Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo một trường hợp viêm thận bể thận sinh khí trên bệnh nhân đái tháo đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (946.76 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP VIÊM THẬN BỂ THẬN SINH KHÍ TRÊN
BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Ngô Xuân Thái*

TÓM TẮT
Tổng quan: Viêm thận - bể thận sinh khí (emphysematous pyelonephritis) là tình trạng nhiễm trùng nặng,
hoại tử nhu mô thận đặc trưng bởi việc sản xuất khí trong nhu mô thận. Bệnh chủ yếu ảnh hưởng đến bệnh
nhân nữ bị bệnh đái tháo đường, và có thể xảy ra ở những trong trường hợp không có bế tắc niệu quản. Khí cácbon dioxide được tạo ra bởi quá trình vi khuẩn lên men đường (vốn dư thừa trong bệnh nhân đái tháo đường).
Triệu chứng ban đầu tương đối mơ hồ, nhưng thường có sự suy giảm đột ngột tổng trạng, cần phải điều trị khẩn
cấp. Việc điều trị bao gồm hồi sức, điều chỉnh rối loạn điện giải và đường huyết, dùng kháng sinh diệt được vi
khuẩn Gram âm. Giải quyết bế tắc đường tiết niệu bằng cách mở thận ra da hoặc đặt thông JJ. Phẫu thuật cắt bỏ
thận cần cân nhắc trong trường hợp khí khuếch tán rộng và nhu mô thận bị hủy hoại nặng.
Bệnh nhân: Chúng tôi báo cáo một trường hợp đầu tiên bị viêm thận bể thận sinh khí ở giai đoạn 3b trên cơ
địa đái tháo đường, có biến chứng nặng (choáng nhiễm trùng, suy thận, viêm phổi và rối loạn đông máu) được
điều trị thành công tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Từ khóa: Viêm thận-bể thận sinh khí, nhiễm trùng niệu, đái tháo đường.

ABSTRACT
REPORT ON ONE CASE WITH EMPHYSEMATOUS PYELONEPHRITIS AT DIABETIC PATIENT
Ngo Xuan Thai* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 499-504
Background: Emphysematous pyelonephritis (EPN) is a severe, necrotizing renal parenchymal infection
that is characterized by the production of intraparenchymal gas. EPN predominantly affects female diabetics, and
can occur in the absence of ureteric obstruction. One gaseous component—carbon dioxide—is generated by
bacterial fermentation of glucose (present in excess in diabetics). Patients with EPN show relatively vague
symptoms initially, but frequently undergo a sudden deterioration in their condition, necessitating urgent
medical attention. Treatment of patients with EPN comprises resuscitation, correction of any electrolyte and
glucose problems, and administration of antibiotics targeting Gram-negative bacteria. Ureteric obstruction, if


present, is relieved by a percutaneous nephrostomy or stent. Definitive management is by percutaneous drainage,
except when there is extensive diffuse gas with renal destruction; in this case, a nephrectomy is advised.
Patient: we report on one case of EPN staged 3b on a diabetic patient that has severe complications of septic
shock, acute renal failure, pneumonia and coagulation. We successfully treated at Chợ Rẫy hospital with
unilateral nephrectomy of the affected kidney.
Key words: Emphysematous pyelonephritis, EPN, urinary tract infections, UTIs, diabetes mellitus.
trong hệ thống thu thập, nhu mô thận, và / hoặc
MỞ ĐẦU
các mô quanh thận. Nếu khí chỉ hiện diện trong
Viêm thận - bể thận sinh khí
bể thận, mà không có trong nhu mô, được gọi là
(Emphysematous
Pyelonephritis:
EPN)
viêm bể thận sinh khí (Emphysematous Pyelitis).
(VTBTSK) là một bệnh nhiễm trùng hoại tử
VTBTSK thường xuất hiện ở những người mắc
nghiêm trọng của nhu mô thận, và tạo ra khí
Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: TS Ngô Xuân Thái
*

Chuyên Đề Thận Niệu

ĐT: 0918017034

Email:

499



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

bệnh đái tháo đường, và có triệu chứng tương tự
như viêm thận bể thận cấp tính. Tuy nhiên, diễn
biến lâm sàng của VTBTSK có thể trở nên
nghiêm trọng và đe dọa tính mạng nếu không
được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Trường hợp tiểu ra khí đầu tiên
(Pneumaturia) đã được báo cáo vào năm 1898,
kể từ đó, khoảng 200 trường hợp của VTBTSK
đã được báo cáo trong y văn thế giới. Báo cáo
này trình bày một trường hợp VTBTSK có nhiều
biến chứng nặng được phát hiện và điều trị kịp
thời tại bệnh viện Chợ Rẫy.

