Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghiên cứu sự thay đổi chỉ số đông máu cơ bản ở thai phụ qua các thai kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.06 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013

Nghiên cứu Y học 

NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI CHỈ SỐ ĐÔNG MÁU CƠ BẢN  
Ở THAI PHỤ QUA CÁC THAI KÌ 
Phạm Quang Vinh*, Nguyễn Huy Bạo**, Nguyễn Tuấn Tùng*, Đỗ Tiến Dũng* 

TÓM TẮT 
Sự thay đổi về sinh lý sinh hóa trong đó có hệ thống đông cầm máu khi mang thai là phù hợp với sự kích 
thích và phát triển của thai nhi. Nghiên cứu đặc điểm các chỉ số đông máu ở các thai kì giúp có biện pháp phòng 
chống chảy máu trong mang thai và khi sinh. 
Mục tiêu: Nghiên cứu sự thay đổi chỉ số xét nghiệm đông máu cơ bản ở từng quí thai kỳ và mối liên quan 
giữa những thay đổi đó với tuổi thai.  
Đối  tượng  và  phương  pháp: 2700 thai phụ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội từ tháng 5/2012 đến tháng 
12/2012; nghiêu cứu cắt ngang, mô tả.  
Kết  quả: Quí 1 mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là: 101,39%; 0,97; 3,31 g/l. Có 
11,56% thai phụ nồng độ fibrinogen > 4 g/l. Quí 2 mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là: 
108,94 %; 0,96; 3,7 g/l. Có 0,67% thai phụ PT% trên 140%; 25,78% thai phụ nồng độ fibrinogen > 4g/l. Quí 3 
mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là: 112,03 %; 0,94; 4,02 g/l. Có 2,33 % thai phụ PT% 
trên 140%; 52,67 % thai phụ nồng độ fibrinogen trên 4g/l. Tuổi thai càng lớn thì PT% và nồng độ fibrinogen 
càng tăng và rAPTT rút ngắn nhất ở quí 3 thai kỳ.  
Kết luận: Gặp một tỉ lệ phụ nữ mang thai bất thường xét nghiệm PT%, rAPTT, fibrinogen. Tuổi thai càng 
lớn thì tỉ lệ thai phụ bất thường các xét nghiện này càng nhiều. 
Từ khóa: Đông máu cơ bản, các thai kì, tuổi thai 

ABSTRACT 
STUDY ON CHANGES OF SOME COAGULATION TESTING IN PREGNANCY 
Pham Quang Vinh, Nguyen Huy Bao, Nguyen Tuan Tung, Do Tien Dung 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 284 ‐ 290 


Changes  in  physiological,  biochemical,  including  the  system  of  coagulation  during  pregnancy  is 
consistent  with  the  stimulation  and  development  of  the  fetus.  Study  on  some  coagulation  testing  in 
pregnancy, which helps prevention measures bleeding during pregnancy and childbirth.  
Objective: To study the changes in some coagulation tests in each quarter of the pregnancy and 
the relationship between these changes with gestational age. 
Subjects and Methods: 2700 pregnant women at Hanoi maternity hospital from January 5/2012 
of May 12/2012; studies have cross‐sectional, descriptive.  
Results:  first  quarter  pregnancy:  PT%,  rAPTT,  fibrinogen  concentrations  average:  101.39%; 
0.97;  3.31  g/l.  There  are  11.56%  of  pregnant  women  with  fibrinogen  levels  >  4  g/l.  2nd  quarter 
pregnancy:  PT%,  rAPTT,  average  fibrinogen  levels:  108.94%;  0.96;  3.7  g/l.  There  are  0.67%  and 
25.78%  of  pregnant  women  with  PT%  >  140%  and  fibrinogen  concentrations  >  4  g/l.  3rd  quarter 
* Bệnh viện Bạch Mai 
** Bệnh viện Phụ sản Hà Nội 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Tuấn Tùng   ĐT: 0912 110 905 

284

 Email:  

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học

pregnancy:  PT%,  rAPTT,  average  fibrinogen  levels:  112.03%;  0.94;  4.02  g/l.  There  are  2.33%  and 
52.67%  of  pregnant  women  with  PT%  >140%  and  fibrinogen  concentration  >  4  g/l.  The  greater 
gestational age, the more increased PT% and concentrations of fibrinogen. 3rd quarter pregnancy is the 
shortest rAPTT.  

