HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN QUANG
TÝNH CHÝNH §¸NG CñA
§¶NG CéNG S¶N CÇM QUYÒN ë VIÖT
NAM
Chuyên nganh
̀ : Chính trị học
Ma sô
̃ ́
: 62 31 20 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS NGÔ HUY ĐỨC
2. TS TRỊNH THỊ XUYẾN
HÀ NỘI 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu sử dụng trong luận
án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng; những kết luận
đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Văn Quang
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
.................................................................................................................
1
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
................
8
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
..............................
8
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
...........................
13
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
....................................
30
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH CHÍNH ĐÁNG CHÍNH TRỊ, TÍNH
CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN
..............
33
2.1. LÝ LUẬN VỀ TÍNH CHÍNH ĐÁNG CHÍNH TRỊ
.......................................
33
2.2. KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM CẦM QUYỀN
...........................................................................
71
Chương 3
PHÂN TÍCH TÍNH CHÍNH ĐÁNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM
...................................
79
3.1. PHÂN TÍCH TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CẦM QUYỀN THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1975
..........................................
79
3.2. PHÂN TÍCH TÍNH CHÍNH ĐÁNG TRONG CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY
..........................................
88
3.3. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA MỘT SỐ ĐẢNG
TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG BÀI HỌC THAM KHẢO CHO ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
............................................................................
111
Chương 4
NHỮNG HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
.................................................................................
127
4.1. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG DUY TRÌ TÍNH CHÍNH ĐÁNG TRONG
CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
........
127
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO TÍNH CHÍNH ĐÁNG
TRONG CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
144
.....................................................................................................................
KẾT LUẬN
..........................................................................................................
175
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
.....................................................................
177
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
.............................................................
178
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
ĐCS
: Đảng Cộng sản
GDP
: Tổng sản phẩm quốc nội
GNP
: Tổng sản phẩm quốc dân
PAP
: Đảng Hành động nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Về căn bản, trong mối quan hệ của quyền lực (chủ thể ra lệnh chủ thể
phục tùng), chủ thể ra lệnh bao giờ cũng muốn dùng quyền lực của mình để ép
buộc người bị cai trị phải tuân thủ, phục tùng, làm theo các mệnh lệnh của mình
một cách vô điều kiện và tất nhiên là phải đạt được hiệu quả như ý muốn.
Ngược lại, người bị cai trị luôn có cảm giác khó chịu và có xu hướng phản
kháng, bất tuân thủ. Tuy nhiên, do đòi hỏi của sản xuất, của sự trật tự xã hội, xã
hội vẫn luôn phải tồn tại các mối quan hệ quyền lực. Như Ăngghen đã từng
khẳng định: Một quyền uy và một sự phục tùng nhất định đều do những điều
kiện vật chất làm cho trở nên tất yếu đối với chúng ta. Đây chính là mâu thuẫn
lớn nhất của quyền lực. Vấn đề đặt ra là, làm sao để những mệnh lệnh của chủ
thể quyền lực đưa ra mà người bị trị tuân thủ, nghe theo, làm theo một cách tự
nguyện và đạt được hiệu lực và hiệu quả cao? Để có được điều này, đòi hỏi
quyền lực phải có tính chính đáng. Hay nói cách khác, quyền lực, sự cưỡng bức
sẽ “dễ chịu” hơn khi nó được mọi người coi là “chính đáng”. Vì vậy, tính chính
đáng là một sự đòi hỏi cần thiết của quyền lực và đã trở thành một trong những
đối tượng trung tâm của nghiên cứu chính trị học.
Trước kia, khi tầng lớp thống trị của nhà nước thực hiện một cách rộng
rãi những đàn áp và bất công, nhân dân có thể tuân thủ những mệnh lệnh của
quyền lực chính trị từ những động cơ của lương tâm như sự sợ hãi bị trừng
phạt, sự tôn sùng cá nhân, phong tục, tập quán, tôn giáo, do gắn bó trong một
thời gian dài với một người cai trị, hay là tin vào sự ủy thác quyền lực của
Thượng đế cho người cai trị v.v.. Tuy nhiên, một tầng lớp cai trị nào đó không
thể vững bền qua thời gian trừ khi những thần dân của nó nhận ra rằng khi
những người nắm giữ quyền ra lệnh và đòi hỏi họ phải phục tùng là nhờ có
quyền lực chính đáng. Còn nếu không, nó sẽ dẫn đến những sự thay đổi về
chủ thể cai trị khi mà những thần dân đã thức tỉnh, nhận rõ được sự bất công từ
2
quyền lực bất chính đáng và họ đã đủ mạnh để đánh đổ chủ thể cai trị hiện
thời. Lịch sử đã chứng minh, sự biến chuyển của các chế độ chính trị, của
quyền lực có thể coi là sự thay đổi trong quan niệm về tính chính đáng chính trị.
Ngày nay, trong một xã hội dân chủ, tính chính đáng chính trị được coi là
một vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả của thực thi
quyền lực chính trị, và cụ thể hơn là hiệu lực, hiệu quả thực thi của một mệnh
lệnh, chỉ thị phát ra từ các cơ quan quyền lực của chủ thể cầm quyền. Nếu chủ
thể cầm quyền thiếu tính chính đáng, các mệnh lệnh từ bộ máy cai trị của nó
đưa ra sẽ gặp phải sự chống đối, kháng cự từ những công dân. Và ngược lại,
chủ thể cầm quyền có được tính chính đáng cao, khi đó, nó sẽ đạt được hiệu lực
và hiệu quả cao trong thực thi quyền lực và dĩ nhiên là giữ được sự ổn định chính
trị xã hội nhằm duy trì thời gian cầm quyền. Như vậy, tính chính đáng chính trị
tạo nên sức mạnh, hiệu quả trong thực thi quyền lực của chủ thể cầm quyền.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, tính chính đáng của Đảng
Cộng sản (ĐCS) Việt Nam đã được lịch sử chứng minh và nhân dân thừa nhận.
