Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Hiểu biết và thái độ của người dân đối với tài liệu truyền thông tin về phòng chống sốt xuất huyết tại một số địa bàn khu vực phía Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.53 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

HIỂU BIẾT VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI DÂN ĐỐI  
VỚI TÀI LIỆU TRUYỀN THÔNG TIN VỀ PHÒNG CHỐNG  
SỐT XUẤT HUYẾT TẠI MỘT SỐ ĐỊA BÀN KHU VỰC PHÍA NAM 
Lê Công Minh*, Lê Đức Hạnh* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tài liệu truyền thông (TLTT) in là một phương tiện hỗ trợ tích cực và góp phần đem lại hiệu 
quả truyền thông. Đặc biệt là hằng năm, hầu như các trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe (TT GDSK) 
đều có sản xuất TLTT in, nhưng chưa có khảo sát nào đánh giá sự phù hợp của những tài liệu này với người dân 
tại địa phương. Vì vậy, nhằm tìm kiếm những giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả của các TLTT in về phòng 
chống sốt xuất huyết (SXH), nghiên cứu này được tiến hành. 
Mục tiêu: Khảo sát hiểu biết và thái độ của người dân đối với TLTT in về phòng chống SXH tại một số địa 
bàn khu vực phía Nam, năm 2013. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu định tính.  
Kết quả: Người dân có thể nhận biết đúng thông điệp hai hình là ngủ mùng và hình đậy kín lu chứa nước. 
Các hình ảnh còn lại có nhiều điểm chưa phù hợp: kích thước quá nhỏ, màu sắc tối, độ phân giải thấp, bố cục chưa 
hợp lý nên một số người dân không nhận ra đầy đủ các chi tiết trong hình, không nhận biết đúng thông điệp mà 
hình muốn truyền tải hay hiểu nhầm ý của một số hình. Không có người dân nào hiểu được thông điệp của tất cả 
hình ảnh trong tài liệu. Người dân có thể đọc và hiểu được phần lớn các nội dung có trong các tài liệu, ngoại trừ 
một số từ ngữ không phù hợp. Sau khi xem phối hợp giữa phần hình ảnh và nội dung, người dân hiểu được các 
nội dung trong tài liệu rõ hơn, nhưng rất ít người tham gia phỏng vấn sâu hiểu toàn bộ nội dung của tài liệu. 
Theo ý kiến người dân thì tài liệu còn thiếu sự hài hòa về màu sắc, quá nhiều thông tin, một số hình ảnh minh 
họa cho nội dung chưa đặt tương xứng. Một số người dân tham gia phỏng vấn sâu cho rằng không thích màu sắc 
của tài liệu và cho rằng tài liệu chưa phù hợp với phong tục, tập quán tại địa phương họ đang sinh sống.  
Kết luận: Đa số người được phỏng vấn chưa hiểu đúng về nội dung của TLTT in về phòng chống sốt xuất 


huyết. TLTT in trong khảo sát đã sử dụng từ ngữ chưa phù hợp: nhiều chữ, nhiều nội dung không cần thiết, từ 
không phù hợp với vùng miền, từ chuyên môn, từ tiếng anh, từ sai chính tả. Một số người dân tham gia phỏng 
vấn sâu cho rằng tài liệu chưa phù hợp với phong tục, tập quán tại địa phương họ. 
Từ khóa: Tài liệu truyền thông in, phòng chống sốt xuất huyết. 

ABSTRACT 
KNOWLEDGE AND ATTITUDE OF PEOPLE TOWARDS PRINTED COMMUNICATION 
MATERIALS ON PREVENTING DENGUE FEVER  
IN SOME AREAS IN THE SOUTH OF VIETNAM 
Le Cong Minh, Le Duc Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 298 – 304 
Background: Printed communication materials are instruments which support and contribute to effective 
communication.  Although  most  of  the  Centers  for  Health  Communication  and  Education  produce  them  every 
year, no survey is carried out to assess the suitability of these materials for the local people. Therefore, in order to 
look  for  solutions  for  further  improving  the  efficiency  of  printed  communication  materials  on  dengue  fever 
* Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Ths. Lê Công Minh  

