Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê ngoài màng cứng bằng thuốc tê phối hợp với fentanyl trong phẫu thuật wertheim meigs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.98 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG
BẰNG THUỐC TÊ PHỐI HỢP VỚI FENTANYL
TRONG PHẪU THUẬT WERTHEIM-MEIGS
Nguyễn Kim Liêm*, Trần Ngọc Mỹ*, Lê Minh Nguyệt*, Nguyễn Văn Chừng**

TÓM TẮT
Mở đầu: Gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) không chỉ là phương pháp vô cảm được dùng trong phẫu
thuật mà còn dùng để giảm đau sau mổ. Khi kết hợp phương pháp GTNMC với gây mê toàn thể sẽ cho tác
dụng hiệu quả trên các phẫu thuật lớn.
Mục tiêu: Chúng tôi đã thực hiện phương pháp gây mê phối hợp với GTNMC để giảm đau trong và sau
mổ phẫu thuật Wertheim-Meigs, tại Bệnh viện Ung Bướu TP HCM từ tháng 11/2005 đến tháng 10/2006.
Phương pháp: 100 trường hợp phẫu thuật Wertheim-Meigs chia thành hai nhóm ngẫu nhiên: 50 bệnh
nhân được gây mê toàn thể phối hợp với GTNMC (nhóm B-F) và được giảm đau sau mổ bằng phương pháp
bệnh nhân tự kiểm soát đau (BNTKSĐ) qua đường GTNMC, 50 BN được gây mê toàn thể đơn thuần
(nhóm M) và được giảm đau sau mổ bằng phương pháp BNTKSĐ qua đường tĩnh mạch.
Kết quả: Số bệnh nhân nhóm B-F có huyết động học ổn định hơn, thời gian rút nội khí quản sớm hơn,
lượng thuốc mê dùng ít hơn, tác dụng giảm đau sau mổ tốt hơn, tỉ lệ tác dụng phụ nôn và buồn nôn tương
đương nhau nhưng mức độ nghiêm trọng xảy ra ít hơn, có 4 (8%) trường hợp tê chân và 1 (2%) trường
hợp yếu chân.
Kết luận: Trong nghiên cứu này, GTNMC phối hợp với gây mê toàn thể đã được thực hiện an toàn và
hiệu quả trên các bệnh nhân phẫu thuật Wertheim-Meigs.

ABSTRACT
EFFECTS OF EPIDURAL ANALGESIA WITH BUPIVACAINE
AND FENTANYL IN WERTHEIM-MEIGS SURGERY
Nguyen Kim Liem, Nguyen Van Chung, Tran Ngoc My, Le Minh Nguyet
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 21 – 28


Background: The aim of this study was to compare the efficacy, adverse effects and sefety of bupivacaine
+ fentanyl epidural analgesia combining general anesthesia versus general anesthesia alone in the WertheimMeigs surgery.
Methods: 100 patients were devided into 2 groups: 50 patients were administered 0.1% bupivacaine + 5
microgram/ml fentanyl through epidural catheter during operation and postoperation by patient-controlled
epidural analgesia (PCEA) (group B-F), 50 patients were general analgesia and received intravenous
morphine patient-controlled analgesia (PCA) after surgery (group M). Hemodynamic parameters, visual
analogue scale, sedation scores, the degree of motor and sensory blockage, the presence of side effects were
recorded.
Results: The patients in group B-F showed more intraoperative and postoperative hemodynamic
stability, most patients were extubated ealier, had shorter time of awakening and received less anesthetics
than others. Most patients are pain relief in both groups but the visual analogue scale (VAS) scores of the
* Bệnh viện Ung Bướu Tp. HCM
** Đại học Y Dược Tp.HCM

Gây Mê Hồi Sức

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

epidural group were lower than those of the intravenous group at rest and during mobilization or coughing.
Patients who received epidural bupivacaine-fentanyl had greater satisfaction than others. Nausea and
vomiting occurred in both groups but vomiting was less serious. And 4 patients (8%) experienced transient
paresthesia, 1 patient (2%) lower limb weakness.
Conclusion: Tthe epidural analgesia associated with general anesthesia results in more efficient pain
relief than simple general anesthesia and has been performed safety following Wertheim-Meigs surgery.
- So sánh giảm đau sau mổ của phương