Tính chính đáng này có được vì dưới sự lãnh đạo và cầm quyền của mình, Đảng
đã đồng hành cùng nhân dân, cùng dân tộc đạt được nhiều thành tựu trong việc
đấu tranh vì mục tiêu chung là giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vai trò lãnh đạo tuyệt đối của ĐCS Việt Nam đã được ghi nhận trong Hiến
pháp, song điều đó không đồng nghĩa với việc không cần tăng cường, củng cố
tính chính đáng của Đảng trong vị trí cầm quyền. Ngược lại, trong bối cảnh đã
có nhiều thay đổi hiện nay, đòi hỏi Đảng cầm quyền phải không ngừng tăng
cường xây dựng, phát huy tính chính đáng của mình để đoàn kết các lực lượng
trong xã hội đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức để bảo vệ độc lập
dân tộc, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
và văn minh.
Trong suốt thời gian cầm quyền đã qua, có những lúc Đảng mắc một số
sai lầm trong lãnh đạo và cầm quyền làm ảnh hưởng đến tính chính đáng. Đặc
3
biệt, thời gian gần đây, như đã được khẳng định trong nhiều Văn kiện Đại hội
XI của Đảng:
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn
tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém
trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của
dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước
[26,tr.173].
Hậu quả của nó là ở một số nơi xảy ra tình trạng khiếu kiện kéo dài, một
số cá nhân, tổ chức chống đối lại các cơ quan nhà nước một cách quyết liệt,
thậm chí ở một số nơi đã xuất hiện một số “cơn sóng ngầm trong lòng dân” và
có nguy cơ gây mất ổn định xã hội v.v.. Mặc dù Đảng đã có nhiều biện pháp như
tự phê bình và phê bình, chỉnh đốn Đảng, giữ quan hệ mật thiết với quần chúng,
đặc biệt nhấn mạnh sự tuyên truyền, giáo dục và giác ngộ v.v.. Dấu hiệu đó cho
thấy, tính chính đáng đã có dấu hiệu bị xói mòn. Điều này rất dễ xảy ra, nhất là
khi quyền lực nhà nước được đặt dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm
quyền liên tục trong một thời gian dài. Rất có thể, khi cầm quyền trong thời gian
dài, Đảng tự xây cho mình một “tháp ngà” và tự cách biệt mình với quần chúng
nhân dân. Nghiêm trọng hơn, chính điều đó nảy sinh quan liêu, xa dân, tham
nhũng, thậm chí độc đoán, một bộ phận cán bộ, đảng viên hư hỏng, dần đánh
mất lòng tin của nhân dân, qua đó làm xói mòn tính chính đáng về sự cầm quyền
của Đảng. Điều này đã từng xảy ra với một số đảng, dẫn đến kết cục đảng
không cầm quyền được nữa, gây những hệ lụy nguy hiểm cho quốc gia, cho dân
tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá một cách có căn cứ khoa học và hệ thống
về tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng cầm quyền đến
nay để từ đó có những kiến nghị nhằm nâng cao tính chính đáng trong cầm
quyền của Đảng thời gian tới là một vấn đề hết sức hệ trọng và cấp bách.
4
Chính vì những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Tính chính đáng
của Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam” để làm luận án tiến sĩ chính trị
học là hữu dụng cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về tính chính đáng chính trị, tính
chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền, luận án đi khảo sát, phân tích, đánh
giá tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền qua các thời kỳ lịch sử, chỉ ra
các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của Đảng hiện nay, từ đó đưa ra một số
giải pháp khả thi nhằm nâng cao tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền
thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về tính chính đáng chính trị, tính chính
đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Thứ hai, dựa trên cơ sở lý luận đã được xây dựng, luận án khảo sát, phân
tích và đưa ra những nhận xét về tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền
qua các thời kỳ lịch sử.
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong cầm
quyền của một số đảng chính trị trên thế giới, từ đó rút ra một số bài học có giá
trị tham khảo đối với ĐCS Việt Nam.
Thứ tư, chỉ ra các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của Đảng hiện
nay.
Thứ năm, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao tính chính đáng trong
cầm quyền của ĐCS Việt Nam thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
5
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn
đối với tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền. Góc độ tiếp cận và giải
quyết các nội dung nghiên cứu của luận án là dưới góc độ khoa học Chính trị
học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về nội dung: Nghiên cứu về ĐCS Việt Nam với tư cách là đảng duy nhất
cầm quyền ở nước ta có rất nhiều nội dung nghiên cứu khác nhau, chứa đựng
nhiều vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Luận án chỉ tập trong nghiên
cứu nội dung tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Về thời gian: Nghiên cứu tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS Việt
Nam với trọng tâm là khoảng thời gian từ khi Đảng chính thức trở thành Đảng
cầm quyền (1945) ở Việt Nam cho đến nay.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc
biệt, luận án bán sát đến các quan điểm biện chứng, khách quan, toàn diện, lịch
sử cụ thể để triển khai các ý tưởng nghiên cứu.
4.2. Nguồn tư liệu
Tư liệu thứ cấp: Các tài liệu, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo
đã công bố của các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến đề tài
luận án.
Tư liệu cấp ba: Các Văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương; các văn bản pháp quy của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ,
các ngành; các báo cáo tổng kết của Mặt trận tổ quốc Việt Nam; các tác phẩm
kinh điển có liên quan đến luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
6
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác
giả lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung luận án.
Chương 1, tác giả coi trọng phương pháp tổng hợp, phân tích và hệ
thống hóa để đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan tới vấn đề tính
chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Chương 2, tác giả sử dụng nhiều phương pháp để làm sáng tỏ những
vấn đề của luận án. Cụ thể, tác giả sử dụng phương pháp quy nạp để xây dựng
các khái niệm công cụ. Phương pháp lịch sử, phân tích, và tổng hợp để khảo sát
các quan niệm khác trong trong lịch sử tư tưởng chính trị về tính chính đáng chính
trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền từ đó đưa ra cấu trúc của tính
chính đáng chính trị, cấu trúc tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Chương 3, tác giả dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử và
phương pháp định tính để khảo sát, phân tích, nhận định tính chính đáng trong
cầm của của ĐCS Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Sử dụng phương pháp so
sánh để tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong cầm quyền của
một số đảng chính trị trên thế giới và rút ra một số bài học cho Đảng ta.