298

ĐT: 0918 712 374  

Email:   

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học


 
prevention, this study was conducted.  
Objectives:  To  survey  knowledge  and  attitude  of  people  towards  printed  communication  materials  on 
dengue fever prevention in some areas in the south of Vietnam, in 2013. 
Methods: Qualitative research. 
Result:  The  people  could  identify  the  right  message  of  two  pictures  featuring  repectively  sleeping  in  a 
mosquito net and closing tightly water containers. The other images had many inappropriate points: too small 
sizes, dark colours, low resolution, and illogical layout. Therefore, some people did not realize all the details of the 
images and not identify correctly the message or confuse the mean of message. No one understood the messages of 
all the images in the document. People could read and understand most of the contents in the documents, except 
some inappropriate words. After observing both the images and contents, participants understood more clearly the 
contents  of  the  documents.  However,  a  few  participants  involving  in  the  in‐depth  interviews  understood  the 
entire  contents  of the  documents.  According  to  some respondents, there  was  a  lack  of harmony in  colours, too 
much information, and some pictures were put in inappropriate places. Some of the participants in the in‐depth 
interviews reported that they did not like the colours of the materials and said that the documents did not conform 
to the local customs and culture.  
Conclusion:  The  majority  of  interviewees  did  not  understand  properly  the  content  of  the  printed 
communication  materials  about dengue  fever prevention. The  percentage  of people  receiving  material  was  low. 
Most interviewees neither read nor preserved them. The words in materials were not appropriate: many letters, 
many unnecessary contents, unsuitability for the region, usage of specialised words and/or English words, and 
many misspelled words.  
Keywords: printed communication materials, dengue fever prevention. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Truyền thông giáo dục sức khỏe (TT GDSK) 
là  một  quá  trình  nhằm  giúp  người  dân  tự  thay 
đổi những hành vi có hại cho sức khỏe, để chấp 
nhận  thực  hiện  những  hành  vi  tăng  cường  sức 
khỏe. Vì vậy, TT GDSK đóng vai trò quan trọng 
trong việc bảo vệ và nâng cao sức khỏe của cộng 

đồng. TT GDSK là tiêu chí thứ 10 trong bộ tiêu 
chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011 – 2012 và là 
nhiệm vụ thứ 7 trong 7 nhiệm vụ trọng tâm của 
ngành y tế giai đoạn 2011 – 2016(1,3). Phương tiện 
truyền  thông  là  phương  tiện  giúp  người  giáo 
dục sức khỏe chuyển tải thông điệp sức khỏe tới 
các  đối  tượng  đích.  Việc  sử  dụng  hiệu  quả  các 
phương tiện truyền thông sẽ góp phần nâng cao 
hiệu  quả  hoạt  động  TT  GDSK.  Có  nhiều  loại 
phương tiện khác nhau được dùng để chuyển tải 
các thông tin trong giáo dục sức khỏe và TLTT in 
là một trong những phương tiện hỗ trợ tích cực 
và góp  phần  đem  lại  hiệu  quả  trong hoạt  động 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

này.  Việt  Nam  là  quốc  gia  có  bệnh  Sốt  xuất 
huyết  (SXH)  lưu  hành.  Vì  vậy,  truyền  thông  là 
biện pháp quan trọng và không thể thiếu trong 
việc  giúp  người  dân  thay  đổi  hành  vi  phòng 
chống bệnh này. Đặc biệt là hằng năm, hầu như 
các trung tâm TT GDSK các tỉnh đều có sản xuất 
TLTT  in, nhưng  chưa  có  khảo  sát nào  đánh giá 
sự  phù  hợp  của  những  tài  liệu  này  với  người 
dân  tại  địa  phương.  Vì  vậy,  nghiên  cứu  “Hiểu 
biết  và  thái  độ  của  người  dân  đối  với  tài  liệu 
truyền thông in về phòng chống Sốt xuất huyết 
tại  một  số  địa  bàn  khu  vực  phía  Nam”  được 
thực hiện nhằm tìm kiếm những giải pháp nâng 
cao hơn nữa hiệu quả của các TLTT in về phòng 

chống SXH. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu chung 
Khảo  sát  hiểu  biết  và  thái  độ  của  người 
dân  đối  với  TLTT  in  về  phòng  chống  SXH  tại 
một số địa bàn khu vực phía Nam, năm 2013. 

