệnh giun xoắn với nhiễm
giun xoắn
Bảng 3.19. Liên quan giữa ăn thịt thú rừng với nhiễm giun xoắn
Nguồn gốc thịt

Nhiễm giun xoắn
(+)

(-)

Tổng

OR
(CI 95%)

Ăn thịt



86

666

752

3,3


thú rừng

Không

139

3.471

3.610

(2,48-4,37)

Lợn rừng

28

101

129

Chuột rừng

21

297

318

Khác*


37

268

305

Loại thịt
thú rừng

3,4
(1,88-6,13)

Giá trị p
<0,05

<0,05

*: Cầy, cáo, chim.
Nhận xét: Có mối liên quan giữa những người ăn thịt thú rừng với nhiễm giun xoắn
(p<0,05). Có mối liên quan giữa việc ăn các loại thịt thú rừng với nhiễm giun xoắn
(p<0,05).


14
Bảng 3.20. Liên quan giữa ăn thịt lợn sống với nhiễm giun xoắn
Nhiễm giun xoắn

Thịt lợn sống

(+)


(-)

53

345

Ăn thịt lợn



sống

Không

172

Món ăn từ thịt

Lạp

lợn sống

Khác*

Tổng

OR

Giá trị


(CI 95%)

p

398

3,4

3.793

3965

(2,44-4,7)

45

132

177

9,1

8

213

221

(4,15-19,86)


<0,05
<0,05

* Tiết canh, gỏi.
Nhận xét: Có mối liên quan giữa ăn thịt lợn sống với nhiễm giun xoắn. (p<0,05).
Nguồn gốc thịt lợn cũng liên quan đến nhiễm giun xoắn. (p<0,05). Có mối liên
quan giữa cách chế biến thịt lợn sống hình thức lạp (25,4%) và khác (3,6%) với
nhiễm giun xoắn với OR 9,1, p < 0,05.
Bảng 3.21. Liên quan giữa ăn thịt lợn tái với nhiễm giun xoắn
Nhiễm giun xoắn

Thịt lợn tái

(+)


Ăn thịt lợn tái

Món ăn từ
thịt lợn tái

Không
Nem,
chạo
Khác*

(-)

43


366

182

3.771

20

145

23

221

Tổng

OR

Giá trị

(CI 95%)

p

409

2,4

3953


(1,72-3,45)

165

1,33

244

(0,70-2,50)

< 0,05

> 0,05

*: Xào tái, nhúng tái.
Nhận xét: Có mối liên quan giữa ăn thịt lợn tái với nhiễm giun xoắn. Những người
ăn thịt lợn tái nguy cơ nhiễm giun xoắn cao gấp 2,4 lần với người không ăn (p <
0,05). Cách chế biến thịt lợn tái với hình thức nem, chạo và các hình thức chế biến
lợn tái khác không thấy có mối liên quan với nhiễm giun xoắn (p > 0,05).
3.3. Kết quả can thiệp phòng chống giun xoắn tại cộng đồng
3.3.1. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trước can thiệp và sau can thiệp
Tại tỉnh Sơn La tỷ lệ nhiễm giun xoắn sau can thiệp giảm so với trước can thiệp
(7,2% so với 9,8%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tại tỉnh
Điện Biên tỷ lệ nhiễm giun xoắn sau can thiệp giảm so với trước can thiệp (8,5% so
với 10,5%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
3.3.2. Kết quả sau can thiệp


15

Bảng 3.29. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trước và sau can thiệp
Địa điểm NC

Trước can thiệp

Sau can thiệp

CSHQ

HQCT

(n=2.052)

(n=2.090)

(%)

(%)

Số lượng

TL%

Số lượng

TL%

Can thiệp

101/1.033


9,8

75/1.030

7,2

26,53

Đối chứng

107/1.019

10,5

90/1060

8,5

19,04

7,5

Nhận xét: Sau can thiệp điều trị và truyền thông tại tỉnh can thiệp-Sơn La và sau
can thiệp điều trị tại tỉnh đối chứng -Điện Biên, tỷ lệ nhiễm giun xoắn đạt hiệu quả
can thiệp 7,5%.
Bảng 3.30. Hiểu biết về bệnh, tác hại của bệnh và cách phòng chống bệnh giun
xoắn của các đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp
Can thiệp