Chương 4, về cơ bản, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
để phân tích các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm
quyền hiện nay và đề ra một số giải pháp có căn cứ khoa học, góp phần nâng cao
tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam thời gian tới.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án
Luận án đưa ra được khái niệm, cấu trúc về tính chính đáng chính trị,
tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền từ cách tiếp cận của Chính trị
học dựa trên hệ thống hóa các công trình nghiên cứu trước đó, các quan niệm
khác nhau về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của đảng cầm quyền.
Trên cơ sở khung lý thuyết về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng
của ĐCS Việt Nam cầm quyền, luận án đã khảo sát, phân tích và đưa ra những
nhận xét về tính chính đáng của ĐCS cầm quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ
lịch sử.
7
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong cầm
quyền của một số đảng chính trị trên thế giới, luận án rút ra một số bài học bổ ích
có khả năng vận dụng để nâng cao tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS
Việt Nam.
Luận án chỉ ra những hạn chế trong duy trì tính chính đáng trong cầm
quyền của Đảng hiện nay và đưa ra được các giải pháp khả thi nhằm nâng cao
tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, nội dung và kết quả của luận án góp phần hoàn thiện cơ sở lý
luận về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Vì vậy, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy chuyên ngành Chính trị học, các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn
có liên quan ở Việt Nam.
Về thực tiễn, những kết luận của luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý
luận khoa học, cách tiếp cận rõ ràng. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền có thể
khai thác, vận dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao tính chính đáng trong cầm
quyền của ĐCS Việt Nam hiện nay và thời gian tới.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
Vấn đề tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của nhà nước đã và đang
được khá nhiều nhà khoa học phương Tây quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, vấn
đề tính chính đáng chính trị, đặc biệt tính chính đáng của đảng cầm quyền, trong
một thời gian dài vẫn được coi là vấn đề “nhạy cảm”, là một điều gì đó tối kỵ
trong các nghiên cứu. Tuy nhiên, thời gian gần đây đã có một số nghiên cứu trực
tiếp đề cập đến vấn đề này hoặc là liên quan đến vấn đề xây dựng tính chính
đáng của nhà nước, của ĐCS Việt Nam cầm quyền ở nước ta dưới các góc nhìn
khác nhau.
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu chuyên biệt về tính chính đáng của
đảng cầm quyền hầu như rất hiếm. Các tác giả nước ngoài chủ yếu tập trung
nghiên cứu về lý thuyết tính chính đáng chính trị, điều kiện đảm bảo cho tính
chính đáng của nhà nước. Trong đó, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu
như:
Max Weber(1984):“Legitimacy, politics and the State” [136]. Trong bài viết
này, Max Weber cho rằng, mọi nhà nước đều dựa trên bạo lực (force), nhưng bạo
lực chắc chắn không phải là phương tiện duy nhất của nhà nước. Nhưng, rõ ràng
bạo lực là một phương tiện mang tính đặc trưng, riêng biệt của nhà nước. Nhà
nước, theo Webber, là một mối quan hệ của người cai trị và người bị trị, mối quan
hệ này được củng cố bởi công cụ bạo lực được coi là chính đáng. Max Weber cho
rằng, bất cứ một nhà nước nào cũng gắn với sử dụng quyền lực, nhưng không
phải việc sử dụng quyền lực nào cũng là chính đáng. Theo ông, có ba sự lý giải
mang tính nội tại mà được coi là cơ sở cho sự cai trị dựa vào để coi đó là có tính
chính đáng, đó là tính truyền thống, sự cuốn hút và tính hợp pháp. Các luận giải về
cơ sở cho tính chính đáng của nhà nước của M.Weber được coi là nền tảng, nguồn
9
gốc tranh luận cho rất nhiều các công trình nghiên cứu về sau. Đây là tiều liệu có
giá trị tham khảo cho chương 2 của luận án.
Dưới cách tiếp cận Triết học, khi đi sâu vào nghiên cứu về nhà nước, tính
chính đáng của nhà nước, trong Luận án tiến sĩ của Anthony M. Musonda (2006):
“Political Legitimacy: The Quest for the Moral Authority of the State, A
Philosophical Analysis” [127], tác giả đã đi nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý
luận cơ bản về nhà nước như: khái niệm về nhà nước, nguồn gốc của nhà nước,
sự phát triển của nhà nước hiện đại, sự bành trướng về chủ quyền của nhà nước
hiện đại v.v.. Đặc biệt, tác giả dành một lượng không nhỏ (phần 7, từ trang 89
đến trang 109) để nghiên cứu về tính chính đáng (tính chính đáng của nhà nước).
Trong phần này tác giả có đi phân tích khuôn khổ của tính chính đáng nhà nước,
chủ yếu tập trung vào yếu tố của các quy tắc pháp lý. Theo tác giả, trước kia, khi
tầng lớp thống trị của nhà nước thực hiện một cách rộng rãi những đàn áp và bất
công, nhân dân có thể tuân thủ những mệnh lệnh của quyền lực chính trị từ những
động cơ của lương tâm như sự sợ hãi, lòng thèm muốn, phong tục hoặc chỉ là sự
gắn bó với một người cai trị. Tuy nhiên, một tầng lớp cai trị nào đó không thể
vững bền qua thời gian trừ khi những thần dân của nó nhận ra rằng, những người
nắm giữ quyền lực nhà nước có quyền ra lệnh một cách chính đáng, khi, những
mệnh lệnh đó phù hợp với những nguyên tắc đã được định sẵn mang tính pháp
lý. Bởi vậy, để một tầng lớp cai trị bền vững qua thời gian thì nội dung của
những yêu cầu, mệnh lệnh đó phải được căn cứ vào quy tắc mang tính pháp lý.
Các luận giải của tác giả về tính chính đáng của các mệnh lệnh, hay hệ thống
pháp luật của nhà nước có giá trị tham khảo trong việc làm rõ cơ sở lý luận về
tính chính đáng chính trị, đặc biệt là xây dựng cấu trúc tính chính đáng chính trị.