BỆNH ÁN
Bệnh nhân: Bùi V. Kh., nam, 35 tuổi, nghề
nghiệp: Nông dân, cư ngụ tại một tỉnh Tây
Nguyên.
Nhập viện bệnh viện Chợ Rẫy ngày 2/5/2011
với lý do vào viện là khó thở. Bệnh nhân có tiền
sử bệnh đái tháo đường tip 2 từ 4 năm trước, có
điều trị liên tục bằng insulin và tiền sử bị áp xe
gan và được điều trị phẫu thuật tại bệnh viện
Chợ Rẫy năm 2010. Tiền sử gia đình không ghi
nhận bệnh lý nội – ngoại khoa có liên quan.
Bệnh sử: Cách nhập viện một tháng, bệnh

nhân đau vùng hông lưng bên trái, tiểu gắt, sốt
nhẹ. Bệnh nhân điều trị tại bệnh viện tỉnh trong
một tuần, tình trạng bệnh có thuyên giảm nên
được xuất viện. Cách nhập viện 4 ngày, bệnh
nhân đau hông lưng bên trái nhiều kèm theo sốt,
lạnh run, sau đó đau lan hết nửa bụng cùng bên,
tiểu gắt buốt, thở mệt nhiều. Bệnh nhân nhập lại
bệnh viện tỉnh, và được chẩn đoán: Choáng
nhiễm trùng, viêm phổi, nhiễm trùng niệu, đái
tháo đường tip 2. Bệnh nhân được sơ cấp cứu và
chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy.
Thăm khám tại phòng cấp cứu cho thấy:
bệnh nhân có vẻ mặt nhiễm trùng, nhiễm độc rất
nặng, da nổi bông, thở nhanh. Mạch nhanh 108
lần/ phút, HA: 60/40 -90/60 mmHg (có dùng vận
mạch dopamine), nhịp thở 38 lần/phút. Thông
tiểu ra ít nước tiểu đục màu hồng lợt. Bệnh nhân
đau nửa bụng trái, bụng chướng căng. Ấn đau

500

hông lưng bên trái. Phổi có rales ẩm và rales nổ
cả hai bên.
Xét nghiệm cận lâm sàng: BUN: 57mg%,
Creatinine: 1,94 mg%. AST: 77 U/l, CRP: 119mg/l,
Procalcitonin>10 ng/ml. Bạch cầu: 38,49 G/l
(Neutro: 94,4 %), Hồng cầu: 3,18 T/l. Đo khí máu
động mạch cho thấy có toan chuyển hóa với pH
là 7.29, pCO2 = 39, p O2: 38, HCO3:19 mmol/l.
Có rối loạn đông máu với giảm tiểu cầu (37 G/l)

và thời gian prothrombin (PT) kéo dài 18,2 giây.
Phân tích nước tiểu thấy có nhiễm trùng tiểu với
nhiều bạch cầu: 250 BC/uL và nitrit (+). Siêu âm:
giãn đường mật trong và ngoài gan. X – quang
phổi có hình ảnh viêm phổi.
Phim X quang chụp bụng không chuẩn bị
thấy có nhiều bóng khí ở vùng bóng thận trái.
CT scan bụng: Tụ khí gần toàn bộ trong nhu mô
thận trái, kèm tụ khí khoang quanh thận, dọc
rãnh đại tràng trái, sau phúc mạc và bìu bên trái.
Tổn thương đông đặc nhu mô rải rác đáy phổi
hai bên (viêm phổi), tràn dịch màng phổi hai
bên, dịch ổ bụng.
Chọc dò hố thắt lưng bên trái ra ít mủ đặc,
hôi thối, xì nhiều hơi với áp lực mạnh. Kết quả
cấy mủ sau đó có vi khuẩn Klebsiella sp.
Chẩn đoán: Choáng nhiễm trùng do viêm
thận – bể thận trái hoại tử sinh khí (giai đoạn III
B), suy thận cấp, nhiễm trùng huyết, viêm phổi,
rối loạn đông máu, trên bệnh nhân bị đái tháo
đường phụ thuộc insulin.
Điều trị: Hồi sức chống choáng, kháng sinh,
truyền tiểu cầu sau đó bệnh nhân được chỉ định
mổ cấp cứu. Phương pháp phẫu thuật: cắt lọc
mô hoại tử và dẫn lưu cạnh thận.
Bệnh nhân được gây mê, đặt nằm nghiêng
phải. Mổ theo đường thắt lưng theo hướng đầu
xương sườn XII vào khoang sau phúc mạc. Các
lớp cân cơ tẩm nhuận dịch viêm. Mở cân Gérota
nhận thấy có nhiều hơi xì ra rất hôi kèm ít dịch