299


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Mục tiêu cụ thể 
Khảo sát hiểu biết của người dân về TLTT in 
phòng  chống  bệnh  SXH:  Hình  ảnh,  nội  dung, 
tổng thể tài liệu. 
Tìm hiểu thái độ của người dân về TLTT in 
phòng  chống  bệnh  SXH:  Hình  ảnh,  nội  dung, 
tổng thể tài liệu. 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu định tính 

Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu định tính 


Cỡ mẫu và đối tượng nghiên cứu 
200  người  dân  đại  diện  hộ  gia  đình  (100 
người dân tham gia phỏng vấn sâu và 100 người 
dân tham gia 10 cuộc thảo luận nhóm) tại 5 tỉnh 
thuộc  khu  vực  phía  Nam,  bao  gồm:  Bà  Rịa  – 
Vũng Tàu, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Bình Dương và 
Tiền Giang, nghiên cứu thực hiện từ tháng 4 đến 
tháng 12/2013.  

Công cụ nghiên cứu 
Phỏng vấn bộ câu hỏi bán cấu trúc, tờ rơi, áp 
phích, tranh lật.  

Kiểm soát sai lệch thông tin 
Tập huấn cho đội ngũ phỏng vấn viên, giải 
thích rõ mục đích và mục tiêu nghiên cứu, nhấn 
mạnh tính bảo mật, kêu gọi sự hợp tác và ủng hộ 
của đối tượng nghiên cứu, đặt câu hỏi với những 
từ ngữ rõ ràng, dễ hiểu và bộ câu hỏi được thử 
nghiệm  trong  đợt  giám  sát  hỗ  trợ  tại  tỉnh  Hậu 
Giang. 

Phân tích và xử lý số liệu 
Nhập liệu: Word 2007, excel 2007. 

Vấn đề Y đức 
Đối  tượng  được  giải  thích  rõ  về  mục  đích, 
cách thức thực hiện nghiên cứu cũng như quyền 
và  quyền  lợi  khi  đối  tượng  tham  gia.  Đảm  bảo 
sự  thuận  tiện  và  thoải  mái  về  mặt  thời  gian  và 

không gian khi tiến hành nghiên cứu. Đối tượng 
được  quyền  từ  chối  tham  gia  nghiên  cứu  và  từ 
chối  cung  cấp  những  thông  tin  mà  đối  tượng 

300

không  muốn,  cũng  như  dừng  nghiên  cứu  giữa 
chừng và kết quả nghiên cứu chỉ được sử dụng 
cho mục đích khoa học. 

KẾTQUẢ ‐ BÀN LUẬN 
Người dân tham gia phỏng vấn sâu phân bố 
trong những nhóm tuổi khác nhau, nhiều nhất là 
người dân trong độ tuổi 41‐50 tuổi, riêng ở tỉnh 
Bạc  Liêu  thì  người  dân  ở  độ  tuổi  31‐  40  tuổi 
chiếm tỷ lệ cao nhất và ở Bà Rịa – Vũng Tàu là 
độ tuổi ≤30 tuổi. Người dân tham gia thảo luận 
nhóm phần lớn ở độ tuổi ≤30 tuổi, ngoại trừ tỉnh 
Tiền  Giang,  người  dân  ≥60  tuổi  chiếm  tỷ  lệ  cao 
nhất và ở Bình Dương là người dân ở độ tuổi 51‐
60.  Phần  lớn  đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu  là 
nữ.  Đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu  chủ  yếu  là 
dân tộc Kinh, tiếp đến là dân tộc Khơme và dân 
tộc  Hoa,  dân  tộc  Tày.  Người  dân  tham  gia 
nghiên cứu có trình độ học vấn chủ yếu là cấp 1, 
cấp 2 và cấp 3. Nhưng người dân có trình độ học 
vấn  cấp  2  chiếm  nhiều  nhất.  Người  dân  không 
theo tôn giáo nào (chỉ thờ cúng ông bà) chiếm tỷ 
lệ cao nhất và sau đó là phật, thiên chúa, cao đài 
và tin lành. 