ĐẶT VẤN ĐỀ
pháp bệnh nhân tự kiểm soát đau (BNTKSĐ)
Theo ghi nhận ung thư quần thể tại TP Hồ Chí
qua đường GTNMC bằng Bupivacaine và
Minh 1998, ung thư cổ tử cung là ung thư thường
Fentanyl so với phương pháp BNTKSĐ qua
gặp, chiếm 26,8% tổng số các ung thư. Bệnh viện
đường tĩnh mạch bằng Morphine.
Ung Bướu TP Hồ Chí Minh mỗi năm có hơn 1.000
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
trường hợp ung thư cổ tử cung mới nhập viện và
điều trị, gần phân nửa số này ở giai đoạn IB và IIA,
Phương pháp nghiên cứu
phác đồ điều trị thường là xạ trị tiền phẫu và phẫu
Tiền cứu ngẫu nhiên có phân tích
thuật. Phẫu thuật điều trị ở giai đoạn này là phẫu
thuật Wertheim-Meigs(21).
Phẫu thuật Wertheim-Meigs là phẫu thuật cắt
tử cung tận gốc và nạo vét tận gốc các mô mỡ và
hạch vùng chậu hai bên. Phẫu thuật này cắt đi
nhiều mô và cơ quan trong hốc chậu, phẫu trường
cần phải rộng để lấy đi một cách an toàn khối ung
thư cho nên sự banh kéo căng các cơ thành bụng
và tổn thương nhiều cơ quan nơi cắt đã làm cho
bệnh nhân đau nhiều vùng mổ.
Đau và tâm lý sợ mổ, sợ đau cũng như sự
sang chấn của cuộc mổ đã gây ảnh hưởng không
tốt lên hệ hô hấp, hệ tuần hoàn và tạo ra những
thay đổi kích thích sinh học.
Do tính chất của cuộc phẫu thuật và xuất

phát từ nhu cầu thực tiễn, chúng tôi thấy cần
phải có phương pháp vô cảm thích hợp:
phương pháp gây mê toàn thể kết hợp với gây
tê ngoài màng cứng (GTNMC) để giảm đau tốt
trong và sau mổ, cải thiện tốt chức năng hô hấp,
tuần hoàn, giúp hồi tỉnh sớm, vận động sớm,
hạn chế được các biến chứng hậu phẫu và
mang đến cho người bệnh một chất lượng điều
trị hiệu quả. Do đó, chúng tôi sẽ đánh giá hiệu
quả giảm đau của GTNMC bằng thuốc tê phối
hợp với Fentanyl trong và sau phẫu thuật
Wertheim-Meigs bằng cách:
- So sánh hiệu quả của gây mê toàn thể phối
hợp GTNMC so với gây mê toàn thể đơn thuần.

Gây
Mê Hồi Sức
2

Đối tượng nghiên cứu

Tại BV Ung Bướu TP HCM từ tháng 11/2005
đến tháng 10/2006, chúng tôi thực hiện trên 100
bệnh nhân phẫu thuật Wertheim-Meigs chia
thành hai nhóm ngẫu nhiên:
- 50 BN được gây mê toàn thể + gây tê NMC
(nhóm B-F).
- 50 BN được gây mê toàn thể đơn thuần
(nhóm M).


Gây tê NMC
Vị trí chích: TL 2- TL3.
Xác định khoang NMC bằng phương pháp
mất sức cản. Luồn catheter hướng lên đầu khoảng
5cm. Thực hiện liều thuốc thử 3ml Lidocain 2% có
pha Adrenalin 1/200.000 (5µg/ml).
20 phút trước khi gây mê toàn thể, bệnh nhân
được tiêm với liều đầu là 10 – 12 ml hỗn hợp dung
dịch Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 5µg/ml.
Sau đó, được duy trì qua khoang NMC với
liều 0,1 ml/kg/giờ của hỗn hợp dung dịch trên.

Gây mê
Phương pháp gây mê cả hai nhóm giống nhau

Tiền mê
Midazolam.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Khởi mê
Fentanyl, Propofol, Rocuronium
Đặt nội khí quản, kiểm sốt hơ hấp và duy
trì Isoflurane, Fentanyl, Rocuronium

Nghiên cứu Y học

Mạch
140
120

100

nhóm B-F

80

nhóm M

Giảm đau sau mổ

60
40

Giảm đau sau mổ sẽ được thực hiện trong 2
ngày ở phòng hồi tỉnh
BNTKSĐ qua NMC
Nhóm B-F: hỗn hợp
Bupivacaine 0,1% +
Fentanyl 5 µg/ml
Liều bolus: 2 ml
Thời gian nghẽn: 10 phút