mủ. Lấy mủ cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ
tìm vi khuẩn thường và vi khuẩn kỵ khí. Nhu
thận bị hoại tử gần hết như mô não có màu tím
nhạt, cắt lọc mô hoại tử làm xét nghiệm giải
phẫu bệnh. Dẫn lưu cạnh thận bằng 2 ống drain.

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

1a

1b

Nghiên cứu Y học

1c

Hình 1: 1a- Phim chụp bụng không chuẩn bị cho thấy vùng bong thận phải bị che lấp bằng nhiều bong khí, 1b1c: Phim CT scan cắt ngang và cắt đứng ngang cho thấy nhu mô thận trái bị hủy hoại gần hết và khí lan tỏa gần
khắp thận và lan ra khoang quanh thận và cạnh thận, lan ra rãnh đại tràng trái.
Diễn tiến sau mổ: 9 ngày đầu sau mổ bệnh
nhân được điều trị tại khoa Săn sóc đặc biệt và
phải dùng máy thở và thuốc vận mạch
(Dopamine và Nor-Adrenaline) trong 3 ngày,
kháng sinh (Dalacin, Invanz sau đó dùng
Tienam, Ciprobay), Insulin Actrapid 50 UI sau
đó chuyển qua Insulin mixtard. Tình trạng
nhiễm trùng, viêm phổi, rối loạn đông máu và
chức năng thận có cải thiện, nhưng lượng đường

huyết luôn dao động không ổn định (99 – 458
mg%). Cấy tìm vi khuẩn kỵ khí không thấy vi
khuẩn mọc. GPBL: Viêm thận giai đoạn hoại tử.
BUN: 58 -90 - 87 mg%; Creatinine: 1,8 mg% - 2,28
– 1,25 mg%. HbA1c: 16 %. Bạch cầu máu: 46,27
G/l – 19,21 – 18,64 G/l.

Xạ hình thận: Suy giảm chức năng thận trái
nặng (GFR: 9,3 ml/phút). Chụp lại CT Scan bụng:
Tụ dịch quanh thận trái.
Bệnh nhân được phẫu thuật lần hai cắt bỏ
thận trái ngày 20/5/2011. Kết quả giải phẫu bệnh
lý: viêm thận mạn tính xơ hóa giai đoạn hoại tử.
Diễn tiến sau mổ lần hai rất thuận lợi và
bệnh nhân được xuất viện sau mổ 9 ngày. Chức
năng thận bình thường (creatinine: 0.9 mg%),
đường huyết được kiểm soát tốt.

Hậu phẫu ngày thứ 8 được ngừng thở máy
và chuyển qua thở oxy ẩm qua cannula.
Từ ngày hậu phẫu thứ 10 -18 bệnh nhân
được điều trị tiếp tại Khoa Tiết niệu. Dù tổng
trạng có hồi phục dần nhưng bệnh nhân suy kiệt
nặng . Ống dẫn lưu cạnh thận vẫn còn ra mủ.
Đường huyết vẫn rất dao động khó điều chỉnh
từ 69 – 410 mg%.
Bệnh nhận tiếp tục được điều trị với ba loại
kháng sinh: Dalacin C 1,5g/ngày, Tienam
1,5g/ngày, Ciprobay 0.4g/ngày.


Chuyên Đề Thận Niệu

2a

2b

Hinh 2: Hình ảnh CT scan sau mổ lần đầu 12 ngày
cho thấy còn rất ít khí ở trong nhu mô thận trái,
nhưng thận bị hoại tử gần như hoàn toàn.

