Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ứng dụng test bruckner trong việc chẩn đoán sớm tật khúc xạ ở trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.89 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

ỨNG DỤNG TEST BRUCKNER TRONG VIỆC CHẨN ĐOÁN SỚM
TẬT KHÚC XẠ Ở TRẺ EM
Vũ Phương Việt Hằng*, Trần Anh Tuấn**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của test Bruckner trong việc phát hiện các tật khúc xạ ở trẻ em. Các giá trị
chẩn đoán của test: Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá tri tiên đoán dương, giá tri tiên đoán âm, tỷ lệ dương tính giả, tỷ lệ
âm tính giả.
Phương pháp: Đối tượng nghiên cứu là trẻ em từ 6 tháng đến 16 tuổi. Thực hiện test Bruckner, sau đó dựa
vào kết quả của test là vị trí và kích thước liềm đồng tử để xác định tật khúc xạ cho trẻ em. Liềm ở phía trên là
viễn thị, liềm ở phía dưới là cận thị, liềm ở vị trí bất kỳ là loạn thị. Test này so với soi bóng đồng tử.
Kết quả: Khám 135 đối tượng, tuổi trung bình là 8,3±0,19. Test được tiến hành ở tất cả các đối tượng tham
gia nghiên cứu. Thầy thuốc khám 270 mắt, trong đó 88 mắt chính thị, 182 mắt có tật khúc xạ gồm 36 mắt viễn
thị, 108 mắt cận thị, 38 mắt loạn thị. 88 mắt chính thị. Test Bruckner có độ nhạy là 84%, độ đặc hiệu là 86%, giá
trị tiên đoán dương 95%, giá trị tiên đoán âm 62,5%.
Kết luận: Test Bruckner có thể sử dụng để chẩn đoán sớm tật khúc xạ cho trẻ em. Test có chi phí thấp, đơn
giản để phát hiện tật khúc xạ. Test này khách quan, đơn giản và có thể sử dụng cho những trẻ chưa biết nói, hoặc
những trẻ không hợp tác với những phương pháp chẩn đoán tật khúc xạ khác.
Từ khoá: Test Bruckner, tật khúc xạ.

ABSTRACT
BRUCKNER TEST IN DETECTING AMBLYOPIA IN CHILDREN
Vu Phuong Viet Hang, Tran Anh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 6 - 11
Purpose: To evaluate the efficiency of Bruckner test in detecting amblyopia in children. The predicting
values of the test: sensibility, specificity, posivity predictive value, negative predictive value, false posivity rate,
false negative rate.


Methods: The research's subject was children between 6 months to 16 years old. The Bruckner test was
performed, then based on the result of the test which is the position and size of the pupillary crescent to determine
the amblopia for children. Myopic eye will have the lower crescent, presbyopic will have the upper crescent,
astigmatic eyes will have the random crescent. Then compare this test with skiascopi
Result: The test was done on 135 patients, the average age was 8.3±0.19. The test was performed in all 135
patients attended. The ophthalmologist checked 270 eyes, 88 of those were chính thị, 182 eyes were amblyopic
with 36 presbiopic eyes, 108 myopic eyes and 38 astigmatic eyes. The Brucker test has: Sensibility: 84%.
Specificity: 86%. Positive Predictive Value: 95%. Negative Predictive Value: 62.5%. False posivity rate: 16%.
False negative rate: 14%.
Conclusion: Subjective refraction and skiascopy are still considered the best methods or "gold standard" for
prescribing amplyopia in children fast and early. However, it is still a difficult to detect amplyopia in children
* Khoa Mắt, Trung tâm Phòng chống Bệnh xã hội Gia Lai, ** Bộ môn Mắt ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Vũ Phương Việt Hằng

6

ĐT: 0983192585

Email:

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

that still do not have the ability to talk or determine images yet, or children with mental disorder. Bruckner test is
a method that can solve these basic problems.The Bruckner test can be used to detect amblyopia early in children.
The test has low cost, simple to detect amblyopia in preverbal or inaccorporate children.