BNTKSĐ qua tĩnh mạch
Nhóm M: dung dịch Morphin
0,1%

Liều truyền dịch cơ bản: 2
ml/giờ

Liều tải: 3 ml

Liều truyền dịch cơ bản: 0
ml/giờ

Liều bolus: 1 ml
Thời gian nghẽn: 6 phút

Theo dõi bệnh nhân trong và sau mổ về tri
giác và dấu hiệu sinh tồn: nhịp tim, huyết áp,
nhịp thở, ECG, SpO2, ETCO2,
Đánh giá hiệu quả giảm đau lúc nghỉ và lúc
ho sau mổ theo thang điểm 10 (VAS), huyết
động ở các giờ thứ 2, 6, 12, 24, 36, 48

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Nhóm B-F

Nhóm M

P

Tuổi

48,0 ± 8,3

47,8 ± 7,7

0,901

Cân nặng (kg)


52,6 ± 7,4

55,1 ± 9,9

0,153

Thời gian GM (phút) 119,3± 17,1 120,3 ± 22,6

0,806

Thời gian PT (phút) 113,7 ± 17,0 114,5 ± 20,8

0,842

Giai đoạn bệnh

Chưa xạ

6

7

Đã xạ

9
50

7
50


Giai đoạn IIA
Tổng cộng

P

1,000

Hiệu quả của gây tê NMC trong lúc mổ
Thay đổi huyết động trong lúc mổ

Gây Mê Hồi Sức

T
1

T
2

T
3

T
4

T
5

T
6


T
7

T
8

Thời gian

Thay đổi mạch trung bình trong mổ của hai nhóm
Huyết áp
140
120
100
8
0
6
0
4
0
2
0

T
0

T
1

T T T T T

2 3 4 5 6
HA TT (B-F)

T
7

T
8

HATTr (B-F)

Khảo sát này

Nhóm M
25
11

T
0

HA TT

Đặc điểm chung của bệnh nhân

Giai đoạn bệnh
Nhóm B-F
Chưa xạ
24
Giai đoạn IB
Đã xạ

11

20

HATTr (M)
Thời gian
Thay đổi huyết áp tâm thu và tâm trương
trung bình trong mổ của hai nhóm
T0: phòng tiền mê
T1: sau khi chích liều thử
T2: sau khi chích liều đầu
T3: trước mổ.
T4: sau đặt NKQ T5: lúc rạch da.
T6: đặt bệnh nhân đầu thấp.
T7: trong mổ được 60 phút.
T8: kết thúc cuộc mổ

Những thay đổi về nhịp tim và huyết áp
trong lúc mổ
Mạch
Biểu đồ cho thấy, sau khi chích liều thử thuốc
tê 3 ml Lidocaine 2% có pha adrenalin 1/200.000
(5µg/ml) thì mạch (T1) hơi tăng nhẹ (từ 79 lần/phút
tăng 86 lần/phút). Mạch T1 chỉ tăng # 8,7% so với

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
mạch T0, huyết áp không tăng. Sự tăng này chứng

tỏ có adrenaline ngấm từ từ vào mạch máu, nhưng
không đi thẳng vào mạch máu vì mạch không
tăng trên 20% so với trị số mạch ban đầu (T0) và
cũng cho thấy đầu catherter của GTNMC không
chạm vào mạch máu.
Huyết áp (HA)
Giá trị trung bình của HA tâm thu và HA
tâm trương ở nhóm có gây tê thấp hơn so với
HA tâm thu và HA tâm trương ở nhóm GM đơn
thuần. Tuy nhiên, sự giảm HA tâm thu này
không nhiều, HA tâm thu trung bình là 10,02
cmHg, giảm trong khoảng 16,66% so với trị số
ban đầu T0 (12,09 cmHg).
Và độ lệch chuẩn của HA tâm thu và HA
tâm trương ở nhóm B-F dao động ít hơn so với
độ lệch chuẩn của HA tâm thu và HA tâm
trương ở nhóm M.
Phương pháp gây mê toàn diện phối hợp GT
NMC đã làm ổn định huyết động học hơn so với
gây mê đơn thuần. Điều này chứng tỏ, gây tê
NMC đã làm cho bệnh nhân bớt đau, không còn
phản xạ đáp ứng lại với kích thích đau như lúc
rạch da, hoặc như khi hạ đầu thấp (sau đó phẫu
thuật viên dùng gạc đẩy dạ dày và ruột đi lên về
phía đầu) và trong lúc mổ.