Biến số
Số điều tra


Biết về
bệnh

Không



hại của
bệnh

Không

SCT

TCT

SCT

1.033

1.038

1.019

1.060


166

630

168

321

(16,1%)

(60,7%)

(16,5%)

(30,3%)

867

408

851

739

(83,9%)

(39,3%)

(83,5%)


(69,7%)

277,0



phòng
bệnh

Không

CSHQ (%)

598

151

278

(14,0%)

(57,6%)

(14,8%)

(26,2%)

888

440


868

782

(86,0%)

(42,4%)

(85,2%)

(73,8%)

311,4

193,4

234,4

77,0

155

612

146

216

(15,0%)


(58,9%)

(14,3%)

(20,4%)

878

426

873

844

(85,0%)

(41,1%)

(85,7%)

(79,6%)

292,7

(%)

83,6

145


CSHQ (%)
Biết cách

HQCT

TCT

CSHQ (%)
Biết tác

Đối chứng

250,0

42,7

Nhận xét: Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về bệnh giun xoắn đạt tới
mức 193,4% với p<0,05. Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về tác hại bệnh
giun xoắn đạt mức 234,4% với p<0,05. Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về


16
cách phòng chống bệnh giun xoắn đạt mức 250,0% với p<0,05.
Bảng 3.31. Thói quen ăn thịt tái/sống của ĐTNC trước và sau can thiệp
Can thiệp

Biến số
Số điều tra
Ăn thịt lợn

tái/sống


Không

SCT

TCT

SCT

1.033

1.038

1.019

1.060

197

60

185

146

(19,1%)

(5,8%)


(18,2%)

(13,8%)

836

978

834

914

(80,9%)

(94,2%)

(81,8%)

(87,2%)

69,63



lợn tái

Không

52


103

82

(10,65%)

(5,01%)

(10,11%)

(7,74%)

923

1.006

916

1.018

52,96


lợn sống

Không
CSHQ (%)

(%)


45,5

24,18

110

CSHQ (%)
Ăn thịt

HQCT

TCT

CSHQ (%)
Ăn thịt

Đối chứng

29,5

23,44

135

25

125

116


(13,06%)

(2,41%)

(12,27%)

(10,94%)

898

1003

894

973

81,55

70,7

10,84

Nhận xét: Tỷ lệ người dân còn ăn thịt lợn tái/sống giảm từ 19,1% xuống còn 5,8%
sau can thiệp có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Thói quen ăn thịt lợn tái/sống, hiệu
quả can thiệp đạt mức 45,5% với p<0,05.
Bảng 3.32. Hình thức nuôi lợn trước và sau can thiệp
Can thiệp
Biến số


Nuôi
lợn thả
rông

Không


CSHQ (%)

Đối chứng

TCT

SCT

TCT

SCT

(n=752 )

(n=702)

(n =733)

(n=742)

219

277


173

199

(29,1%)

(39,5%)

(23,6%)

(26,8%)

533

425

560

543

(70,9%)

(60,5%)

(76,4%)

(73,2%)

35,7


HQCT
(%)

22,1

13,6

Nhận xét: Tại điểm can thiệp, tỷ lệ người dân nuôi lợn thả rông giảm từ 70,9%
trước can thiệp xuống còn 60,5% sau can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p < 0,05. Hiệu quả can thiệp đạt 22,2% với p<0,05.