501


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

BÀN LUẬN
VTBTSK đã được mô tả lần đầu tiên vào
năm 1898 (1,2,17). Các tác nhân gây bệnh phổ biến
nhất là Escherichia Coli (70%), tiếp theo là
Klebsiella pneumoniae (29%) và Proteus. Vi
khuẩn lên men đường trong nước tiểu và sinh ra
các khí nitơ, hydro, carbon dioxide, và oxygen.
90-95% các trường hợp VTBTSK xảy ra ở người
bị đái tháo đường. Sinh lý bệnh của VTBTSK
vẫn còn chưa rõ ràng. Điều này được chứng
minh dựa trên quan sát thấy rằng nhiễm trùng
tiểu rất hay gặp ở những bệnh nhân đái tháo
đường, nhưng chỉ một phần nhỏ của những

bệnh nhân này bị VTBTSK. Các yếu tố thuận lợi
đưa đến VTBTSK ở những người mắc bệnh đái
tháo đường có thể do không kiểm soát được
đường huyết và mức độ cao của hemoglobin
glycosyl hóa (72%) và cơ chế suy giảm miễn dịch
gây ra bởi các yếu tố tại chỗ như tắc nghẽn
đường tiết niệu (các khối u hoặc sỏi niệu) (1,5,17).
Dịch tễ học
Tuổi trung bình của bệnh nhân VTBTSK
được báo cáo là 55 (19-81 tuổi). Bệnh thường
gặp hơn ở phụ nữ (gấp 6 lần ở nam giới) (1,7,8,14,17).
Bệnh hay gặp ở bệnh nhân bị đái tháo đường
phụ thuộc hay không phụ thuộc insulin. Hiếm
có báo cáo bệnh xảy ra ở người không có bệnh
đái tháo đường, trong trường hợp này, có yếu tố
góp phần của suy thận và ức chế miễn dịch. Ở
những bệnh nhân này, 22% có bế tắc đường tiểu
trên, 4% có thận đa nang, và 4% có bệnh thận
giai đoạn cuối. Tắc nghẽn là nguyên nhân chính
của VTBTSK ở những người không bị đái tháo
đường. Thận bên trái bị ảnh hưởng nhiều hơn
so với bên phải. Trường hợp VTBTSK hai bên
cũng đã được báo cáo.

Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
Theo Schainuck, gần như ở tất cả bệnh nhân
đều có tam chứng kinh điển: sốt, nôn ói và đau
vùng hông lưng. Tiểu ra khí chỉ gặp khi nhiễm
trùng lan đến hệ thống đài bể thận (1,17).
Bệnh nhân thường bị sốt (79%), đau bụng

hoặc mạn sườn (71%), buồn nôn và nôn (17%),

502

khó thở (13%), suy thận cấp (35%), thay đổi cảm
giác (19%), sốc (29%), và giảm tiểu cầu (46%). Có
những tiếng lép bép (crepitus) trên vùng mạn
sườn có thể xảy ra trong trường hợp VTBTSK
nặng. Tiểu ra khí ít gặp trừ khi có viêm bàng
quang sinh khí. Tràn khí dưới da và tràn khí
trung thất gần đây đã được báo cáo trong trường
hợp của VTBTSK(4). Có thai cũng có thể có biến
chứng VTBTSK(15). VTBTSK hai bên cũng đã
được báo cáo. Những bệnh đi kèm bao gồm
nghiện rượu, suy dinh dưỡng, sỏi thận, và đái
tháo đường nhiễm ceton acid.
Bệnh nhân của chúng tôi bị bệnh đái tháo
đường đã lâu và có gần như đầy đủ các triệu
chứng kể trên trừ tràn khí dưới da và tràn khí
trung thất.
Cận lâm sàng: trong trường hợp báo cáo này,
chúng tôi nhận thấy có đầy đủ các dấu hiệu hình
ảnh điển hình trong các phương tiện chẩn đoán
hình ảnh (hình 1 và hình 2) với sự hiện diện của
rất nhiều khí ở khu vực thận và quanh thận. Xét
nghiệm cũng cho thấy có tình trạng tăng bạch
cầu và giảm tiểu cầu, tăng procalcitonin máu,
tăng creatinin và đường huyết.
Liên quan đến hình ảnh X quang chụp bụng
không chuẩn bị, điển hình là có hình ảnh khí

trong hệ thống đài bể thận và sỏi tại khúc nối bể
thận-niệu quản. Trong đau bụng cấp tính, X
quang chụp bụng không chuẩn bị có thể giúp
chẩn đóan phân biệt các bệnh ngoại tổng quát,
hay bệnh mạch máu (như phình động mạch) và
các chẩn đoán tiết niệu khác.
Siêu âm bụng có thể xác nhận sự hiện diện
của VTBTSK trong khoảng 80% các trường
hợp(10), trong khi độ nhạy của CT scan là 100%(9).
Vì vậy, CT scan là bắt buộc để chẩn đoán
VTBTSK khi nghi ngờ.