Nghiên cứu về mới quan hệ giữa hiệu quả của quá trình cầm quyền với
tính chính đáng chính trị, tác giả Lipset, Seymour Martin trong cuốn sách, “Political
Man: The Social Bases of Politics” [146] được xuất bản năm 1983 có cách tiếp cận
rất đáng chú ý. Trong cuốn sách này, Lipset dành một chương để nói về tính chính
đáng (Social conflict, legitimacy, and Democracy xung đột xã hội, tính chính đáng
10
và dân chủ). Không đi sâu vào nghiên cứu tính hợp pháp của nhà nước như
Anthony M. Musonda, Lipset đưa ra khái niệm về tính chính đáng chính trị khá rõ
ràng. Ông cho rằng, số đông coi một hệ thống chính trị có chính đáng hay không
bằng cách xem xem những giá trị của hệ thống đó có phù hợp với họ hay không.
Theo tác giả, giá trị cốt lõi ở đây là hiệu quả của sự cầm quyền. Thước đo cơ bản
cho tính hiệu quả của sự cầm quyền, theo ông, chính là sự phát triển kinh tế và
phát triển kinh tế là chìa khóa để cho chủ thể cầm quyền xây dựng tính chính
đáng. Từ cách tiếp cận và quan niệm như vậy, ông đi sâu vào phân tích mối quan
hệ tương tác qua lại giữa tính chính đáng và hiệu quả cầm quyền của một hệ
thống chính trị. Theo ông, nếu chủ thể cầm quyền tạo ra được sự phát triển kinh
tế cao thì đồng nghĩa với việc tính chính đáng trong cầm quyền cao. Và ngược lại,
khi hiệu quả cầm quyền thấp, nếu để kéo dài thì tính chính đáng trong cầm quyền
bị xói mòn và dần dẫn tới mất vai trò cầm quyền. Các luận giải của tác giả trong
công trình này có giá trị trong việc xây dựng cấu trúc tính chính đáng chính trị ở
chương 2 của luận án.
Liên quan đến tính hợp pháp của chủ thể cầm quyền, có công trình nghiên
cứu của Carl Schmitt : “Legality and Legitimacy” [155]. Trong công trình này, tác
giả đi tìm lời giải cho mối quan hệ giữa tính chính đáng với tính hợp pháp. Ông
cho rằng, một chính phủ chỉ có được tính chính đáng khi nó được lập lên từ các
cuộc bầu cử tự do và công bằng tức là hợp pháp. Tuy nhiên, ông cũng hoài nghi
về tính chính đáng của một chính phủ được dựng lên nhờ vào bầu cử bằng chiến
thắng đa số tuyệt đối. Ông cho rằng, 51% phiếu bầu tạo nên tính chính đáng mà
không bao giờ hỏi liệu 49% còn lại có chấp nhận quyết định của 51% hay không.
Theo ông, một chính phủ được bầu lên với 51% số phiếu đã được coi là chính
đáng hay chưa nếu như 49% còn lại nổi loạn thì liệu chính phủ đó có duy trì được
thời gian cầm quyền của mình? Từ đó, ông khẳng định rằng, kết quả bầu cử chỉ
là một điều kiện đầu tiên để tạo nên tính chính đáng cho một chính phủ. Chính
phủ đó có duy trì được tính chính đáng hay không cần phải thuyết phục được 49%
còn lại thông qua hiệu quả của các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của mình.
11
Các phân tích, nhận định của tác giả sẽ là tham khảo bổ ích trong quá trình triển
khai các nội dung của luận án.
Bàn về khía cạnh tính hợp pháp của quyền lực nhà nước còn có bài viết
của John H. Schaar: “Legitimacy in the Modern State” [143]. Trong bài viết này, tác
giả đã đề cập đến một loạt các quan niệm, các cách tiếp cận khác nhau về tính
chính đáng của quyền lực nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra ý kiến của riêng mình.
Theo tác giả, để quyền lực nhà nước trở thành quyền uy, quyền lực đó phái đến
từ ‘sự ủy quyền dân chủ democratic consent’ và quyền lực nhà nước phải vì ‘lợi
ích chung common good’ hay là ‘lợi ích công cộng public interest’. Với quan
niệm như thế, tác giả đi luận giải tính chính đáng của các nhà nước hiện đại. Và
tới nay, quyền lực nhà nước vẫn chưa thực sự trở thành quyền uy và các thể chế
và các quan chức nhà nước vẫn chưa có câu trả lời. Đó chính là dấu hiệu của sự
khủng hoảng tính chính đáng trong nhà nước hiện đại.
Cũng bàn về một khía cạnh của tính hợp pháp của quyền lực chính trị, còn có
các công trình: Barnard, Frederick M, “Democratic Legitimacy: Plural Values and
Political Power” [129]; Peter, Fabienne: “Democratic Legitimacy, New York:
Routledge” [149]; Hershovitz, Scott: “Legitimacy, Democracy, and Razian Authority”
[142]. Các tác giả này chủ yếu tập trung vào yếu tố dân chủ (trong bầu cử và trong
thực thi quyền lực). Họ cho rằng, nguồn gốc phổ biến nhất của tính chính đáng
chính trị hiện nay là sự nhận thức rằng, một chính phủ đang hoạt động theo nguyên
tắc dân chủ và theo ý chí của người dân. Các chính phủ thường tuyên bố là nhận
được sự ủy quyền của người dân để thực thi quyền lực. Tuy nhiên, sự ủy quyền
này nhận được bằng cách nào có thể làm thay đổi một cách rõ ràng từ chế độ cai trị
này sang chế độ cai trị khác. Các nhà nước dân chủ tự do tuyên bố rằng, tính chính
đáng trong cai trị của họ dựa trên nền tảng là họ thường xuyên có các cuộc bầu cử
tự do và công bằng, trong đó các đảng chính trị tham gia mà không có bất cứ sự sợ
hãi và áp lực nào. Các nhận định này có giá trị tham khảo đối với chương 2 và
chương 3 của luận án.
12
Đề cập đến tính chính đáng chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện nay, có
các công trình: Thomas MacCarthy, “Legitimation Problems in Advanced
Capitalism” [148]; George Kateb, “On the “Legitimation Crisis” [140]. Các công
trình này chủ yếu luận giải các nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tính
chính đáng chính trị của chủ nghĩa tư bản như: Khủng hoảng kinh tế; thất
nghiệp; chiến tranh; vấn đề an sinh xã hội không được giải quyết; các cuộc bầu
cử thiếu công bằng, tự do, v.v..