Hiểu biết của người dân về TLTT in phòng 
chống bệnh SXH 
Hiểu  biết  của  người  dân  về  hình  ảnh  trong 
TLTT in phòng chống bệnh SXH 
Bên  cạnh  hình  ảnh  ngủ  mùng  và  hình  đậy 
kín lu chứa nước được người dân hiểu một cách 
dễ dàng, thì đa số hình ảnh còn lại trong các tài 
liệu chỉ có một số ít người dân có thể hiểu đúng 
hay tất cả người dân đều không hiểu được. Kết 
quả  khảo  sát  tại  năm  tỉnh  cho  thấy  chưa  đến 
phân nửa đối tượng được phỏng vấn nhận biết 
được  hình  muỗi  vằn  gây  bệnh  SXH  trên  TLTT 
in. Một số người dân nhầm con muỗi là con bọ 
xít hay con cào cào, châu chấu. Và trong những 
người dân nhận ra được hình con muỗi thì còn 
lẫn lộn giữa muỗi vằn và muỗi anophen: 
“…con muỗi bụng bự, vằn vằn, đen đen, bụng có 
màu  hồng…  đây  là  muỗi  Anophen  gây  bệnh  SXH” 
(PVS –BD‐13);  

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
“Lâu lâu cũng thấy có con muỗi vằn gây SXH, à 

nó cũng có thể gây Sốt rét nữa” (PVS‐BR‐VT‐2).  
Trong  cuộc  sống  đời  thường  người  dân  chỉ 
nhìn  thấy  được  giai  đoạn  lăng  quăng  và  giai 
đoạn muỗi nên khi xem hình vòng đời của muỗi, 
phần lớn người dân chỉ nhìn ra con muỗi và con 
lăng quăng nhưng rất ít người nhận ra giai đoạn 
trứng  và  giai  đoạn  nhộng.  Một  số  người  cũng 
không nhận biết đúng giai đoạn lăng quăng khi 
xem hình: “ừ..cái này nó…nó như con nòng nọc vậy 
á” (PVS‐BD‐6); “con này không biết con gì ấy chứ” 
(PVS‐BD‐8). Tất cả người dân được khảo sát đều 
không  nhận  biết  đúng  hình  ảnh  lăng  quăng 
trong  áp  phích  sử  dụng  khảo  sát  tại  tỉnh  Tiền 
Giang: “…con gì có lông trông thấy ghê, đầu nó thì 
to giống  con chồn và  đuôi giống  đuôi  con  tôm  ấy… 
cũng  không  biết  hình  này  muốn  nói  lên  điều  gì...” 
(TLN‐TG‐1); “Mới nhìn vô tưởng đâu con sâu, nhìn 
kỹ giống con tôm”(TLN‐TG‐2). Vòng đời của muỗi 
trong tờ rơi dùng khảo sát tại tỉnh BR‐VT có đến 
5  giai  đoạn,  trong  đó  có  thêm  giai  đoạn 
“Quăng”,  mà  tất  cả  người  dân  được  khảo  sát 
không biết giai đoạn này. 

người  dân  không  hiểu  như:  “trung  gian”,  “thủ 
phạm”  và  “véc  tơ  truyền  bệnh”.  Và  trong  nội 
dung  về  dấu  hiệu  của  bệnh  SXH  có  những  từ 
như:  “sốc”,  “căng  da  không  mất”,  “căng  da 
mất”,  “sốt  cao  đột  ngột”,  “nhãn  cầu”,  ký  hiệu 
“oC”  và  câu:  “Sốc (là dấu hiệu nặng) thường gặp ở 
ngày thứ 3 đến thứ 6 của bệnh, đặc biệt khi thấy trẻ 