17
Chƣơng 4: BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá nhỏ và một số yếu tố liên quan
4.1 Thực trạng nhiễm giun xoắn trên ngƣời và động vật tại các điểm nghiên cứu.
4.1.1. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở người tại các điểm nghiên cứu:
Nghiên cứu được triển khai tại cộng đồng 20 xã thuộc 4 huyện của 4 tỉnh miền
núi phía Bắc (Huyện Mù Căng Chải tỉnh Yên Bái, huyện Tuần Giáo tỉnh Điện Biên,
huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La và huyện Mường Lát tỉnh Thanh Hóa), trong đó có 4 xã
trước đây đã có dịch giun xoắn, và 16 xã có địa giới chung với nơi đã có dịch.
Nghiên cứu đã áp dụng kỹ thuật ELISA và Western Blot. Kỹ thuật ELISA phát hiện
kháng thể giun xoắn có độ nhạy cao sau tuần thứ 2 - 3 bị nhiễm ký sinh trùng.
Kháng thể kháng giun xoắn có thể tồn tại vài năm sau khi nhiễm. Nồng độ kháng
thể trong huyết thanh không tương quan với độ nặng của bệnh hoặc quá trình diễn
tiến lâm sàng. Kỹ thuật WesternBlot với độ nhạy và độ đặc hiệu là 100% giúp xã
định lại những trường hợp dương tính với ELISA. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
trên tổng số 4.362 người được xét nghiệm ở các điểm nghiên cứu đã phát hiện được
225 người đã nhiễm giun xoắn, có kết quả xét nghiệm dương tính chiếm tỷ lệ 5,2%.

Nghiên cứu có sự tham gia của 69 bệnh nhân cũ đã từng mắc bệnh giun xoắn trước
đây ở các vụ dịch. Trong đó tỷ lệ người đã nhiễm giun xoắn ở huyện Tuần Giáo tỉnh
Điện Biên tương đối cao 10,5%, tiếp đến là huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La 9,8% và
huyện Mường Lát tỉnh Thanh Hóa là 1,4%. Tỷ lệ người có kết quả xét nghiệm ELISA
dương tính tại Mường Lát tỉnh Thanh Hóa trong nghiên cứu này thấp hơn so với kết
quả xét nghiệm ELISA năm 2013 ngay sau thời điểm có dịch giun xoắn ở Mường Lát
tỉnh Thanh hóa cho kết quả dương tính 7,4% (18/242 người xét nghiệm).
4.1.2. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở động vật tại các điểm nghiên cứu:
Trong tổng số 860 mẫu huyết thanh lợn thu thấp tại 20 xã tại của 4 huyện
thuộc 4 tỉnh, chỉ có 10 mẫu cho kết quả dương tính với kháng thể giun xoắn chiếm
1,16% bằng kỹ thuật ELISA, nhưng khi thẩm định lại bằng kỹ thuật Western Blot
chỉ có 01 mẫu dương tính, chiếm tỷ lệ 0,12%. Điều này có thể được giải thích thực
tế qua hàng loạt các chương tình điều tra của tác giả Vũ Thị Nga từ giai đoạn 2010 2014 thì số lượng lợn dương tính đã giảm. Hơn nữa, do một số ổ dịch trên người
vào các năm 2008, 2010 và 2012 đã được các ngành chức năng như thú y và y tế
truyền thông vào tận các hộ chăn nuôi về thói quen ăn thịt sống hoặc tái, vệ sinh


18
chăn nuôi. Tuy nhiên cho đến nay, hầu hết các huyện điều tra chưa có cơ sở giết mổ
tập trung, người dân vẫn giết mổ tại nhà và chưa thực hiện các biện pháp vệ sinh
giết mổ theo quy định thú y. Do số lượng mẫu thu thập rất ít không đủ để phân tích
thống kê nhưng 1 trường hợp dương tính ở lợn thuộc huyện có ổ dịch cũ phản ảnh
mầm bệnh vẫn còn tồn tại ở ngoài môi trường, lợn có cơ hội tiếp xúc với thịt còn
sót lại trong quá trình giết mổ không đảm bảo vệ sính an toàn thực phẩm hay được
người dân cho ăn những miếng thịt sống hoặc nấu chưa chín có chứa ấu trùng giun
xoắn. Khi so sánh kết quả nghiên cứu này với nghiên cứu của Vũ Thị Nga (2012),
chúng tôi nhận thấy tỷ lệ lợn có tỷ lệ nhiễm thấp hơn. Kết quả của tác giả trong
nghiên cứu xác định tỷ lệ nhiễm giun xoắn là 19,9% và 5,6%. Nguyên nhân có sự
sai khác đó có thể là do cơ số mẫu nghiên cứu ít, cơ cấu chuyển đổi từ chăn nuôi
nhỏ lẻ lên chăn nuôi trang trại nhiều hơn, trình độ nhận thức của người chăn nuôi đã