Keywords: Bruckner’s test, refraction.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tật khúc xạ là một trong nhưng nguyên
nhân hàng đầu gây giảm thị lực ở nước ta cũng
như trên thế giới. Trong những năm gần đây, xu
hướng trẻ em mắc tật khúc xạ ngày càng sớm và
gia tăng theo độ tuổi. Tật khúc xạ ảnh hưởng rất
lớn đến quá trình lao động và học tập cũng như
chất lượng cuộc sống. Nếu tật khúc xạ không
được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ để lại
những tổn hại rất nặng nề và một số biến chứng
nguy hiểm. Vì vậy, vấn đề chẩn đoán sớm và
nhanh tật khúc xạ là một việc rất quan trọng, có
tính chất quyết định đối với việc cải thiện sớm
thị lực cho bệnh nhân. Tuy nhiên trên thực tế,
việc thăm khám khúc xạ cho trẻ em không đơn
giản, dễ dàng và nhanh chóng như ở người lớn,
vì nhóm đối tượng này có những đặc thù riêng,
nhận thức và tâm sinh lý chưa ổn định. Kết quả
của việc thăm khám phụ thuộc vào nhiều yếu tố
chủ quan cũng như khách quan.
Thông thường có 3 phương pháp đánh giá
tật khúc xạ: phương pháp Donders (hay
phương pháp thử kính), phương pháp soi bóng
đồng tử, và phương pháp đo khúc xạ tự động.
Các phương pháp này đã được áp dụng từ lâu
và đem lại nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, những
phương pháp này hầu như chỉ thực hiện được ở
những trẻ đã lớn, nhận diện được mặt chữ, hình

ảnh, và được khám ở những cơ sở y tế có đầy
đủ phương tiện kỹ thuật. Còn đối với trẻ nhỏ
chưa nhận diện được mặt chữ, hình ảnh, chưa
có ý thức phối hợp, thì việc khám và xác định
tật khúc xạ thực sự khó khăn. Không thể xác
định cận thị, viễn thị hay loạn thị nếu trẻ em
chưa đọc được bảng chữ, chưa nhận diện được
khuôn mặt. Sự đánh giá thị lực của trẻ thường
tốn thời gian, đòi hỏi phải có sự hợp tác tốt vì
phần lớn trẻ nhỏ không thích người lạ mặt và
không chịu bất cứ một hành động nào lên mặt
của chúng. Vấn đề trên còn khó khăn hơn đối

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

với những trẻ có vấn đề về tâm thần và ở
những trẻ bị câm điếc,...
Test Bruckner là một phương pháp có thể
giải quyết cơ bản các vấn đề khó khăn nêu
trên(2,3,6). Đây là một phương pháp chẩn đoán
nhanh và sớm tật khúc xạ ở các trường hợp khác
nhau, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ. Phương pháp
này dễ dàng được thực hiện bởi bác sĩ nhi khoa,
bác sĩ gia đình cũng như các nhân viên chăm sóc
sức khỏe. Để đánh giá sự phù hợp, mức độ hiệu
quả của test Bruckner trong việc sàng lọc và phát
hiện sớm tật khúc xạ ở trẻ em, cần có một nghiên
cứu đầy đủ và chi tiết về test này.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu
Tổng cộng có tất cả 135 bệnh nhân (270
mắt) trong nghiên cứu này. Bệnh nhân đến từ
phòng khám khúc xạ của Bệnh viện Mắt
Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 6 năm 2009
đến tháng 6 năm 2010.
Bệnh nhân được chẩn đóan có tật khúc xạ
hay bình thường và đồng ý tham gia nghiên
cứu. Loại trừ những trường hợp bệnh nhân có
bệnh lý về mắt ảnh hưởng đến việc định thị như
rung giật nhãn cầu, lác, bệnh lý ảnh hưởng đến
môi trường trong suốt như đục dịch kính, xuất
huyết dịch kính, đục thể thủy tinh hoàn toàn,
bệnh lý bẩm sinh về mắt như lệch thể thủy tinh,
bệnh nhân có biểu hiện về tâm thần.
Chúng tôi chọn bệnh nhân có tuổi từ 06
tháng đến 16 tuổi.