đang sốt cao tự nhiên hết sốt” khiến một số người 
dân không hiểu được. 
“…sao không hiểu nè, đang sốt cao tự nhiên hết 
sốt, cái này không biết luôn, sốt cao 5‐6 ngày, không 
trị  thì  làm  sao  hết  sốt,  cái  này  không  biết...khó  hiểu 
quá à!”(PVS‐VL‐19). 
Đa  số  người  dân  hiểu  đúng  những  nguy 
hiểm của bệnh SXH là: không có thuốc trị, không 
có thuốc phòng, có thể gây tử vong, có thể gây 
nhiều người mắc và tổn hại tiền của và sức khỏe. 
Tuy  nhiên  trong  phần  này  có  một  số  từ:  “đặc 
hiệu”, “vắc xin”, “dịch”, người dân không hiểu 
được và đặc biệt với ký hiệu “<15t”, nhiều người 
dân  bỏ  qua  dấu  “<”  vì  không  biết  và  một  số 
người cho rằng ký hiệu “<“ là dấu “mở ngoặc” 
và một số khác thì hoàn toàn không đọc được cả 
cụm ký hiệu “<15t”. 

Như vậy, sau khi được che kín phần chữ và 
xem từng hình một, thì hầu hết người dân có thể 
nhận  biết  đúng  thông  điệp  hai  hình,  như  được 
trình bày ở phần đầu. Các hình ảnh còn lại của 
tài  liệu,  thì  vẫn  còn  một  số  người  dân  không 
nhận  ra  đầy  đủ  các  chi  tiết  trong  hình,  không 
nhận  biết  đúng  thông  điệp  mà  hình  muốn 
truyền  tải  hay  hiểu  nhầm  ý  của  hình.  Vì  vậy, 
không  có  người  tham  gia  phỏng  vấn  sâu  nào 
hiểu  được  thông  điệp  của  toàn  bộ  hình  ảnh  có 
trong  tài  liệu  được  xem.  Đa  số,  người  dân  chỉ 
hiểu  được  1/2  đến  2/3  các  thông  điệp  mà  hình 

ảnh sử dụng trong các tài liệu muốn truyền tải. 

Người dân có thể đọc và hiểu được phần lớn 
các  nội  dung  về  biện  pháp  phòng  chống  SXH. 
Tuy  nhiên,  tên  một  số  loại  dụng  cụ  chứa  nước 
người dân không biết như: “chum vại”, “bát kê 
chân  chạn”,  “ống  bơ”,  “thau  cọ”.  Trong  nội 
dung này có một số lỗi chính tả không đáng có, 
khiến  người  dân  bối  rối  khi  đọc  và  không  thể 
hiểu được như: “bị giếng”, “mành tẩm hóa chất 
diệt muỗi”. Khi che phần hình ảnh và xem từng 
câu, từng đoạn trong phần nội dung người dân 
có thể đọc và hiểu được phần lớn các nội dung 
của tài liệu, ngoại trừ một số điểm nêu trên. 

Hiểu biết của người dân về nội dung của TLTT 
in phòng chống bệnh SXH 

Hiểu  biết  của  người  dân  khi  xem  tổng  thể 
TLTT in phòng chống bệnh SXH 

Khi đọc phần nội dung về nguyên nhân gây 
SXH, người dân hiểu được rằng muỗi vằn chính 
là loài muỗi gây bệnh SXH và muỗi vằn truyền 
mầm bệnh từ người bệnh sang người lành. Tuy 
nhiên, trong nội dung này có sử dụng một số từ 

Khi  xem  phối  hợp  giữa  phần  hình  ảnh  và 
phần nội dung thì người dân hiểu được các nội 
dung trong tài liệu rõ hơn. Tuy nhiên, có một số 

điểm,  sau  khi  xem  tổng  thể  tài  liệu,  người  dân 
vẫn  không  hiểu  được  như:  ký  hiệu  “<15t”,  và 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

301


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
một  số  từ  như:  “Aedes  aegypti”,  “Aedes 
albopictuc”,  “vi  rút  dengue”  “oresol”, 
“paracetamol”, “aspirin”, “ORS” và “Mê‐zô”. 