tốt, hơn nữa kết quả của đề tài được tiến hành sau điều tra của tác giả Vũ Thị Nga
trên khắp hai tỉnh Điện Biên, Sơn La và một huyện của tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên
đối với tỉnh chưa điều tra là Yên Bái có thể do thực hiện trong phạm vi hẹp vì thế
mà kết quả của chúng tôi chưa phản ánh đúng thực tế tình hình dịch bệnh ở tỉnh
này.
Với 01 mẫu chuột bắt tại cánh đồng xã Làng Chếu tỉnh Sơn La thu hồi
được ấu trùng giun xoắn chiếm tỷ lệ 0,12%. Kết quả này thấp hơn nhiều điều tra
của tác giả Vũ Thị Nga (2012) trên chuột hoang dã tại hai tỉnh Sơn La là 2,8% trong
tổng số 860 con chuột và tìm thấy ở 7/20 huyện. Ở Trung Quốc, tỷ lệ hiện nhiễm T.
spiralis ở chuột dao động từ 1,98% đến 15,06%. Số lượng chuột dương tính đã
giảm trong nghiên cứu này đã giảm có thể được giải thích do người dân đã thực
hiện biện pháp diệt chuột trong chương trình phòng chống dịch bệnh giun xoắn của
Chi cục Thú y Sơn La, Điện Biên phát động sau ổ dịch giun xoắn xảy ra trên địa
bàn tỉnh. Kết quả chuột dương tính tại Sơn La cũng liên quan mật thiết trường hợp
dương tính trên lợn tại đúng địa điểm ổ dịch. Như vậy, công tác phòng chống dịch
bệnh giun xoắn tại những ổ dịch cũ nên được làm thường xuyên, tránh những ổ dịch
mới tái phát khi mầm bệnh vẫn tồn tại trong môi trường. Chuột là loài vật lưu trữ
mầm bệnh quan trọng trong chu trình lây truyền bệnh giun xoắn. Kể từ báo cáo đầu
tiên năm 1923 về giun xoắn trên lợn ở Hà Nội có rất ít thông tin được báo cáo ở Việt
Nam về tầm quan trọng của bệnh này và những loài động vật khác có thể gây bệnh


19
cho người Việc xác định nhiễm giun xoắn ở động vật động vật nuôi như lợn, chó và
động vật hoang dã (lợn rừng, chuột rừng) đã kết luận rằng ký sinh trùng này là loài
đặc hữu ở miền Bắc Việt Nam. Các nhóm dân cư bị ảnh hưởng bởi sự bùng phát
bệnh này chủ yếu bao gồm các dân tộc thiểu số. Hơn nữa, vệ sinh chăn nuôi không
đủ và tự do di chuyển động vật vẫn thường được thực hiện trong dân cư nông thôn
của các tỉnh này. Ngoài ra còn thiếu các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ở các tỉnh phía
Bắc của Việt Nam.Vì vậy, thói quen ăn thịt sống hoặc chưa nấu chín dẫn đến nguy