Thực hiện test Bruckner
Bệnh nhân ngồi trong phòng tối, người
thực hiện test Bruckner ngồi cách đối tượng
nghiên cứu 1m. Cả 2 mắt của trẻ được chiếu
sáng đồng thời bằng đèn soi đáy mắt trực tiếp,
trẻ phải nhìn thẳng vào đèn soi. Thầy thuốc
nhìn qua đèn soi đáy mắt và điều chỉnh thị

7


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011


Nghiên cứu Y học

kính cho đến khi thấy được ánh phản chiếu
đồng tử hội tụ sắc nét.
Đo liềm đồng tử bằng thước theo mẫu. Tùy
thuộc vào kích thước và vị trí của liềm đồng tử
sẽ ghi nhận được là cận thị, loạn thị, viễn thị.
Liềm ở phía trên là viễn thị, liềm ở phía dưới là
cận thị, liềm ở vị trí bất kỳ là loạn thị.

Các giá trị chẩn đoán của test Bruckner
Giá trị chung
Khả năng chẩn đoán của test được tính bằng
độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán âm, tiên
đoán dương, tỷ lệ âm tính, dương tính giả. Tính
theo bảng 2x2 ta có kết quả như sau:
Bảng 3. Độ nhạy, độ đặc hiệu và các giá trị của test

Xử lý số liệu thống kê
Tập hợp các số liệu thu được qua các phương
pháp theo từng thông số
Vị trí liềm đồng tử, kích thước liềm đồng tử
của test Bruckner.
Độ kính cầu, kính trụ và trục của phương
pháp soi bóng đồng tử.
Cách tính các giá trị của test.

Test B (+)
Test B(-)

Tổng

PPSBĐT(-)
b
d
b+d

Tổng
a+b
c+d
a+b+c+d

Các tỷ lệ tính được
Độ nhạy (Se): tỷ lệ dương tính thật, là tỷ lệ
test chẩn đoán đúng tật khúc xạ bằng cả hai PP
(a/a+c).
Độ đặc hiệu (Sp): tỷ lệ âm thật, là tỷ lệ test
chẩn đoán không tật khúc xạ bằng cả hai PP
(d/b+d).
Giá trị tiên đoán dương (PPV): a/a+b.
Giá trị tiên đoán âm (NPV): d/c+d.

KẾT QUẢ
Nghiên cứu được thực hiện trên 135 bệnh
nhân (270 mắt), tuổi trung bình là 8,3±0,9, tỷ lệ
nam/nữ là 69/66.Kết quả đạt được như sau:

Tỷ lệ các tật khúc xạ được xác định bằng
test Bruckner và soi bóng đồng tử
Bảng 2. Kết quả hai phương pháp

Chính thị
Viễn thị
Cận thị
Loạn thị
Tổng

8

Test Bruckner
88(32,6%)
36(13,3%)
108(40%)
38(14,1%)
270(100%)

PPSBĐT(-)
9
55
64

Tổng
182
88
270

Độ nhạy Se = 173/206 = 0,84.
Độ đặc hiệu Sp = 55/64 = 0,86.
Giá trị tiên đoán dương (PPV) = 173/182 =
0,95.
Giá trị tiên đoán âm (NPV) = 55/88 = 0,625.


Bảng 1. Cách tính độ nhạy - độ đặc hiệu.
PPSBĐT(+)
A
C
a+c

Test Bruckner (+)
Test Bruckner (-)
Tổng

PPSBĐT(+)
173
33
206

Soi bóng đồng tử
64(23,6%)
16(5,9%)
85(31,5%)
108(39%)
270(100%)

Tỷ lệ dương tính giả = 1- Sp = 14%.
Tỷ lệ âm tính giả = 1- Se = 16%.

Độ nhạy, độ đặc hiệu theo loại tật khúc xạ
Bảng 4. Độ nhạy, độ đặc hiệu theo loại tật khúc xạ
Độ nhạy
Độ đặc hiệu


Viễn thị
50%
89%

Cận thị
85%
80%

Loạn thị
35,2%
99,4%

Độ nhạy, độ đặc hiệu theo nhóm tuổi
Bảng 5. Độ nhạy, độ đặc hiệu theo nhóm tuổi
Độ nhạy
Độ đặc hiệu