Thái  độ  của  người  dân  về  TLTT  in  phòng 
chống bệnh SXH 
Thái độ của người dân về hình ảnh của TLTT 
in phòng chống bệnh SXH 
Hình  ảnh  dùng  để  minh  họa  cho  nội  dung 
và  có  thể  nâng  cao  hiệu  quả  của  TLTT  khi  sử 
dụng  đúng  cách.  Trong  các  tài  liệu,  đa  số  các 
hình ảnh được sử dụng là hình ảnh thật, chỉ có 
một số ít là hình vẽ. Việc sử dụng hình ảnh thật 
được  chụp  từ  thực  tế  sẽ  tạo  được  sự  hấp  dẫn, 
thuyết  phục  và  thúc  đẩy  người  xem  thực  hiện 
theo hành động trong hình ảnh hơn là các hình 
vẽ(2).  Song,  một  số  hình  ảnh  sử  dụng  trong  tài 

liệu còn nhiều điểm chưa phù hợp: 
Bên cạnh những hình ảnh có kích thước phù 
hợp,  đa  số  người  dân  có  thể  nhìn  rõ  được,  vẫn 
còn có một số hình có kích thước quá nhỏ khiến 
người  dân  không  nhìn  rõ  hay  hình  ảnh  được 
phóng  to  hơn  so  với  thực  tế  nhiều  lần  khiến 
người  dân  không  nhận  ra.  Như  nhận  xét  của 
người dân về áp phích sử dụng khảo sát tại tỉnh 
Tiền Giang: 
“…lăng  quăng  trong  hình  có  màu  sáng  hơn  ở 
ngoài, có lông trông rất ghê, đầu nó thì to giống con 
chồn và đuôi giống đuôi tôm … cũng không biết hình 
này muốn nói lên điều gì...” (TLN‐TG‐1).  
Áp  phích  thường  được  sử  dụng  để  dán  tại 
nơi  công  cộng,  đông  người  qua  lại:  Ủy  ban, 
Trạm Y tế, trường học, chợ… và người dân phải 
nhìn thấy được hình khi đứng cách áp phích 6m. 
Vì vậy, một áp phích chỉ nên trình bày một hình 
ảnh và một thông điệp rõ ràng, sáng sủa sao cho 
người  xem  có  thể  hiểu  ngay(4).  Tuy  nhiên,  hình 
ảnh được sử dụng trong một số áp phích có kích 
thước quá nhỏ và có nhiều hình ảnh trên một áp 
phích. Việc sử dụng quá nhiều hình trên một áp 
phích  sẽ  làm  giảm  kích  thước  của  hình  ảnh  và 
người  dân  sẽ  không  nhìn  thấy  được  dễ  dàng. 
Như  vậy,  tài  liệu  sẽ  không  đem  lại  hiệu  quả 

302

truyền thông như mong muốn. Một số hình ảnh 

trong các tài liệu có màu sắc tối, chưa làm nổi bật 
hình ảnh  chủ  đạo  như một  nhận  xét  của người 
dân về áp phích tại BR‐VT: “… màu tối mà người 
phụ nữ lại mặc đồ màu tối nên hình mờ hơn, không 
thấy rõ..”(TLN –BR‐VT ‐2). 
Trong  tài  liệu  có  sử  dụng  hình  ảnh  có  độ 
phân giải thấp khiến hình mờ, nhòe, người dân 
không nhìn rõ. Như hình về dấu hiệu xuất huyết 
sử dụng trong tờ rơi khảo sát tại tỉnh Vĩnh Long, 
rất  ít  người  dân  nhận  ra  dấu  hiệu  này  vì  hình 
mờ: “hai cái giò bị bầm tím…hai bàn chân bé bị muỗi 
đốt nhiều lần quá…da không bình thường, có những 
đốm  trắng…không  biết  bị  bệnh  gì  mà  da  nổi  lên 
những cái này, không hiểu chưa thấy ai bị giống như 
vầy…” (PVS‐VL‐2,7).  
“…hình  mờ  quá  vậy  nè,  không  biết  đang  làm 
gì… ba đứa nhỏ cầm cây gì đó, không thấy.…” (PVS‐
BD‐17). 
Một số hình có bố cục chưa hợp lý, hình ảnh 
chủ đạo thể hiện thông điệp chưa đập vào mắt 
người  xem.  Như  hình  ảnh  khuyến  cáo  người 
dân dùng nhang muỗi nhưng hình nhang muỗi 
được đặt ở vị trí sát góc bên dưới, người dân rất 
khó  nhìn  thấy,  mà  đập  vào  mắt  người  xem  là 
hình  ảnh  em  bé  đang  ngồi  học  trên  một  chiếc 
bàn và ghế quá cao: “…bàn ghế kích thước như vậy 
quá  cao  cho  em  bé,  à  em  bé  ngồi  học  bàn  ghế  không 
đúng kích thước…”(TLN‐BR‐VT‐2).  Nên  hầu  như 
không người dân nào nhận biết đúng thông điệp 
của hình này. 