cơ mắc giun xoắn.
4.1.3. Định loại loài giun xoắn
4.1.3.1. Hình thái học:
Cho đến năm 1972, giống Trichinella được coi chỉ có 1 loài duy nhất là
Trichinella spiralis, và vì là loài duy nhất nên tất cả các nghiên cứu đều được tiến
hành trên loài này. Từ những năm 1990 đến nay đã có tám loài được định danh và
bốn kiểu gen chưa được xác định đến loài. Giun xoắn đực dài khoảng 1,4 - 1,6 mm,
ở cuối đuôi có một đôi núm gai, không có gai giao hợp. Giun xoắn cái dài khoảng 3
- 4 mm, bộ phận sinh dục ở đoạn giữa thực quản, hậu môn ở phía đuôi Hậu môn ở
phía đuôi. Giun cái đẻ ra ấu trùng. Một giun cái đẻ trứng được từ 1000 đến 10000
ấu trùng.
4.1.3.2. Sinh học phân tử:
Kết quả của đề tài, ấu trùng giun xoắn thu hồi được từ phương pháp tiêu cơ thịt
chuột. Định loài bằng phương pháp multiplex PCR với cặp mồi đặc hiệu để xác
định sự hiện diện của loài giun xoắn. Đây là phương pháp ưu việt nhất về độ nhạy
và độ đặc hiệu của nó. Sau khi phân tích mẫu bằng kỹ thuật PCR đa mồi, nhận thấy
có 01 mẫu dương tính cho băng có kích thước 419 bp – băng chuẩn của giống
Trichinella. Kết quả multiplex PCR cho thấy mẫu ấu trùng giun xoắn thu hồi trên
chuột là loài duy nhất T. spiralis. Chúng tôi so sánh nghiên cứu này đồng nhất với
kết quả xác định loài của tác giả Vũ Thị Nga (2012, 2014) và cũng là loài phân lập
ở trên người của tác giả Nguyễn Văn Đề (2010). Kết quả này cho thấy cho đến nay,
chỉ duy nhất loài T. spiralis phân lập được tại Việt Nam cũng như một số nước có
đường biên giới với Việt Nam như Lào, Trung Quốc.. Kết quả giải trình tự so sánh
với ngân hàng gen thấy có độ tương đồng từ 94-99% với các mẫu đã được lưu trữ
trên ngân hàng gen, chứng tỏ đây đúng là loài Trichinella spiralis.


20
4.2. Kết quả điều tra KAP và một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun xoắn tại
các điểm nghiên cứu

Các yếu tố nguy cơ có liên quan đến đặc điểm hành vi cá nhân bao gồm
yếu tố quyết định: tiêu thụ lợn nhà giết mổ, tiêu thụ lợn giống bản địa, tiêu thụ động
vật hoang dã, tiêu thụ thịt lợn sống, tiêu thụ thịt lợn rừng sống, tiêu thụ thịt sống từ
động vật hoang dã. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiêu thụ thịt sống là yếu tố căn
bản có nguy cơ mắc bệnh giun xoắn. Trên thực tế, nguy cơ mắc giun xoắn chủ yếu
chịu ảnh hưởng của việc ăn thịt và sản phẩm thịt sống. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, tỷ lệ có ăn thịt thú rừng là 17,3% số đối tượng nghiên cứu. Đặc biệt có tới
9,2% số người được hỏi trả lời ăn thịt lợn sống, 9,4% ăn thịt tái. Nguy cơ mắc bệnh
giun xoắn liên quan đến các loại thịt là do ăn sống, hơn tỉ lệ nhiễm nhiễm bệnh giun
xoắn trong thịt thể hiện những thói quen ăn thịt của người Inuit (người bản xứ sống
ở miền bắc Canada). Người Inuit thường ăn thịt hải mã sống nhưng thông thường
nấu thịt gấu. Do đó nạn dịch giun xoắn trong số những người Inuit là do thịt hải mã
bất kể thực tế là tỉ lệ lây nhiễm giun xoắn ở hải mã (2-4%) là thấp hơn so với ở gấu
(60%). Giun xoắn ở động vật có vú ăn cỏ là rất hiếm. Tuy nhiên lây nhiễm giun
xoắn tự nhiên ở gia súc và cừu được báo cáo ở Trung Quốc và nạn dịch giun xoắn
ở người được cho là do thịt cừu. Ở Thái Lan, không có bằng chứng cho thấy nhiễm
trùng giun xoắn ở động vật ăn cỏ trong nước. Trong các ca nhiễm bệnh giun xoắn,
người bệnh vẫn tiếp tục thói quen uống rượu với thịt lợn tươi kể cả khi đã có kinh
nghiệm trong việc bị nhiễm bệnh. Cuối cùng, các dân tộc này tin rằng việc ăn đồ ăn
tươi sống với một lượng nhỏ và chỉ ăn trong những dịp đặc biệt thì có thể chấp nhận
được. Quan điểm này đã được thể hiện trong thói quen ăn thịt sống hiện nay của các
dân tộc được cung cấp trong nghiên cứu trước đây. Niềm tin về việc ăn thực phẩm
tươi sống với một lượng rất nhỏ và không thường xuyên có thể chấp nhận được gợi
đến khuynh hướng lạc quan; khuynh hướng này xảy ra khi người ta tin rằng họ ít có
nguy cơ bị nguy hiểm hơn người khác, sự khác nhau trong nhận thức sự nguy hiểm
giữa người có và không có kinh nghiệm bị ngộ độc thức ăn. Họ chứng minh rằng có
khuynh hướng lạc quan rất lớn với những người nhận thức được sự nguy hiểm có
liên quan đến ngộ độc thực phẩm, đặc biệt là những người chưa từng có những trải
nghiệm khó khăn liên quan đến nguy hiểm. Các dân tộc trong nghiên cứu này được