6 tháng - 4
tuổi
93%
93%

5-8
tuổi
81%
93%

9 - 12
tuổi

82%
76%

13 - 16 tuổi
89%
67%

BÀN LUẬN
Trong 270 mắt được chia theo 4 nhóm tuổi
khác nhau.
Test Bruckner phát hiện chủ yếu là tật cận
thị ở tất cả các nhóm. Nhóm từ 0 – 4 tuổi 4,8%,
nhóm 5 – 8 tuổi 9,6%, nhóm 9 – 12 tuổi 19,6%,
nhóm 13 – 16 tuổi 5,9%. Ở nhóm tuổi từ 6 tháng
đến 12 tuy ít nhưng chúng tôi vẫn phát hiện
được tật viễn thị và loạn thị, còn từ 13 tuổi đến
16 tuổi, chúng tôi chỉ phát hiện được 1 trường
hợp viễn thị. Điều này có thể giải thích là do ở
độ tuổi này trẻ đã phát triển hoàn chỉnh về thị
giác nên tật viễn thị sẽ giảm. Ở độ tuổi nhỏ hơn

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
10 tuổi sự phát triển thị giác chưa được hoàn
chỉnh nên có thể có các trường hợp viễn thị giả.
Trong nghiên cứu này kết quả tật khúc xạ
chung mà test Bruckner phát hiện là 67%.
Kết quả này cũng tương đối phù hợp với kết

quả của tác giả Khothari (Ấn Độ)(5,4) là 68%,
nhưng tác giả Cibis G.W. (Mỹ)(1) là 87%. Sở dĩ có
sự khác nhau này, có thể do chúng tôi so sánh
test với phương pháp soi bóng tử và tác giả
Khothari so sánh test Bruckner với phương pháp
đo khúc xạ tự động sau liệt điều tiết, cả hai
phương pháp soi bóng đồng tử và khúc xạ tự
động đều có thể có những sai số nhất định. Còn
tác giả Gerhard thực hiện test Bruckner bằng
máy Photoscreenner, máy này hoạt động dựa
vào nguyên lý giống như đèn soi đáy mắt trực
tiếp và có thể chụp được hình liềm đồng tử một
cách chính xác nên khả năng phát hiện tật khúc
xạ của tác giả này sẽ rất cao.
Phương pháp soi bóng đồng tử phát hiện tật
loạn thị là chủ yếu, sau đó là tật cận thị, phương
pháp soi bóng đồng tử cũng không phát hiện
được trường hợp viễn thị nào và tỷ lệ phát hiện
tật khúc xạ chung của phương pháp này là 76%.
Trong nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Bích
Thủy, kết quả soi bóng đồng tử không liệt điều
tiết có tỷ lệ tật khúc xạ chung là 93,26%, trong đó
tật loạn thị nhiều nhất (46,57%), sau đó là cận
đơn thuần (38,6%) và viễn đơn thuần (14,83%).

Nghiên cứu Y học

Giá trị tiên đoán dương (PPV) = 95%.Giá trị
tiên đoán âm (NPV) = 62,5%. Sau khi thực hiện
test, khả năng bệnh nhân bị tật khúc xạ là 95%.

Tỷ lệ dương tính giả = 1- Sp = 14%.(Có
khoảng 14% test chẩn đoán dương không
đúng trên số không bệnh). Tỷ lệ âm tính giả =
1- Se = 16%. Có khoảng 16% test chẩn đoán âm
không đúng trên số có bệnh. Hoặc nói chính
xác hơn: tỷ lệ dương tính giả là 14%, tỷ lệ âm
tính giả 16%. Khả năng không có tật khúc xạ
nhưng chẩn đoán có tật khúc xạ là 14%, khả
năng có tật khúc xạ nhưng chẩn đoán không
có tật khúc xạ là 16%.
Tỷ số khả dĩ dương là 6 test rất có giá trị
chẩn đoán, tỷ số khả dĩ âm là 0,18.
Bảng 6. Độ nhạy, độ đặc hiệu của các tác giả.
Tác giả

Độ Độ đặc
nhạy hiệu
91% 72,8%
88%
98%

Khothari
Lexa W.
Lee
V.P.V.Hằng 84%

86%

Giá trị tiên
đoán dương

85,5%
99%

Giá trị tiên
đoán âm
83,6%
69%

95%

62.5%

Ở đây, có sự khác biệt về độ nhạy và độ đặc
hiệu. Tác giả Khothari so sánh test Bruckner với
phương pháp khúc xạ tự động sau liệt điều tiết,
tác giả Lexa W. Lee(6) so sánh test Bruckner với
kết quả thử thị lực bằng bảng Snellen nên độ
nhạy và độ đặc hiệu có thể chênh lệch nhau giữa
các tác giả.