Một  số  hình  ảnh  không  còn  phù  hợp  với 
người dân địa phương. Hình bỏ muối vào chén 
kê chân tủ đựng thức ăn là hoàn toàn không phù 
hợp  vì người  dân  ở  các địa phương được  khảo 
sát  cho  biết  họ  không  còn  sử  dụng  loại  tủ  này 
nữa: “…ở đây người ta ít dùng tủ này, mà hình như 
không  xài  ấy  chứ,  …”(PVS‐BD‐12).  Hình  về  dọn 
dẹp  vệ  sinh  môi  trường  với  hình  ảnh  nhà  sàn, 
hoàn  toàn  không  phù  hợp  với  người  dân  các 
tỉnh  vùng  đồng  bằng “… ở đây không có lùm cây 
giống  vầy,  toàn  nhà  không  hà…mà  nhà  này  không 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
giống như nhà ở đây … uhm giống nhà sàn hơn…” 
(PVS‐BR‐VT‐4). 

Thái  độ  của  người  dân  về  nội  dung  TLTT  in 
phòng chống bệnh SXH 
Có một số nội dung được trình bày với kiểu 
chữ mà theo người dân là khó đọc: “chữ sốt xuất 
huyết để như vầy khó đọc” (PVS‐VL‐3). Và theo đa 
số  người  dân  thì  kích  thước  chữ  trong  tài  liệu 
nhỏ  nên  khó  khăn  khi  đọc,  đặc  biệt  là  người 

người lớn tuổi, trình độ học vấn thấp hay người 
ít  tiếp  xúc  với  chữ:  “  …hơi  nhỏ,  to  xíu  nữa,  lớn 
tuổi, cỡ như tui là khó thấy…”(PVS‐BR‐VT‐12). 
Bên cạnh những điểm chưa phù hợp về mặt 
hình thức thì trong nội dung có một số từ ngữ sử 
dụng  không  phù  hợp  như:  Sử  dụng  từ  chuyên 
môn, một số ký hiệu và từ viết tắt trong tài liệu 
người  dân  không  thể  đọc  và  hiểu  được,  từ  ít 
thông dụng tại địa phương, từ sai chính tả. Một 
số  tài  liệu  sử  dụng  quá  nhiều  chữ  khiến  người 
dân  đọc  mệt  và  đa  số  không  đủ  kiên  nhẫn  đọc 
hết tài liệu. Theo ý kiến người dân thì không nên 
ghi tên khoa học của muỗi mà chỉ cần ghi “muỗi 
vằn”  thì người  dân dễ dàng hiểu  được  hay ghi 
“nước  biển  khô”  thay  cho  “oresol”;  “súc”  hoặc 
“chà”  thay  cho  từ  “thau  cọ”;  “lu”  hoặc  “khạp” 
thay  cho  từ  “chum  vại”  thì  phù  hợp  với  người 
dân hơn, đặc biệt là người dân các tỉnh khu vực 
phía Nam.  
“ …không cần ghi tên A..dé..gì vậy nề, ghi muỗi 
vằn thì người dân mới đọc được, mới hiểu được, chứ 
ghi tiếng Anh thế này là chịu…” ( PVS‐VL‐11). 