Liên quan đến tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam, có bài
của tác giả Thayer, Carlyle, “Political Legitimacy of Vietnam’s One PartyState:
Challenges and Responses” [158]. Bài viết này, tác giả tập trung vào phân tích các
thách thức đối với quyền lực của nhà nước chỉ có duy nhất một đảng cầm quyền
của Việt Nam nổi lên trong năm 2009 và cách mà nhà nước phản ứng trước các
thách thức đó. Tác giả nêu ra ba thách thức riêng biệt ảnh hưởng đến tính chính
đáng của nhà nước: các ý kiến đối lập trong việc khai thác bô xít ở Tây Nguyên;
cuộc biểu tình của Giáo Hội Công Giáo về các vấn đề sở hữu đất đai; và một số
bất đồng quan điểm chính trị của các nhà hoạt động gọi là “ủng hộ dân chủ” và các
blogger. ĐCS Việt Nam khẳng định tính chính đáng chính trị dựa trên nhiều yếu tố.
Những tranh cãi về khai thác bauxite thách thức khẳng định của nhà nước đối với
tính chính đáng chính trị trên cơ sở thực hiện. Tranh chấp đất đai Công giáo thách
thức tuyên bố của nhà nước về tính chính đáng dựa trên cơ sở hợp lý, hợp pháp của
các khu đất thuộc thẩm quyền nhà nước quản lý. Các bất đồng quan điểm chính trị,
bao gồm cả các nhu cầu cho dân chủ với những lo ngại về vấn đề môi trường và
quan hệ với Trung Quốc, thách thức tuyên bố của nhà nước về tính chính đáng dựa
trên chủ nghĩa dân tộc. Từ đó, tác giả khẳng định rằng, cùng với cách xử lý vừa
mềm dẻo vừa cứng rắn của nhà nước Việt Nam trong năm 2009, tất cả các thách
thức này cũng sẽ được Đảng ta thảo luận tại Đại hội X của Đảng.
Như vậy, điểm qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài, ta thấy, các tác giả chủ yếu tập trung vào phân tích các điều kiện của tính
chính đáng chính trị, như, nguồn gốc hình thành thông qua bầu cử, các quyết định
13
hợp pháp, phát triển được kinh tế, xã hội, đồng thời lợi ích của đa số phải được
đảm bảo... Ngoài ra, các tác giả cũng đề cập đến nguyên nhân dân đến khủng
hoảng tính chính đáng của chủ nghĩa tư bản, v.v… Các kết quả nghiên cứu này sẽ
là cơ sở dữ liệu để tham khảo trong quá trình triển khai làm rõ các nội dung của
luận án, đặc biệt là xây dựng khái niệm và cấu trúc của tính chính đáng chính trị,
tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
1.2.1. Một số công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm, cấu trúc,
điều kiện của tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của Đảng cầm
quyền
Sách: “Đảng Cộng sản cầm quyền: nội dung và phương thức cầm
quyền của Đảng” của GS, TS. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên)[52]: Cuốn sách
được kết cấu thành ba phần với 12 chương: Phần thứ nhất: Tổng quát những
vấn đề lý luận chung về Đảng cầm quyền và Đảng Cộng sản cầm quyền;
Phần thứ hai: Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng Thực trạng và
những vấn đề đặt ra; Phần thứ ba: Những điều kiện và yêu cầu đảm bảo sự
cầm quyền của Đảng và những giải pháp đổi mới nội dung và phương thức
cầm quyền của Đảng. Nhằm góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra là nội
dung và phương thức cầm quyền của Đảng cần được xác định như thế nào để
không trái với Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, không trái với nguyên tắc
toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cuốn sách đã làm rõ những
luận cứ khoa học về Đảng Cộng sản cầm quyền, về nội dung và phương thức
cầm quyền của Đảng trong bối cảnh trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó chú trọng đến quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thực trạng sự cầm quyền của Đảng v.v..
Đồng thời đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh
đạo và cầm quyền của Đảng. Đặc biệt, cuốn sách còn đề cập đến kinh nghiệm
cầm quyền của một số Đảng chính trị tiêu biểu trên thế giới như: Liên Xô,
14
Trung Quốc, các nước phương Tây; đi sâu phân tích khái niệm mà bấy lâu nay
hầu như chưa được bàn đến với một cách lập luận rõ ràng ở nước ta như vấn
đề “tính chính đáng của sự cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản”. Các tác
giả đã bước đầu khái quát, định hình và gợi mở được những vấn đề cơ bản về
tính chính đáng chính trị, như: quan niệm về tính chính đáng chính trị của một
số nhà tư tưởng chính trị, bước đầu đưa ra cấu trúc của tính chính đáng chính
trị… Dựa trên cơ sở lý thuyết đó, tác giả phân tích, đánh giá một cách rất khái
quát về tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi cầm quyền cho
đến nay và gợi mở ra những vấn đề mang tính thách thức đối với ĐCS Việt
Nam cầm quyền hiện nay. Cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho
chương 2 và chương 4 của luận án.
Bàn đến niềm tin trong tính chính đáng của quyền lực Nhà nước, bài viết
có tiêu đề“Không thể có quyền lực chính đáng nếu dân không tin” của GS. Cao
Huy Thuần [116]. Tác giả cho rằng, tin cậy là nền tảng của xã hội, là gốc của
quyền lực và không thể có một quyền lực chính đáng nếu quyền lực đó vô trách
nhiệm. Để chứng minh cho điều này, tác giả bắt đầu từ sự phân tích các luận
điểm của J.Locke nhằm trả lời cho câu hỏi lớn: do đâu quyền lực được xem như
chính đáng?. Đó là sự tin cậy của người dân. Nhà nước ngày nay nhận tính chính
đáng từ sự thỏa thuận của người dân. Dân thỏa thuận vì dân tin cậy. Người cầm
quyền nhận một nhiệm vụ mà dân giao phó để thực hiện một mục tiêu mà hai bên
thỏa thuận trong sự tin cậy lẫn nhau. Tin cậy là gốc của quyền lực. Nếu anh làm
tôi mất lòng tin thì tôi rút lui sự tin cậy. Tác giả cũng cho rằng, hiện nay, khắp nơi,
đâu cũng đặt câu hỏi: làm thế nào để vực dậy lòng tin cậy nơi con người dân
chủ?. Nhưng có phải chính chế độ dân chủ làm mất lòng tin không? Chắc chắn
không. Theo tác giả, chế độ dân chủ, nhất là ngày nay, phải giải quyết một mâu
thuẫn nội tại: làm sao hòa giải giữa tự do của người dân, càng ngày càng khó tính
vì độc lập hơn, tự chủ hơn, đòi hỏi hơn, với nhu cầu của chính quyền phải hành
động, phải quyết định, nghĩa là phải chọn lựa những giải pháp ít mất lòng tin nhất
15
trong những điều kiện kinh tế, xã hội càng ngày càng khó khăn? Làm thế nào?