Nhưng trong nghiên cứu này, chúng tôi thực
hiện phương pháp soi bóng đồng tử làm tiêu
chuẩn vàng để so sánh với test Bruckner nên
chúng tôi chỉ so sánh kết quả của mình với một
số tác giả khác thực hiện test Bruckner.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi so sánh test
Bruckner với phương pháp soi bóng đồng tử, do
chưa có một nghiên cứu nào ở Việt Nam nói về
hiệu quả của test Bruckner nên trong quá trình

thực hiện có thể có những sai số mà chúng tôi
chưa có kinh nghiệm để khắc phục.

Giá trị chung:

Độ nhạy, độ đặc hiệu theo loại tật khúc xạ

Theo bảng 4, chúng tôi có độ nhạy và độ đặc
hiệu như sau:

Tât cận thị
Độ nhạy = 84%, độ đặc hiệu = 86%.

Độ nhạy: Se = 84%. Độ đặc hiệu: Sp = 86%. Ở
test này cả độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao, cho
thấy khả năng phát hiện bệnh của test rất cao và
chỉ có khoảng 14% (1- Sp) số không bệnh bị chẩn
đoán nhầm.

Tật viễn thị
Độ nhạy = 50%, độ đặc hiệu = 89%.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

Tật loạn thị
Độ nhạy = 37,5%, độ đặc hiệu = 99,4%.

9



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Ở test này khả năng phát hiện bệnh cận thị
là cao nhất, 84% trường hợp bệnh được chẩn
đoán đúng, tuy nhiên vẫn có 16% (1- Sp) dương
giả tức là số không bệnh bị chẩn đoán nhầm.
Đối với tật viễn thị thì độ nhạy là 50%, tức là chỉ
có 50% số bệnh được chẩn đoán đúng, nhưng độ
đặc hiệu là 89%. Đối với tật loạn thị thì độ nhạy
chỉ có 35%, nhưng độ đặc hiệu là 99%, tức là chỉ
có 35% số bệnh được chẩn đoán đúng nhưng với
mức chính xác 99%.
Khi thực hiện test này, chúng tôi nhận thấy
rằng test này dễ phát hiện người cận thị, bởi vì
độ nhạy và độ đặc hiệu của tật cận thị đều cao.
Trong khi đó, ở người loạn thị và viễn thị,
chúng tôi khó phát hiện hơn và có thể nhầm
lẫn tật loạn thị thành cận thị. Chính vì vậy, độ
nhạy của tật cận thị cao hơn những tật khúc xạ
khác. Ngược lại, độ đặc hiệu của tật loạn thị là
cao nhất nhưng độ nhạy lại là thấp nhất, bởi vì
thực tế khi thực hiện test Bruckner, kết quả chỉ
phát hiện được tật loạn thị đơn thuần chứ
không phân biệt được loạn viễn hay loạn cận.
Khi thực hiện test, thấy liềm sáng đồng tử ở vị
trí bất kỳ thì kết luận loạn thị, nên độ đặc hiệu
của loạn thị cao.


Độ nhạy, độ đặc hiệu của tật khúc xạ theo
lứa tuổi
Test Bruckner cũng bị ảnh hưởng bởi lứa
tuổi, cụ thể:
Ở nhóm tuổi từ 06 tháng đến 4 tuổi, độ nhạy
và độ đặc hiệu đều là 93%. Do vậy, ở lứa tuổi
này khả năng phát hiện bệnh là rất cao. Điều
này có thể giải thích vì ở lứa tuổi này chưa bị
ảnh hưởng nhiều bởi lực điều tiết, nên mức độ
chính xác của tật khúc xạ được chẩn đoán cao.
Nhóm tuổi từ 5 đến 8 tuổi, độ nhạy là 81%
và độ đặc hiệu là 93%. Ở nhóm tuổi này độ nhạy
có giảm hơn so với nhóm từ 6 tháng tuổi đến 4
tuổi, vì ở lứa tuổi này bắt đầu bị ảnh hưởng bởi
lực điều tiết tăng, nên độ nhạy giảm.
Nhóm tuổi từ 9 đến 12 tuổi, độ nhạy là 82%
và độ đặc hiệu là 76%. Ở nhóm tuổi này độ nhạy
tiếp tục giảm hơn so với nhóm từ 5 đến 8 tuổi, vì