Thời gian rút ống nội khí quản
N = 100
Thời gian rút NKQ
(phút)


Lượng máu mất
Lượng máu mất trung bình của nhóm BF là
170,40 ± 71,71 ml, của nhóm M là 163,80 ± 46,55 ml.
Theo ghi nhận xạ trị trước mổ giúp làm giảm
kích thước bướu hay tan bướu giúp cho cuộc
phẫu thuật an toàn hơn. Và như vậy, với suy
nghĩ bệnh có xạ trị trước mổ có làm giảm chảy
máu không?, hoặc giai đoạn bệnh nặng hơn có bị
chảy máu nhiều hơn trong mổ không? Để dễ
khảo sát, ta dựa vào lượng máu mất > 180 ml là
nhiều, ta có kết quả sau:
Máu mất

B-F

M

Tổng cộng

Bệnh chưa xạ 22

23

45

Nhóm B-F Nhóm M
P
10,5 ± 5,3 22,6 ± 13,0 0,0001


Lượng thuốc sử dụng trong lúc gây mê
N = 100
Fentanyl (µg)
Propofol (mg)

Nhóm B-F
120,3 ±32,2
73,2 ± 10,3

Nhóm M
198,3 ± 40,6
75,8 ±12,1

p
0,0001
0,206

Esmeron (mg)
Isoflurane (%)

42,8 ± 9,2
2,0 ± 0,2

48,0 ± 8,8
3,1 ± 0,3

0,0001
0,004

Lượng thuốc Fentanyl, Esmeron, và

Isoflurane sử dụng trong nhóm BF ít hơn đáng
kể so với nhóm M (các p đều < 0,05). Điều này
phù hợp với kết quả của Claude Mann(19) và ghi
unhận của Masayuki(20), Robert R(10).

P
0,413

<180 ml
Bệnh đã xạ

17

12

29

Bệnh chưa xạ

8

9

17

Bệnh đã xạ

3

6


9

50

50

100

> 180 ml

0,500

Tổng cộng

Lượng máu mất theo bệnh có xạ trị trước đó?
Máu mất

B-F

M Tổng cộng

Giai đoạn I B

25

23

48


Giai đoạn II A

14

12

26

Giai đoạn I B

10

13

23

Giai đoạn II A

1

2

3

50

50

100


<180 ml

>180 ml

P
0,885

0,738

Tổng cộng

Do p = 0,000 (<0,05) nên thời gian rút nội khí
quản của nhóm B-F sớm hơn so với nhóm M. Điều
này phù hợp với kết quả TN Mỹ(27), Claude Mann(19).

Gây
Mê Hồi Sức
4

Nghiên cứu Y học

Lượng máu mất theo giai đoạn bệnh
Với các p > 0,05, do đó lượng máu mất trong
mổ của hai nhóm là tương đương nhau, không
kể giai đoạn bệnh hoặc bệnh có xạ trị trước hay
chưa xạ trị.
Theo Fotiadis nhận định, GM + GTNMC
trong phẫu thuật đường tiêu hóa có thể làm
giảm lượng máu mất trong mổ vì làm giảm áp
lực động mạch và tĩnh mạch nội tạng dẫn đến

làm giảm trương lực động mạch và giãn tĩnh
mạch, với suy nghĩ này GTNMC có thể làm
giảm chảy máu. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã
không chứng tỏ được là GTNMC làm giảm lượng
máu mất hoặc tăng lượng máu mất hoặc cần phải
thêm lượng dịch truyền hay lượng máu truyền(9).


Y Hc TP. H Chớ Minh * Tp 12 * Ph bn S 1 * 2008
Hiu qu GT NMC sau m

T2 sau m
T6 sau m
T12 sau m
T24 sau m
T36 sau m
T48 sau m

Cỏc du hiu sinh tn
M, HA, Thụỷ,
SpO2
160
140

4,8 0,8
3,8 0,7
2,2 0,9
1,3 1,0
0,9 0,7
0,5 0,5


7,3 0,7
5,4 0,6
3,7 0,9
2,4 1,1
1,6 0,6
1,2 1,0

0,0001
0,0001
0,0001
0,0001
0,001
0,001

Nhng BN trong nhúm B-F cú mc au
theo thi gian u nh hn mc au ca
nhúm M. iu ny phự hp vi cỏc tỏc gi
Silvasti M.(25), Teng YH(26), Claude Mann(19),
Cooper DW(5), Flisberg P.(8),

120
100
80
60
40
20

Thụứi gian


0

T2

T6

T12

T24

T36

HA TTr
maùch
thụ'
SpO

Din bin v huyt ng, hụ hp sau m ca nhúm B-F
M, HA,
ThụỷSpO
,
16
0
14
0
12
0
10
8
0

6
0
4
0
2
00

Thụứi gian
T
2

T
6

T1
T2
2
4
HA TTh

T3
6

Mc au lỳc ho hoc vn ng
Mc au ng Nhúm B-F
T2 sau m
6,7 0,8
T6 sau m
5,7 1,0
T12 sau m

3,9 1,0
T24 sau m
3,2 1,1
T36 sau m
2,7 0,9
T48 sau m
2,5 1,0

T48

HA TTh

0

Nghiờn cu Y hc

T4
8

HA TTr
maùch
thụ'
SpO2

Din bin v huyt ng hụ hp sau m ca nhúm M
T2, T6, T12, T24, T36, T48: thi im sau m
gi th 2, 6, 12, 24, 36, 48.
Cỏc ch s v mch, HA tõm thu, HA tõm
trng, nhp th, bo hũa oxy trong mao
mch khụng khỏc nhau gia hai nhúm.