21
đề cập trước là chưa từng thấy dịch bệnh giun xoắn bùng phát và trước đó một vài
người vẫn còn duy trì những nhận thức sai lệch.
4.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp phòng chống giun xoắn cộng đồng bằng
truyền thông giáo dục sức khỏe:
Tại tất cả các xã của bốn tỉnh ngay sau điều tra ngang đợt 1 (trước can thiệp) các
trường hợp nhiễm giun xoắn dương tính đều được điều trị thuốc đặc hiệu albendazol
liều 800mg/ngày x 7 ngày liên tiếp. Trong thời gian điều trị thuốc đặc hiệu, các đối
tượng được các bộ y tế xã theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc. Các thông
điệp truyền thông giáo dục sức khỏe chính bao gồm: mô tả về bệnh giun xoắn, tác
hại và sự nguy hiểm của bệnh giun xoắn ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng
người bệnh; đường lây truyền bệnh giun xoắn và các biện pháp phòng, chống bệnh
giun xoắn. Tại tỉnh Sơn La và Điện Biên sau can thiệp tỷ lệ nhiễm giun xoắn
giảm thấp (7,2% vs 9,8% và 8,5% vs 10,5%). Sau can thiệp điều trị và truyền thông
giáo dục sức khỏe tại tỉnh Sơn La ( địa điểm can thiệp) và sau can thiệp điều trị tại tỉnh
Điện Biên ( địa điểm đối chứng) ta thấy chỉ số hiệu quả ở địa điểm can thiệp là 26,53%
và chỉ số hiệu quả tại địa điểm đối chứng là 19,04%. Và hiệu quả can thiệp đạt là 7,47%
với p <0,05. Như vậy sau can thiệp bằng truyền thông giáo dục cộng đồng, tỷ lệ nhiễm
giun xoắn đã giảm với hiệu quả can thiệp là 7,47% có ý nghĩa thống kê.
Về hiểu biết bệnh giun xoắn của người dân: Tỷ lệ người dân có hiểu biết về bệnh
giun xoắn ở nhốm can thiệp tăng từ 16,1% lên 60,7% sau can thiệp, chỉ số hiệu quả
là 277,0% với p<0,001. Trong khi nhóm chứng, tỷ lệ người tăng ít hơn từ 16,5% lên
30,3%, chỉ số hiệu quả là 83,6%, p<0,001. Hiệu quả can thiệp giúp người dân có
hiểu biết về bệnh giun xoắn đạt tới mức 193,4% với p<0,05. Hiệu quả can thiệp
giúp người dân có hiểu biết về tác hại bệnh giun xoắn đạt mức 234,4% với p<0,05.
Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về cách phòng chống bệnh giun
xoắn đạt mức 250% với p<0,05.
Về thói quen ăn thịt lợn tái/sống: Nhóm can thiệp, tỷ lệ người dân còn ăn thịt lợn
tái/sống giảm từ 19,1% xuống còn 5,8% sau can thiệp có ý nghĩa thống kê với p <