Phân loại
Năm 1996, Wan và cs mô tả 2 tip VTBTSK
riêng biệt (12,15). Phân loại VTBTSK hiện được
đồng ý nhiều nhất được mô tả bởi Huang và cs
(2000) dựa trên CT, phân loại này được điều
chỉnh phân loại trước đây được đề xuất bởi

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Michaeli và cs (1984)(8). Phân loại này cơ bản mô
tả các vị trí giải phẫu của khí trên CT scan:
Nhóm 1 - khí giới hạn trong hệ thống đài bể
thận.
Nhóm 2 - khí giới hạn trong nhu mô thận.
Nhóm 3a - khí lan rộng ra quanh thận hoặc
có áp xe.

Nhóm 3b - khí lan vượt ra ngoài cân Gerota.
Nhóm 4 - VTBTSK hai bên hoặc VTBTSK
một bên trên thận đơn độc.
Hiện nay đa số tác giả đồng ý rằng cắt bỏ
thận là điều trị lựa chọn trong hầu hết các
trường hợp VTBTSK(3). Nếu chỉ được điều trị
bằng thuốc kháng sinh, VTBTSK có tỷ lệ tử vong
cao (40%)(1). Huang và cs kết luận rằng nhóm 1
và nhóm 2 VTBTSK có thể được điều trị bằng
kháng sinh và mổ dẫn lưu thận(5). Trong nhóm 3
và nhóm 4, nếu có sự hiện diện của ít hơn hai
yếu tố nguy cơ (giảm tiểu cầu, suy thận cấp,
sững sờ / hôn mê và sốc) chỉ cần phẫu thuật mở
thận ra da qua da và dùng kháng sinh (thành
công trong 64% trường hợp). Tuy nhiên, nếu có
ba hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ trên, cắt
thận mang lại kết quả tốt hơn. Tỷ lệ tử vong là
15-20% trong hai báo cáo khác, trong đó cắt thận
là điều trị lựa chọn(5).
Aswathaman và cộng sự (2008) báo cáo một
nghiên cứu trên 41 bệnh nhân VTBTSK, 80%
bệnh nhân được điều trị thành công bằng kháng
sinh, mở thận ra da qua da mà không cần cắt bỏ
thận(1).
Bệnh nhân của chúng tôi bị VTBTSK nhóm
3b, đã được điều trị kháng sinh thích hợp và
phẫu thuật cắt lọc mô hoại tử và dẫn lưu cạnh
thận. Tuy nhiên bệnh cảnh sau đó không cải
thiện nhiều, nhất là đường huyết luôn dao động,
do đó cắt thận đã được quyết định để giải quyết

ổ nhiễm trùng.

KẾT LUẬN
VTBTSK là một bệnh gây biến chứng nặng
và có tỉ lệ tử vong cao, là một trường hợp cấp
cứu ngoại khoa.. Chẩn đoán nhanh và chính xác
kết hợp với điều trị tích cực và kịp thời giúp

Chuyên Đề Thận Niệu

Nghiên cứu Y học

giảm tử vong trong những trường hợp có bế tắc
đường tiết niệu kèm đái tháo đường. Cần can
thiệp phẫu thuật sớm ở bệnh nhân có sỏi thận
hay sỏi niệu quản kèm đái tháo đường để phòng
ngừa VTBTSK, do 90% các trường hợp biến
chứng nặng này xảy ra ở bệnh nhân bị đái tháo
đường. Trong trường hợp lâm sàng này, chúng
tôi đã điều trị thành công bệnh nhân mắc bệnh ở
giai đoạn 3b.
Chẩn đoán dựa vào: lâm sàng (đau lưng, sốt
cao, buồn nôn) và cận lâm sàng: siêu âm bụng,
phim KUB, và đặc biệt là CT scan bụng (có hơi
trong thận và khoang quanh thận).
Nguyên tắc điều trị: cần phối hợp các
chuyên khoa khác nhau (Nội tiết, Huyết học, Săn
sóc đặc biệt, Ngoại Tiết niệu), phối hợp các biện
pháp nội khoa (hồi sức chống choáng, kháng
sinh, điều chỉnh đường huyết….) và ngoại khoa