Nhúm M
8,9 0,4
7,5 0,7
5,3 0,9
4,0 1,0
3,2 1,0
3,1 0,9

P
0,0001
0,0001
0,0001
0,002
0,013
0,006

Mc au lỳc ho hoc lỳc vn ng cỏc
thi im sau m gi th 6, 12, 24, 36 v 48 ca
nhúm B-F u nh hn so vi nhúm M. ngy
th hai, phn ln nhng bnh nhõn trong nhúm
B-F nghiờn cu ca chỳng tụi cú th t xoay tr
c, ngi dy v t ung nc c, bnh
nhõn cú th t chi u, cm qut v qut mỏt
cho mỡnh . iu ny chng t, gim au ng
nhng bnh nhõn c GTNMC cú hiu qu,
lm bnh nhõn thoi mỏi hn, phn chn v t
tin hn.
Theo Flisberg(8) (thc hin trờn 2696 trng
hp), Teng YH(26) (thc hin trờn 859 trng

hp), Claude Mann(19) (thc hin trờn 70 ngi
bnh ln tui (> 70 tui), Kestutis Rimaitis(23), M.
Silvasti(25), Robert B(24), Andrộ Gottschalk(10), Avi
A. Weinbroum(29), Loper KA(17), Liu S(16), Kehlet
H.(12) v Thomas M.(12) u cho rng cỏc bnh
nhõn nhúm BNTKS GT NMC gim au hn
nhúm BNTKS tnh mch lỳc ngh ngi v ngay
c lỳc ho hoc lỳc vn ng.

Mc gim au
Mc au lỳc ngh
Mc au

Nhúm B-F

Gõy Mờ Hi Sc

Nhúm M

P

5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Buồn nôn và nôn
Tỉ lệ buồn nôn và nôn ở hai nhóm B-F và M
tương đương nhau (p = 1,000, p = 0,382) không
có ý nghĩa thống kê. Tương tự như Roshanak

Charghi(3) cũng ghi nhận tỉ lệ nôn ở hai nhóm
nghiên cứu tương đương nhau (p = 0,22)
So sánh tỉ lệ buồn nôn, nôn với các tác giả

MÑÑ (VAS)
10
8
6
4
2

Thôøi gian

0

T2

T6

T12

T24

T36

T48

B-F GÑ luùc nghæ
M GÑ luùc nghæ
B-F GÑ ñoäng

M GÑ ñoäng

Mức độ đau lúc nghỉ và lúc ho (thang điểm VAS) qua
các thời gian
Trong khi đó, theo Cohen(3), Jerome F.(22),
Joseph F.(2), De Leon – Casasola(7), thì cho rằng
phương pháp giảm đau NMC cho giảm đau
tương đương như phương pháp BNTKSĐ tĩnh
mạch, mức độ đau của hai phương pháp này
không khác biệt nhau.

Liều thuốc đã sử dụng
Liều thuốc Fentanyl và Bupivacaine tiêu thụ
trong 48 giờ ở nhóm B-F của nghiên cứu chúng
tôi tương đương với liều thuốc Fentanyl so với
một số nghiên cứu khác.
So sánh liều thuốc Fentanyl và Bupivacaine được tiêu
thụ so với các tác giả khác
Tác giả
(15)
Licker M.
(1)
Guy Beaubien
(14)
Komatsu
Chúng tôi

Fentanyl
1,09 mg
1,16 mg

1,40 mg
0,96 mg

Bupivacaine
400 mg
389 mg
281 mg
193 mg

Liều thuốc Morphin tiêu thụ ở nhóm M của
nghiên cứu chúng tôi gần giống với liều thuốc tiêu
thụ của Licker M.(15), Mario Concha(5), Rober B(24).
So sánh liều thuốc Morphin được tiêu thụ qua đường
tĩnh mạch
Tác giả
M. Licker
Mario Concha
Robert B.
Chúng tôi