0,05. Nhóm chứng tỷ lệ người dân còn ăn thịt lợn tái/sống cũng giảm thấp từ 18,2%
xuống còn 13,8% nhưng không có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Với hành vi ăn thịt
lợn tái, sống, hiệu quả can thiệp đạt mức 45,5% với p<0,05.


22
Về tập quán nuôi lợn thả rông: Tại huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La, tỷ lệ người dân
nuôi lợn thả rông giảm từ 70,9% trước can thiệp xuống còn 60,5% sau can thiệp, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ người dân nuôi lợn thả rông ở
huyện đối chứng Tuần Giáo tỉnh Điện Biên cũng giảm từ 76,4% xuống còn 73,2%
nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05. Với hành vi nuôi lợn thả
rông, hiệu quả can thiệp đạt mức 22,2% với p<0,05. Tại tỉnh Sơn La sau can thiệp
tỷ lệ nhiễm giun xoắn (7,2%) giảm so với trước can thiệp (9,8%), sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,05. Tại Điện Biên và Thanh Hóa, sau can thiệp tỷ lệ nhiễm
giun xoắn giảm so với trước can thiệp, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p
> 0,05. Tại Yên Bái, cả hai đợt điều tra tỷ lệ nhiễm đều bằng 0. Như vậy, sau can
thiệp điều trị và truyền thông giáo dục sức khỏe tại tỉnh Sơn La và sau can thiệp điều trị tại
tỉnh Điện Biên (địa điểm đối chứng) ta thấy hiệu quả can thiệp là 7,47%.
Chỉ số hiệu quả của tỉnh Sơn La là 26,53%, của tỉnh Điện Biên là 19,04%.
Hiệu quả can thiệp giữa hai tỉnh là 7,48% với p<0,05. Điều này cho thấy sau can
thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe tại cộng đồng, tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở tình
Sơn La giảm so với trước can thiệp. Ở tỉnh Sơn La không có trường hợp nhiễm
mới, các trường hợp nhiễm giun xoắn, kháng thể giun xoắn kéo dài hơn 1 năm còn
ấu trùng giun xoắn tồn tại khoảng 40 năm. Vì thế chúng ta thấy khi điều tra lại sau
can thiệp truyền thông, nhiều trường hợp kháng thể giun xoắn còn tồn tại, mặc dù
người dân đã có ý thức hơn về phòng chống giun xoắn, hiểu biết về bệnh giun xoắn
nhiều hơn mà chúng tôi đã phân tích ở phần trên, và vì thế ở tỉnh Sơn La không
phát hiện trường hợp nhiễm mới nào.



23
KẾT LUẬN
1. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên ngƣời và động vật tại 4 tỉnh Yên Bái,
Sơn La, Điện Biên và Thanh Hóa, năm 2015
1.1. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên người:
- Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trên người tương đối thấp 5,2%, trong đó:
- Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trên người ở Điện Biên là 10,5 (1,8% - 31,5%). Tỷ
lệ nhiễm giun xoắn ở Sơn La là 9,8% (0,9%-37,4%). Tại Thanh Hóa tỷ lệ nhiễm là
1,4% (1,2% đến 1,8%). Không phát hiện được trường hợp nào nhiễm giun xoắn tại
tỉnh Yên Bái.
- Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở nữ 5,9% cao hơn nam nhiễm 3,8%. Tỷ lệ tăng
bạch cầu ái toan ở nhóm người bị nhiễm giun xoắn cao hơn ở nhóm người nhiễm
giun xoắn mà không tăng bạch cầu ái toan (25,9% và 3,9%).
1.2. Thực trạng nhiễm giun xoắn ở động vật:
- Nhiễm giun xoắn ở lợn nuôi rất thấp, tỷ lệ nhiễm chung ở lợn là 0,12%
(1/860 lợn). Chỉ phát hiện được một con lợn nhiễm ấu trùng giun xoắn tại Sơn La
(0,47%)
- Nhiễm ấu trùng giun xoắn ở chuột rất thấp, tỷ lệ nhiễm chung ở chuột là
0,12% (1/860 chuột). Chỉ phát hiện được 1 con chuột tại Sơn La mang ấu trùng
giun xoắn (0,47%).
1.3. oài giun xoắn: Loài giun xoắn ở chuột tại tỉnh Sơn La được xác định
bằng kỹ thuật sinh học phân tử và thẩm định, giải trình tự gen là loài Trichinella
spiralis.
2.