Dẹp bớt dân chủ chăng? Đâu có, phải tăng cường dân chủ! Dân chủ đại diện bị
mất lòng tin? Thì phát triển thêm dân chủ tham dự. Thì tìm mọi cách để người dân
tham gia nhiều hơn nữa vào việc công. Thì mở rộng thêm xã hội công dân. Các
luận giải của tác giả có thể được tham khảo trong chương 2 chương của luận án.
Bài báo, “Về sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước” của
TS.Lưu Văn Quảng [95]. Trong bài viết này, tác giả đã bước đầu đề cập đến
những vẫn đề cơ bản nhất về tính chính đáng của quyền lực nhà nước. Cùng với
tính độc quyền cưỡng chế, tác giả coi tính chính đáng là một trong hai thuộc tính
căn bản của quyền lực nhà nước. Tác giả cho rằng, tính chính đáng của nhà nước
được hiểu là sự chấp nhận, sự đồng tình của nhân dân đối với m ột chế độ cai trị,
hay niềm tin vào một sự cai trị hợp lý. Nói cách khác, tính chính đáng chính trị có
nghĩa là niềm tin của nhân dân vào thẩm quyền và tính hợp lý trong các hoạt động
của nhà nước. Khi người dân tin rằng quyền lực của nhà nước là chính đáng, họ sẽ
tự thấy bổn phận và nghĩa vụ phải tuân thủ các mệnh lệnh mà nhà nước đưa ra.
Tác giả cũng cho rằng, ngày nay quyền lực một nhà nước được coi là chính đáng ít
nhất phải đảm bảo ba yếu tố: Quyền lực đó phải đại diện được lợi ích của nhân
dân; Quyền lực đó phải được lập lên một cách hợp lệ; Quyền lực đó phải được sử
dụng đúng mục đích và hiệu quả. Trong bài viết của mình, tác giả mới chỉ dừng lại
ở nêu ra các vấn đề theo cách hiểu riêng của mình về khái niệm, cấu trúc tính chính
đáng của nhà nước chứ chưa có các luận giải, chứng minh cho các nhận định của
mình dưới cách tiếp cận của một chuyên ngành khoa học cụ thể. Tuy vậy, các nhận
định này cũng có giá trị tham khảo cho luận án, nhất là phần lý thuyết ở chương 2.
Cũng đề cập đến tính chính đáng của nhà nước, nhưng đề cập ở khía cạnh
phương thức tạo lập và duy trì tính chính đáng nhờ vào xã hội dân sự, trong bài
báo“Hướng đến một khái niệm khoa học về xã hội dân sự” của tác giả Trần Hữu
Quang [92]. Trong bài viết này, bên cạnh việc đi tìm một khái niệm khoa học về
xã hội dân sự cho trường hợp của Việt Nam, lấy xuất phát điểm từ những
16
nghiên cứu của Gramsci về xã hội dân sự, tác giả đặc biệt chú trọng đến vai trò
của xã hội dân sự trong việc thiết lập sự đồng thuận nhằm duy trì sự thống lãnh
(hegemony) về tư tưởng của nhà nước cơ sở cho tính hợp thức hay tính chính
đáng của nhà nước. Theo tác giả, nếu không tạo ra được sự đồng thuận nơi xã
hội dân sự, nhà nước sẽ không giữ được sự thống lãnh tư tưởng, và vì thế tất
yếu sẽ mất đi tính hợp thức (hay tính chính đáng, legitimacy) của mình và chỉ còn
nắm được sự cưỡng chế mà thôi. Và tác giả cũng nhận định rằng, muốn duy trì
được sự thống lãnh về tư tưởng của nhà nước, cần phải tạo ra môi trường lành
mạnh để cho xã hội dân sự được phát triển. Vì, sự phát triển lành mạnh và sôi
động của đời sống xã hội dân sự chính là thước đo của tính hợp thức hay tính
chính đáng (legitimacy) của Nhà nước. Công trình có giá trị tham khảo trong
chương 2 và chương 4 của luận án.
Bài“Tính chính đáng của đảng cầm quyền trong các thể chế chính trị tư
bản” của TS. Đặng Đình Tân [99]. Đây gần như là công trình đầu tiên trực tiếp
nói về tính chính đáng trong cầm quyền của các đảng chính trị được công bố trên
các tạp chí khoa học tại Việt Nam. Tác giả cho rằng, trong các thể chế chính trị
dân chủ tư bản, tính chính đáng của đảng cầm quyền là vấn đề hệ trọng của đời
sống chính trị, liên quan trực tiếp đến hiệu lực thực thi quyền lực của đảng cầm
quyền, đến thời gian tồn tại của đảng đó, và liên quan trực tiếp đến sự ổn định
chính trị, phát triển của xã hội thời kỳ đảng cầm quyền đó đương nhiệm. Tính
chính đáng của đảng cầm quyền (hay liên minh các đảng cầm quyền) trong các
chính thể dân chủ trong các nước tư bản thể hiện trên mấy vấn đề chủ yếu: Thứ
nhất, tính chính đáng của một đảng cầm quyền trước hết được thể hiện ở tính
hợp hiến, hợp pháp, tức là vai trò cầm quyền đó phải được thừa nhận bằng bằng
đa số trong xã hội; Thứ hai, các cuộc tranh cử phải diễn ra thật sự dân chủ trong
các cuộc bầu cử các cơ quan quyền lực công; Thứ ba, tính chính đáng của đảng
cầm quyền phải thể hiện ở tính hợp lý trong các quyết định của đảng về các
chính sách công: phải đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội, phân bổ hợp lý
các giá trị, tháo gỡ được những bức xúc, giải quyết được các xung đột lợi ích giữa
17
các lực lượng, các cộng đồng, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; Thứ tư, tính
chính đáng của đảng cầm quyền phải được thể hiện trong vai trò của nhà nước
một nhà nước hiệu quả. Như vậy, tác giả đã đề cập đến những vấn đề mang tính
điều kiện hết sức cơ bản để một đảng cầm quyền nào đó ở các nước tư bản có
được quyền lực chính đáng, như: thủ tục, tính công ích và tính hiệu quả trong cầm
quyền. Do vậy, công trình này có giá trị tham khảo bổ ích cho luận án trong việc
nghiên cứu các vấn đề lý thuyết và nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng tính chính
đáng của một số đảng chính trị trên thế giới.