Nghiên cứu Y học

Lượng Morphin (trong 48 giờ sau mổ)
92 mg (82 – 166 mg)
78 mg
# 90 mg
79 mg

Gây
Mê Hồi Sức

6

Buồn nôn, nôn

Nhóm GTNMC

Chúng tôi
(19)
Claude Mann
Roshanak
(3)
Charghi
(29)
Tsui SL
(18)
Liu Spencer

11/50 (22%)
10/31 (32%)
12/46 (26%)
33% (n = 57)
14,8%

Nhóm tĩnh
mạch
13/50 (26%)
10/33 (30%)
16/40 (40%)
37% (n = 54)


Nôn và buồn nôn có thể là do nguyên nhân
tụt huyết áp nhưng phần lớn là do tính chất của
thuốc họ morphin, các thuốc này đã kích thích
trực tiếp lên các thụ cảm hóa học của vùng nhạy
cảm ở sàng não thất IV. Nôn thường gặp ở ngày
đầu sau mổ, còn từ ngày thứ 2 trở đi thì xảy ra ít
hơn có thể do bệnh nhân đã đạt được mức giảm
đau nên không tiếp tục bấm nhiều hơn nữa.
Mức độ nôn ở nhóm B-F nhẹ hơn nhóm M, có
cảm giác buồn nôn và nôn, nôn ra ít dịch tựa
như nước bọt, trong khi đó nhóm M khi nôn, ra
nhiều dịch tiêu hóa hơn, dịch có thể có màu nâu
hoặc xanh rêu. Nhưng thường các trường hợp
này đều đáp ứng tốt với thuốc Primperane.

Ngứa
So sánh tỉ lệ ngứa với các tác giả
Nghiên cứu
Roshanak
(25
Charghi )
Chúng tôi
(16)
Liu Spencer
(8)
Flisberg

Nhóm GTNMC Nhóm tĩnh mạch
12/46 (26%)
8/40 (20%)

8/43 (18%)
12/43 (27%)
16,7%
73/1.670 (4,4%) 19/1.026 (1,9%)

Kết quả ngứa của chúng tôi gần giống với
Roshanak Charghi, Liu Spencer nhưng lại cao
hơn Flisberg... Để làm giảm ngứa dùng
Diphenhydramine 25 mg tiêm bắp mỗi 4 giờ
hoặc Naloxone 0.6mg/500ml Natri clorua 0,9%
truyền tĩnh mạch trong mỗi 4 giờ.

Tê chân, yếu chân
Có 4 trường hợp tê chân (8%), trong đó 2


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
trường hợp tê một chân chúng tôi rút catheter ra
khoảng 1cm, sau đó bệnh nhân đã đỡ tê chân.
Và 1 trường hợp yếu chân, (theo thang điểm
Bromage là 1) bệnh nhân không nhấc chân lên
được, còn cử động được khớp gối và khớp cổ
chân. Ngưng thực hiện GTNMC cho bệnh nhân,
sau khoảng 3 giờ thì bệnh nhân co nhấc chân lên
được và có cảm giác đau trở lại. Sau đó chúng tôi
không truyền liều liên tục nữa (liều truyền dịch
cơ bản: 0 ml/giờ).

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 100 bệnh nhân ung thư cổ

tử cung được điều trị bằng phẫu thuật
Wertheim-Meigs tại Khoa Phẫu Thuật-GMHS,
Bệnh Viện Ung Bướu TP Hồ Chí Minh, trong
đó có 50 bệnh nhân được gây mê toàn thể kết
hợp với GTNMC bằng Bupivacaine 0,1% +
Fentanyl 5µg/ml (nhóm B-F) và được giảm đau
sau mổ bằng phương pháp BNTKSĐ qua ngoài
màng cứng (PCEA) và 50 bệnh nhân được gây
mê toàn thể đơn thuần và được giảm đau bằng
phương pháp BNTKSĐ với Morphin (nhóm M)
qua đường tĩnh mạch (PCA), chúng tôi ghi
nhận như sau:
Về đặc điểm bệnh nhân: Hai nhóm trong
nghiên cứu này không có sự khác biệt về tuổi,
cân nặng, tình trạng bệnh và có điều trị bằng xạ
trị trước đó hay không cũng như thời gian gây
mê, thời gian phẫu thuật và lượng máu mất
trong mổ.
Về tính hiệu quả giữa hai phương pháp này
cho kết quả như sau:
1. Trong mổ, gây mê toàn thể phối hợp với
GTNMC có hiệu quả hơn so với gây mê toàn thể
đơn thuần:

- Mức độ đau lúc nghỉ và lúc ho hoặc vận
động ở nhóm có GTNMC thấp hơn so với nhóm
giảm đau bằng đường tĩnh mạch qua các giờ thứ
2, 6, 12, 24, 36 và 48 giờ sau mổ.
- Huyết động học, tỉ lệ xuất hiện tác dụng
phụ: buồn nôn, nôn và ngứa ở hai nhóm tương

đương nhau.
- Không có trường hợp nào bị suy hô hấp ở
cả hai nhóm và huyết động học sau mổ được ổn
định sau khi thực hiện phương pháp BNTKSĐ.
- Giảm tải công việc cho người điều dưỡng
do giảm đau tốt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

2.