(cắt lọc mô hoại tử, dẫn lưu ổ nhiễm trùng, dẫn
lưu thận, cắt bỏ thận). Cắt thận sau khi đã đánh
giá chức năng của hệ tiết niệu và khi lâm sàng
không cải thiện. Giải quyết bế tắc nếu có. Điều
chỉnh đường huyết.
Phòng ngừa biến chứng nặng này ở bệnh
nhân đái tháo đường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

Aswathaman K, Gopalakrishnan G, Gnanaraj L, Chacko NK,
Kekre NS, Devasia A (2008). Emphysematous pyelonephritis:
outcome of conservative management. Urology; 71(6):1007-9.
Aziz F, S Penupolu, S. Doddi, A. Rodriguez, A. Obiefuna (2011),
Emphysematous pyelonephritis in type II diabetes: A case
report, The Internet Journal of Urology, 8(1).
Chen MT, Huang CN, Chou YH, Huang CH, Chiang CP, Liu

GC (1997). Percutaneous drainage in the treatment of
emphysematous pyelonephritis: 10-year experience. J Urol.
157(5):1569-73.
Cheng YT, Wang HP, Hsieh HH (2001). Emphysematous
pyelonephritis in a renal allograft: successful treatment with
percutaneous drainage and nephrostomy. Clin Transplant.
15(5):364-7.
Huang JJ, Tseng CC (2000). Emphysematous pyelonephritis:
clinicoradiological classification, management, prognosis, and
pathogenesis. Arch Intern Med. 160(6):797-805.
Huang JJ, Chen KW, Ruaan MK (1991). Mixed acid
fermentation of glucose as a mechanism of emphysematous
urinary tract infection. J Urol. 146(1):148-51.
Langston CS, Pfister RC (1970). Renal emphysema. A case
report and review of the literature. Am J Roentgenol Radium
Ther Nucl Med;110(4):778-86.

503


Nghiên cứu Y học
8.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Michaeli J, Mogle P, Perlberg S, Heiman S, Caine M (1984).
Emphysematous pyelonephritis. J Urol. 131(2):203-8.
9. Pontin AR, Barnes RD, Joffe J, Kahn D (1995). Emphysematous
pyelonephritis in diabetic patients. Br J Urol. 75(1):71-4.
10. Schainuck LI, Fouty R, Cutler RE (1968). Emphysematous

pyelonephritis. A new case and review of previous
observations. Am J Med; 44(1):134-9.
11. Shokeir AA, El-Azab M, Mohsen T, El-Diasty T.
Emphysematous pyelonephritis: a 15-year experience with 20
cases. Urology. Mar 1997;49(3):343-6.
12. Schaeffer AJ, Schaeffer EM (2012). Emphysematous
pyelonephritis, Chapter 10 –Infections of the urinary tract,
Campbell-Walsh Urology, 10th ed. Saunders. An Imprint of
Elsevier., Philadelphia, Pennsylvania, pp.299-301.

504

13. Wan YL, Lo SK, Bullard MJ, Chang PL, Lee TY (1998).
Predictors of outcome in emphysematous pyelonephritis. J
Urol.159(2):369-73.
14. Tang HJ, Li CM, Yen MY, et al (2001). Clinical characteristics of
emphysematous pyelonephritis. J Microbiol Immunol Infect.
34(2):125-30.
15. Wan YL, Lee TY, Bullard MJ, Tsai CC (1996). Acute gasproducing bacterial renal infection: correlation between imaging
findings and clinical outcome. Radiology. 198(2):433-8.
16. Wang YC, Wang JM, Chow YC, Chiu AW, Yang S (2004).
Pneumomediastinum and subcutaneous emphysema as the
manifestation of emphysematous pyelonephritis. Int J Urol.
11(10):909-11.
17. Yang WH, Shen NC (1990). Gas-forming infection of the urinary
tract: an investigation of fermentation as a mechanism. J
Urol;143(5):960-4.

Chuyên Đề Thận Niệu




×