10

ở nhóm tuổi này có lực điều tiết mạnh nhất
trong khi tật khúc xạ bị ảnh hưởng bởi lực điều
tiết, kéo theo độ chính xác trong chẩn đoán tật
khúc xạ sẽ giảm.
Nhóm tuổi từ 13 đến 16 tuổi, độ nhạy là 89%
và độ đặc hiệu là 67%. Ở nhóm tuổi này thì độ
nhạy lại tăng lên, nhưng độ đặc hiệu lại
thấp.Điều này có thể do ở lứa tuổi này lực điều
tiết bắt đầu giảm và tật khúc xạ ít bị ảnh hưởng

bởi lực điều tiết hơn, nên độ nhạy tăng lên.

KẾT LUẬN
Hiệu quả của test Bruckner trong việc phát
hiện các tật khúc xạ so với phương pháp
soi bóng đồng tử
Dựa vào vị trí và kích thước của liềm đồng
tử, ta có thể xác định được các loại tật khúc xạ.
Trong đó test Bruckner phát hiện tốt tật cận thị,
nhưng đối với tật loạn thị thì test chỉ phát hiện
được loạn thị đơn thuần chứ không phát hiện
được loạn thị phối hợp.
Còn đối với phương pháp soi bóng đồng tử
thì phương pháp này hiện nay vẫn là tiêu chuẩn
vàng để phát hiện tật khúc xạ ở trẻ em. Và thực
tế phương pháp này có thể phát hiện được công
suất khúc xạ ở mức nhỏ nhất là 0.25D và có thể
phát hiện tốt tật loạn thị bao gồm cả loạn viễn và
loạn cận.

Giá trị chẩn đoán của test Bruckner
Test có giá trị chẩn đoán cao với độ nhạy là
84%, độ đặc hiệu là 86%, giá tri tiên đoán dương
là 95%, tiên đoán âm là 62,5%, tỷ lệ dương tính
giả là14%, tỷ lệ âm tính giả là 16%.
Đối với các loại tật khúc xạ thì test có khả
năng phát hiện tốt nhất tật cận thị với độ
nhạy là 85% và độ đặc hiệu là 80%. Trong khi
đó tật viễn thị độ nhạy là 50% và độ đặc hiệu
89%, tật loạn thị có độ nhạy là 35% và độ đặc

hiệu là 99%.
Đối với tật khúc xạ theo độ tuổi, thì khả
năng phát hiện tật khúc xạ ở nhóm tuổi từ 6
tháng đến 4 tuổi là cao nhất với độ nhạy và độ
đặc hiệu là 93%.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

Cibis GW (1994). “Video vision developement assessment
(VVDA): combining the Bruckner test with eccentric
photorefraction fr dynamic identification of emblyogenic
factors in infants and children”. Am. Ophthal., SOC XC II.
Cibis GW, Tongue AC (1981). “Bruckner test”. Ophthalmology;
88(10): 1041 – 1044.
Griffin CS (1986). “The Bruckner test: evaluation of clinical
usefulness”. Am. J.Optom. Physio. Opt.; 63(61): 957.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

4.

5.


6.

7.

Nghiên cứu Y học

Kothari MT (2003). ““Can the Bruckner test be used as a rapid
screening test for the detection of emblyogenic factors in
developing country?”. Am. Orthlop.; 23(6): 122.
Kothari MT (2007). “Can the Bruckner test be used as a rapid
screening test to detect significant refractive errorsin
children?”. Indian J. Ophthalmol.; 55(5): 213.
Lexa WL (2007). “Bruckner test useful for detecting reduced
vision in children?”. American Academy of Ophthalmology
Annual meeting scientific PA 051.
Walker K, Watts P, Beck L (1999). “Photoscreening for
refractive errors in children and young adults with severe
learning disabilities using MTI photo-screener”. Eye; 13(8): 363.

11



×