Một số yếu tố liên quan tới tình trạng nhiễm giun xoắn ở ngƣời

- Người ăn thịt thú rừng có nguy cơ nhiễm ấu trùng giun xoắn cao gấp 3,3
lần so với người không ăn thịt thú rừng.
- Người ăn thịt lợn sống, tái có nguy cơ nhiễm ấu trùng giun xoắn cao gấp

3,4 lần và 2,4 lần so với người không ăn thịt lợn sống, tái. Có mối liên quan với
cách chế biến thịt lợn sống, ăn món lạp có nguy cơ với nhiễm giun xoắn cao gấp
9,1 lần so với các món khác.
- Người không biết về bệnh giun xoắn, không biết tác hại của bệnh và không
biết cách phòng chống bệnh giun xoắn có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn người biết
tương ứng là 3,33 lần, 3,8 lần và 5,0 lần.


24
- Những người ở gia đình có lợn nuôi thả rông có nguy cơ nhiễm giun xoắn
cao gấp 2,7 lần gia đình có lợn nuôi nhốt. Những người ở gia đình có nuôi lợn trên
1 năm tuổi cũng có nguy cơ nhiễm giun xoắn cao hơn 1,2 lần so với gia đình có lợn
nuôi dưới 1 năm.
3. Hiệu quả can thiệp cộng đồng bằng truyền thông giáo dục sức khỏe
phòng chống bệnh giun xoắn
- Tỷ lệ người nhiễm giun xoắn sau can thiệp giảm 20% so với trước can thiệp
(180 người/ 225 người).
- Hiểu biết về bệnh giun xoắn tăng từ 16,1% lên 60,7% ở nhóm can thiệp so
với nhóm chứng tăng từ 16,5% lên 30,3%. Hiệu quả can thiệp là 193,4%.
- Thói quen ăn thịt lợn tái, sống giảm ở tỉnh can thiệp từ 19,1% xuống còn
5,8% so với nhóm chứng giảm từ 18,2% xuống 13,8%; hiệu quả can thiệp 45,5%.
- Tình trạng nuôi lợn thả rông giảm ở tỉnh can thiệp từ 70,9% xuống còn
60,5% so với nhóm chứng giảm từ 76,4% xuống 73,2% với hiệu quả can thiệp là
22,1%.
KIẾN NGHỊ
1. Cần tăng cường và duy trì truyền thông cho người dân tại các vùng nguy
cơ về bệnh giun xoắn và phòng chống giun xoắn cho cả người và vật nuôi: Không
ăn tiết canh và thịt tái, sống; không nuôi lợn thả rông. Khi phát hiện vật nuôi nhiễm
bệnh thực hiện tiêu huỷ theo đúng quy định hiện hành của Nhà nước.
2. Sử dụng kỹ thuật miễn dịch như ELISA phát hiện kháng thể hoặc kháng

nguyên ấu trùng giun xoắn trong máu cho cộng đồng và người nghi ngờ nhiễm
bệnh và xác định lại ca bệnh bằng kỹ thuật Western Blot có thể loại bớt được
nhược điểm của ELISA, tăng tính đặc hiệu cho chẩn đoán phát hiện giun xoắn ở
giai đoạn trong máu.



×