Thái  độ  của  người  dân  về  tổng  thể  TLTT  in 
phòng chống bệnh SXH 
Một số tài liệu còn thiếu sự hài hòa về màu 
sắc,  bên  cạnh  đó,  tài  liệu  còn  chứa  quá  nhiều 
thông  tin  và  thông  tin  quá  chi  tiết  khiến  người 
xem  mệt  mỏi  và  không  muốn  xem  tài  liệu: 
“…đọc  mệt  quá,  hơi  đau  đầu,  …  giờ  rối  quá  rồi...” 

(PVS‐BD‐12).  Hình  ảnh  và  nội  dung  trong  tài 
liệu nhằm minh họa, làm rõ cho nhau nhưng có 
một  số  hình  ảnh  và  nội  dung  chưa  được  đặt 
tương ứng. Tài liệu còn có nhiều điểm cần thay 
đổi  để  phù  hợp  hơn  với  người  dân.  Một  số 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

người  dân  tham  gia  phỏng  vấn  sâu  cho  rằng 
không thích màu sắc của tài liệu và cho rằng tài 
liệu  chưa  phù  hợp  với  phong  tục,  tập  quán  tại 
địa phương họ đang sinh sống.  

KẾT LUẬN  
Nghiên cứu cho thấy đa số người dân chưa 
hiểu  đúng  thông  điệp  của  các  hình  ảnh  và  nội 
dung  của  tài  liệu.  Phần  lớn  hình  ảnh  được  in 
trên  TLTT  được  khảo  sát  tại  các  tỉnh  còn  nhiều 
điểm  cần  chỉnh  sửa:  kích  thước  quá  nhỏ  hoặc 
quá to, hình mờ, nhòe, màu sắc tối... Và việc sử 
dụng  từ  ngữ  trong  các  TLTT  in  chưa  phù  hợp: 
nhiều  chữ,  nhiều  nội  dung  không  cần  thiết, 
không phù hợp với vùng miền, còn dùng nhiều 
từ chuyên môn, từ tiếng anh, nhiều từ sai chính 
tả. Điều này  đã  ảnh hưởng đến  việc hiểu đúng 
thông điệp của hình ảnh và nội dung trong các 
TLTT in của người dân. 

KIẾN NGHỊ 
Để  góp  phần  cải  thiện  những  vấn  đề  trên, 

trong  quá  trình  sản  xuất  TLTT  cần  có  những 
khảo sát về văn hóa, phong tục tập quán, kinh tế, 
xã hội của người dân để có những hình ảnh và 
từ ngữ phù hợp. Đồng thời cần tiến hành nghiên 
cứu  đánh  giá  tác  động  và  hiệu  quả  của  TLTT 
nhằm đưa ra quyết định thể loại TLTT về phòng 
chống SXH nào sẽ sản xuất trong tương lai. Bên 
cạnh đó cần có một qui chế hướng dẫn in ấn, sản 
xuất  TLTT  in  nói  riêng  và  TLTT  đại  chúng  nói 
chung. Trong đó, thử nghiệm TLTT là quy trình 
bắt buộc trong quá trình sản xuất, in ấn. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Bộ Y tế (2011). Quyết định về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về y 
tế 
xã 
giai 
đoạn 
2011 
‐ 
2020. 
/>Bo‐tieu‐chi‐quoc‐gia‐y‐te‐xa‐giai‐doan‐2011‐2020‐
vb131308.aspx. Truy cập ngày 23/10/2013. 

2.

Centers  for  Disease  Control  and  Prevention  (2009).  A guide for 
creating 

easy‐to‐understand 
materials. 
www.cdc.gov/healthliteracy/pdf/simply_put.pdf.  Accessed  on 
12/9/2014. 

3.

Trung  tâm  Truyền  thông  Giáo  dục  Sức  khỏe  Trung  Ương 
(2012). 7 nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế giai đoạn 2011 – 2016. 
Hà Nội. Tr. 1‐2. 

303


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
4.

Trương Trọng Hoàng (2003). Sản xuất tài liệu nghe nhìn giáo dục 
sức khỏe. Trung tâm giáo dục và truyền thông thành phố Hồ Chí 
Minh. Tr. 4‐8. 

 

Ngày nhận bài báo:  

 


 

14/5/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

16/6/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

14/11/2014 

 

 

304

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 



×