3.

4.

5.

6.

- Huyết động học ổn định hơn, mức độ dao
động huyết áp ít hơn.
- Nồng độ thuốc mê isoflurane duy trì trong
cuộc mổ thấp hơn, lượng thuốc giảm đau
Fentanyl và giãn cơ Rocuronium sử dụng ít hơn
(p < 0,05).
- Thời gian rút nội khí quản sớm hơn.
2. Sau mổ,:

Gây Mê Hồi Sức


Nghiên cứu Y học

7.

8.

Beaubien G, Drolet P; Girard M; Grenier Y (2000), “Patientcontrolled epidural analgesia with fentanyl-bupivacaine:
influence of prior dural puncture”, Regional Anesthesia
and pain medicine, volume 25, No 3 (May-June), pp 254258.
Cassady JF; Lederhass G et al (2000), “A randomized
comparison of the effects of continuous thoracic epidural
analgesia and intravenous patient – controlled analgesia
after posterior spinal fusion in adolescents”, Region
anesthesia and pain medicine, volume 25, No 3 (May –
June): pp 246–253
Charghi R, Backman S; Christou N; Rouah F; Schricker T
(2003), “Patient-controlled IV analgesia an acceptable pain
management strategy in morbidly obese patients
undergoing gastric bypass surgery. A retrospective
comparison with epidural analgesia”, Regional Anesthesia
and pain, Canadian Journal of Anesthesia, 2003 / 50: 7/ pp
672–678.
Cohen BE, Hartman MB, Wade JT (1997), “Postoperative
pain control after lumbar spine fusion: patient-controlled
analgesia versus continous epidural analgesia”, Spine, 22:
pp 1892 -1897. Conference d’actualisation 2000, 42e
Congrès national d’anesthésie et réanimation, pp 87–100
Concha M, Dagnino J; Cariaga M; Aguilera J; Aparicio R;
Guerrero M (2004), “Analgesia after thoracotomy: epidural

fentanyl/bupivacaine compared with intercostal nerve
block plus intravenous morphine”, Journal of
cardiothoracic and vascular anesthesia, volume 18, issue 3,
June, pp 322–326.
Cooper DW, Turner G, (1993), “Patient-controlled
extradural analgesia to compare bupivacaine, fentanyl and
bupivacaine with fentanyl in the treatment of
postoperative pain”, Bristish J Anaesth. May; 70 (5) : pp
503–507.
De Leon-Casasola OA, Parker BM; Lema Mj ; Groth RI;
Orsini- Fuentes J. (1994), “Epidural analgesia versus
intravenous patient-controlled analgesia: Differences in
the postoperative course of cancer patients”, Region
Anesthesia; 19: pp 307-315.
Flisberg P, A. Rudin; R. Linnér and C. J. F. Lundberg
(2003) ; “Pain relief and safety after major surgery A
prospective study of epidural and intravenous analgesia

7


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

9.

10.

11.

12.


13.
14.

15.

16.

17.

18.

19.

20.

21.

22.

23.

in 2696 patients”; Acta Anaesthesiologica Scandinavica,
volume 47 issue 4; pp 457-465.
Fotiadis R. J., S. Badvie; M. D. Weston; T. G. Allen-Mersh
(2004), “Epidural analgesia in gastrointestinal surgery”,
British Journal of Surgery, 91: pp 828 – 841.
Gaiser RR (1998), “Epidural anesthesia”; In David E.
Longnecker, Ohn H. Tinker; Principle and practice of
anesthesiology; second edition, volume 2; Mosby-Year

Book; pp 1392-1406.
Gottschalk A, Freitag M et al (2004), “Quality of
postoperative pain using an intraoperatively placed
epidural
catheter after major lumbar spinal”,
Anesthesiology; volume 101, (July) : pp 175-180
Hemmerrling TM. DEAA, Nhiên Lê, Olivier JF, Choinier
JL, Basile F and Prieto I (2005), “Immediate extubation
after aortic valve surgery using high thoracic epidural
analgesia or opioid-based analgesia”, Journal of
cardiothoracic and vascular anesthesia, volume 19, issue 2,
April, pp 176 – 181.
Kehlet H (1994), “Postoperative pain relief – What is the
issue?”, British Journal Anesthesia, 72: pp 375-378.
Komatsu H, Matsumoto S. and Mitsuhata H. (1998),
“Comparison of patient-controlled epidural analgesia with
and without background infusion after gastrectomy”,
Anesthesia Analgesia, volume 87 (4), October, pp 907–910.
Licker M., Spiliopoulos A. and Tschopp J. M. (2003),
“Influence
of
thoracic
epidural
analgesia
on
cardiovascular autonomic control after thoracic surgery”,
British Journal of Anaesthesia, 91 (4) : pp 525-531
Liu S, Carpenter RL, Neal JM (1995),”Epidural anesthesia
and analgesia. Their role in postoperative outcome”,
Anesthesiology, 82: pp 1474-1506.