Bài “Tính chính đáng của đảng cầm quyền” của TS. Đặng Đình Tân [102].
Tác giả cho rằng, ngoài những tiêu chí đánh giá tính chính đáng trong chính trị nói
chung, tính chính đáng của một đảng cầm quyền trong xã hội dân chủ còn có
những tiêu chí riêng, rất cơ bản: Một là, đảng nắm quyền lực phải được lòng dân,
phải được đa số xã hội ủng hộ thông qua các cuộc bầu cử người vào các cơ quan
công quyền; Hai là, để dành đa số chính đáng, các cuộc tranh cử phải diễn ra thật
sự dân chủ, các thủ tục và trình tự bầu cử phải tuân thủ theo đúng các quy định
của pháp luật; Ba là, nhà nước do đảng đa số lập nên phải là một nhà nước hợp
pháp, có sự giám sát quyền lực; Bốn là, đảng phải cầm quyền có hiệu quả; Năm
là, người đứng đầu, các thành viên của đảng nắm giữ các cương vị chủ chốt trong
bộ máy công quyền và các đảng viên của đảng đa số phải là những người có
phẩm chất, đạo đức và sự trong sạch trong thực thi quyền lực và trong lối sống.
Sau khi đưa ra các tiêu chí, tác giả có một kết luận quan trọng, đánh giá tính chính
đáng của đảng cầm quyền là vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, có thể xác định tính
chính đáng của đảng cầm quyền thông qua cả một hệ thống các tiêu chí liên quan
mật thiết với nhau, tương hỗ nhau. Không thể chỉ đánh giá sự cầm quyền của một
đảng là chính đáng hay không chính đáng khi chỉ dựa vào một vài tiêu chí, mà phải
được xem xét trên cơ sở quan điểm biện chứng, hệ thống và lịch sử cụ thể. Công
trình có giá trị tham khảo đối trong chương 2 của luận án.
Như vậy, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam trực tiếp đề cập đến các
vấn đề lý luận như khái niệm, cấu trúc, điều kiệm đảm bảo tính chính đáng chính
18
trị, tính chính đáng của đảng cầm quyền… chưa có nhiều. Các công trình trên, mỗi
tác giả tiếp cận dưới một góc độ khác nhau đã có những đóng góp nhất định cho
cơ sở lý luận về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của đảng cầm quyền.
Tuy nhiên, các nhận định còn thiếu tính hệ thống, chưa dựa trên căn cứ lý thuyết
thực sự có hệ thống và khoa học.
1.2.2. Một số công trình nghiên cứu có liên quan tới tính hợp pháp
trong cầm quyền Đảng
Thứ nhất, nhóm công trình đề cập đến khẳng định vị trí, vai trò cầm quyền
duy nhất của Đảng ta.
Sách: “Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong điều kiện mới” của GS,TS. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) [78]. Cuốn sách là sự
chắt lọc kết quả nghiên cứu của Đề tài KX 10.04. Cuốn sách đã đề cập một số
vấn đề lý luận mang tính khái quát về đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị ở
một số nước tư bản (tác giả chọn 8 nước để nghiên cứu là: Đức, Pháp, Anh, Thụy
Điển, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Malaisia). Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu về sự
cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong điều kiện cải cách, mở cửa,
xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Từ đó, tác giả luận giải
những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến tính chính đáng trong cầm
quyền của Đảng ta, tuy nhiên cuốn sách có nhiều giá trị bổ ích để tham khảo cho
luận án.
Bài “Những điều kiện cơ bản bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong bối
cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phạm
Thế Lực [68]. Khi đề cập đến các điều kiện cơ bản để đảm bảo cho vai trò lãnh
đạo của Đảng trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, tác giả
cho rằng, việc đảm bảo tính chính đáng là điều kiện đầu tiên để Đảng phải của
giữ vững được vai trò cầm quyền. Tác giả cho rằng, nội dung của tính chính
đáng của đảng cầm quyền được thể hiện ở tính hợp pháp và tính hợp lý trong
19
phương thức cầm quyền của đảng. Tính hợp pháp, theo tác giả, là đảng đó phải
đảm bảo được tính pháp lý cho sự cầm quyền và sự thừa nhận rộng rãi của xã
hội; tính hợp lý của sự cầm quyền chính là nói đến tính hiệu quả trong phương
thức cầm quyền của đảng. Cũng theo tác giả, tính hợp pháp và tính hợp lý của
đảng cầm quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tính hợp pháp là cơ sở, là
nền tảng để quy định vai trò cầm quyền của đảng, còn tính hợp lý lại củng cố
vững chắc hơn cho sự cầm quyền. Tuy nhiên, nói đến nội dung của tính chính
đáng của Đảng không chỉ là tính hợp pháp và tính hợp mà còn phải đề cập đến
tính tiên phong của nền tẩng tư tưởng, tính hiệu lực quá trình cầm quyền của
Đảng. Mặc dù vậy, các nhận định của tác giả cũng là tài liệu bổ ích để tham
khảo cho luận án.