Loper KA, Ready. B. Downey. M. Sandler; A.N. Nessly M.
Rapp SE. Badner. N (1989), “Epidural morphine provides
greater pain relief than patient-controlled intravenous
morphine following cholecystectomy”, Anesthesia
Analgesia; 69: pp 826-828.
Mahon SV., Berry PD.; Jackson M.; Russell G.N. &
Penefather S.H. (1999), “Thoracic epidural infusions for
postthoracotomy pain: a comparison of fentanylbupivacaine mixtures versus fentanyl alone”, Anaesthesia,
volume 54, July, page 641 – 646.
Mann C, Yvan P et al (2000), “Comparison of intravenous
or epidural patient-controlled analgesia in elderly after
major abdominal surgery”, Anesthesiology, volume 92 (2),
February, pp 433-441.
Masayuki A, Hoka S. (1998), “Consideration of the optimal
epidural fentanyl doses in abdominal surgery”, Journal of
Clinical Anesthesia 10, pp 551- 556.
Nguyễn Quốc Trực (2005), “Điều trị ung thư cổ tử cung
giai đoạn IB – IIA tại Bệnh viện Ung bướu TP Hồ Chí
Minh”, Chuyên đề Ung bướu học, Hội thảo phòng chống
ung thư TP. Hồ Chí Minh, Phụ bản của tập 9, số 4, Đại học
Y Dược TP Hồ Chí Minh, tr. 520–530.
O’Harar JF, Cywinski JB et el (2004), “The effect of
epidural vs intravenous analgesia for posterior spinal
fusion surgery”, Pediatric Anesthesia, volume 14,
December, pp 1009 –1015.
Rimaitis K, Marchertiene I; Pavalkis D (2003) ;
“Comparison of two different methods of analgesia.

Gây
Mê Hồi Sức

8

24.

25.

26.

27.

28.

29.

Nghiên cứu Y học

Postoperative course after colorectal cancer surgery”,
Medicina, volume 39, No. 2 -
Steinberg RB.; Liu SS.; Wu CL.; Mackey DC.; Grass JA.;
Ahlén K and Jeppsson L (2002); “Comparison of
ropivacaine fentanyl patient-controlled epidural analgesia
with morphine intravenous patient-controlled analgesia
for perioperative analgesia and recovery after open colon
surgery”; Journal of Clinical Anesthesia, volume 14, issue
8, December, pages 571-577.
Silvasti M. and Pitkanen M. (2001), “Patient-controlled
epidural analgesia (PCEA) versus continuous epidural
analgesia
after
total

knee arthroplasty”; Acta
Anesthesiologica Scandinavica, volume 45, issue 4, April,
pp 471-476.
Teng YH, Hu JS; Tsai SK; Liew C; Lui PW (2004), “Efficacy
and adverse effects of patient-controlled epidural or
intravenous analgesia after major surgery”, Chang Gung
Med. J., December, 27 (12) : pp 877-886.
Trần Ngọc Mỹ (2006), “Hiệu quả giảm đau của gây tê
ngoài màng cứng trong và sau phẫu thuật lồng ngực”, Đại
hội Gây mê Hồi sức TP. Hồ Chí Minh lần thứ IV, ngày 23
tháng 9 năm 2006, Hội Y Học TP. HCM, tr. 101-109
Tsui Sl, Lee DK; Ng KF; ChanTY; Chan WS; Lo JW (1997) ;
“Epidural infusion of bupivacaine 0.0625% plus fentanyl
3.3 micrograms/ml provides better postoperative analgesia
than patient-controlled analgesia with intravenous
morphine after gynaecological laparotomy”, Anaesthesia
Intensive Care, Octorber; 25 (5) : pp 471–481.
Weinbroum AA (2005), “Superiority of postoperative
epidural over intravenous patient-controlled analgesia in
orthopaedic oncologic patients”, Surgery, 138: pp 869–876.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Gây Mê Hồi Sức

Nghiên cứu Y học

9



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Gây
10 Mê Hồi Sức

Nghiên cứu Y học



×