Bài báo, “Một đảng duy nhất cầm quyền sản phẩm tất yếu của thực tiễn
chính trị xã hội ở Việt Nam” của GS,TS. Phạm Ngọc Quang [90]. Bằng lập luận
khá thuyết phục của mình, tác giả chứng minh rằng, ĐCS Việt Nam trở thành
đảng duy nhất cầm quyền từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến nay là nhờ vào
những thành công mà ĐCS Việt Nam đã dẫn dắt nhân dân trong suốt hơn 80 năm
tồn tại và phát triển của mình kể cả trong thời chiến và thời bình. Đặc biệt, tác
giả đã chứng minh yếu tố “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà
Đảng ta theo đuổi chính là hệ giá trị mang tính xuyên suốt cho cách mạng Việt
Nam, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Chính nhờ có hệ giá trị đúng đắn,
cao cả này mà nhân dân tin ở Đảng, quyết tâm thực hiện và cụ thể hóa những
quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Bằng lao động sáng tạo của mình,
nhân dân biến chủ trường, đường lối của Đảng thành hiện thực sinh động trong
cuộc sống. Tác giả cho rằng, việc ĐCS Việt Nam được trao quyền lãnh đạo duy
nhất, cầm quyền duy nhất như một lựa chọn tất yếu, khách quan của lịch sử chứ
không phải do áp đặt của Hiến pháp. Vì, Hiến pháp không tạo ra vị trí đó của
Đảng, mà chỉ là sự ghi nhận một thực tiễn chính trị xã hội đã được xác lập trong
thực tế. Như vậy, tác giả cho rằng, ĐCS Việt Nam có được và giữ vững được vai
trò cầm quyền một cách chính đáng chính là nhờ có hệ giá trị đúng đắn mà nhân
20
dân tin và làm theo chứ không phải nhờ sự áp đặt từ quy định vai trò cầm quyền
mang tính pháp lý đến từ Hiến pháp. Như vậy, bài viết của tác giả đả đề cập đến
tiền đề rất quan trọng trong xây dựng tính chính đáng của Đảng là phải xây dựng
cho mình được hệ giá trị đúng đắn. Các phân tích này là dữ liệu bổ ích để triển
khai nghiên cứu luận án.
Sách “Đổi mới ở Việt Nam Thực tiễn và nhận thức lý luận” của PGS,TS.
Nguyễn Trọng Phúc biên soạn [87]. Cuốn sách gồm có hai phần chính: Phần thứ
nhất, quá trình thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Trong phần này, tác giả
đi phân tích, luận giải khá toàn diện về công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong suốt
20 năm (từ 1986 đến 2006). Đặc biệt, tác giả đã làm rõ được những bước đi,
những bước chuẩn bị, những đột phá trong tư duy của Đảng từ trước đổi mới và
coi Đổi mới là một sự lựa chọn không dễ dàng của Đảng; Phần thứ hai, một số
vấn đề nhận thức lý luận về công cuộc đổi mới. Trong phần này, tác giả đã đề
cập và luận giải khá nhiều vấn đề mang tính lý luận như: Tư duy chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tư duy kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời kỳ đổi mới v.v.. để từ đó tác giả rút ra được những kinh nghiệm xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra tình
trạng kém phát triển ở nước ta, từ đó đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng cầm quyền như: không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của
Đảng; đổi mới tổ chức, bộ máy gắn liền với đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Đặc biệt, trong cuốn sách tác giả đã đi sâu phân tích, làm rõ sự phát triển trong tư
duy lý luận của Đảng về chính trị, kinh tế qua các kỳ Đại hội để khẳng định vai
trò duy nhất lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, dân tộc trong suốt 20 năm.
Những nội dung của cuốn sách là thông tin bổ ích cần được tham khảo cho đề tài
luận án.
Bài “Một số vấn đề về tính chính đáng cho sự cầm quyền duy nhất của
Đảng ta trong thời kỳ hội nhập”, của ThS. Mai Thị Hồng Liên (2011) [66]. Tác giả
khẳng định rằng, từ khi ra đời đến nay, việc Đảng cầm quyền và lãnh đạo toàn bộ
21
xã hội là hoàn toàn đúng đắn và chính đáng. Tính chính đáng đó, theo tác giả, được
thể hiện và phụ thuộc vào sáu vấn đề cơ bản; Thứ nhất, sự cầm quyền duy nhất
của Đảng là tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc; Thứ hai,
tính hợp hiến, hợp pháp của Đảng; Thứ ba, tính công khai, minh bạch, dân chủ
trong nội bộ đảng; Thứ tư, tính đúng đắn, khoa học trong việc hoạch định và lãnh
đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; Thứ năm, tính hiệu quả, hiệu lực
của bộ máy nhà nước; Thứ sáu, phẩm chất đạo đức và năng lực của đội ngũ cán
bộ, đảng viên. Từ đó, tác giả cho rằng, để tiếp tục bảo đảm tính chính đáng cho
sự cầm quyền duy nhất của Đảng trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện đồng
bộ năm giải pháp: Một là, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội; Hai là, thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đảm bảo cho Đảng ta
là trí tuệ, là đạo đức, là lương tâm; Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đủ sức
và tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Bốn là,
thực hiện dân chủ trong nội bộ đảng, tạo cơ sở để phát huy dân chủ ngoài xã hội;
Năm là, thực hiện tốt công tác cán bộ và chính sách cán bộ, không ngừng nâng cao
năng lực và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới. Như vậy, mặc dù đã đề cập đến các vấn đề tạo nên tính chính
đáng và một số giải pháp nâng cao tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng.
Tuy nhiên, các nhận định của tác giả đưa ra chưa dựa trên nền tảng lý thuyết về
tính chính đáng của đảng cầm quyền một cách hệ thống và khoa học nên vẫn chỉ
dừng lại ở các nhận định chủ quan. Mặc dù vậy, các nội dung này cũng có giá trị
tham khảo đối với luận án.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến kinh nghiệm trong
phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước ở các nước tư bản
Bài “Vấn đề đảng cầm quyền và thẩm quyền quản lý nhà nước ở các
nước tư bản” của PGS,TS. Nguyễn Đăng Dung [12]. Theo tác giả, các đảng phái
xuất hiện từ những nỗ lực của các tác nhân chính trị nhằm xây dựng những liên