Conclusion: There are abnormal  PT%,  rAPTT,  fibrinogen in some pregnant women.  The greater 
gestational age, the more increased proportion of women with abnormal those tests. 
Keywords: Coagulation testing, pregnancy, gestational age. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mang  thai  là  hiện  tượng  sinh  lý  của  người 
phụ nữ trong lứa tuổi sinh sản. Nhằm mục đích 
đáp  ứng  với  kích  thích  sinh  lý  do  sự  xuất  hiện 
của  thai,  phần  phụ  của  thai  và  tạo  một  môi 
trường thuận lợi cho sự phát triển của thai nhi, 
các  cơ  quan  trong  cơ  thể  người  mẹ  đều  có  sự 
thay đổi về giải phẫu, sinh lý, sinh hoá, trong đó 
có  hệ  thống  các  tế  bào  máu  và  đông  máu.  Tuy 
nhiên, những biến đổi này đôi khi vượt quá giới 
hạn  bình  thường  hoặc  diễn  biến  một  cách  bất 
thường gây ra tác động có hại cho sức khoẻ của 
thai phụ cũng như thai nhi(3). 
Chảy máu có thể xảy ra vào bất kỳ thời điểm 
nào:  trước,  trong  và  sau  đẻ.  Đây  có  thể  là  triệu 
chứng của một số bệnh lý sản khoa nhưng cũng 
có  thể  là  dấu  hiệu  cảnh  báo  tình  trạng  bất 
thường  của  hệ  thống  đông  máu  trong  cơ  thể 
người  mẹ.  Chảy  máu  kéo  dài  trong  quá  trình 
mang  thai  có  thể  gây  thiếu  máu  mẹ,  thai  nhi 
chậm phát triển, có thể là nguyên nhân gây tăng 
tỷ lệ thai chết lưu, sảy thai, trẻ sơ sinh non yếu, 
là một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Thậm 
chí có những rối loạn đông máu chỉ thực sự gây 
triệu  chứng  chảy  máu  dữ  dội  và  nhanh  khi 
chuyển  dạ  và  sau  đẻ,  là  một  trong  những  tai 
biến  sản  khoa  gặp  hàng  đầu  để  lại  hậu  quả 

nghiêm trọng như tử vong mẹ, suy thai, suy hô 
hấp  sơ  sinh.  Chính  vì  vậy,  việc  phát  hiện  được 
sớm  và  đúng  những  trường  hợp  bất  thường 
đông  máu  có  nguy  cơ  chảy  máu  trong  thời  kỳ 
mang  thai  là  rất  quan  trọng  để  đảm  bảo  cho 
người phụ nữ có một thai kỳ khoẻ mạnh. Tránh 
trường hợp bỏ sót hoặc lại được xử trí khi chưa 
thực sự cần thiết gây hậu quả đáng tiếc(3,7,8). 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 

Trên  thế  giới  đã  có  các  nghiên  cứu  về  sự 
thay đổi đông máu ở phụ nữ mang thai như Liu 
XH,  Jiang  YM,  Shi  H  và  cộng  sự  (2009)  nghiên 
cứu  232  sản  phụ  có  kết  quả  PTs,  INR,  APTTs, 
rAPTT  giảm,  SLTC  giảm  dần  trong  thời  kỳ 
mang  thai(6).  Ở  Việt  Nam  đã  có  một  số  nghiên 
cứu  về  đông  máu  ở  phụ  nữ  mang  thai  như 
nghiên  cứu  của  Đoàn  Thị  Bé  Hùng  (2007), 
Hoàng  Hương  Huyền  (  2010),  Phan  Thị  Minh 
Ngọc (2011)(3,5,9).  Nhưng  những  nghiên  cứu  này 
chưa hệ thống được sự thay đổi của một số xét 
nghiệm  đông  máu  qua  từng  thời  kì  mang  thai. 
Vì  vậy,  để  góp  phần  vào  việc  tìm  hiểu  về  tình 
trạng đông máu ở phụ nữ mang thai, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu đề tài này với hai mục tiêu 
sau: 
‐ Nghiên cứu một số đặc điểm xét nghiệm đông 
máu cơ bản ở từng thời kì mang thai. 
‐ Tìm hiểu mối liên quan giữa sự thay xét nghiện 

đông máu cơ bản với tuổi thai.  

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nhóm thai phụ 
Gồm  2700  phụ  nữ  mang  thai,  trong  đó  900 
phụ  nữ  mang  thai  3  tháng  đầu,  900  phụ  nữ 
mang thai 3 tháng giữa và 900 phụ nữ mang thai 
3 tháng cuối đến khám tại Bệnh viện Phụ sản Hà 
Nội từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 11 năm 2012 
đủ tiểu chuẩn nghiên cứu. 
 Được chẩn đoán xác định là có thai bằng các 
phương  pháp  lâm  sàng  và  siêu  âm:  nhớ  chính 
xác  ngày  đầu  chu  kỳ  kinh  cuối  hoặc  tuổi  thai 
được khẳng định bằng kết quả siêu âm lần đầu 
trong  quý  1  thai  kỳ  khi  không  nhớ  chính  xác 
ngày đầu kỳ kinh cuối.  

285


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013

Tiêu chuẩn phân chia tuổi thai(1) 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 

Quý  1  (3  tháng  đầu):  tuần  đầu  tiên  ‐  hết 

tuần 13. Quý 2 (3 tháng giữa): tuần thứ 14 đến 
hết tuần 27. Quý 3 (3 tháng cuối): từ tuần thứ 
28 trở lên. 

Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Loại trừ khỏi nhóm nghiên cứu các thai phụ: 
có các bệnh lý liên quan đến rối loạn đông cầm 
máu bẩm sinh, những thai phụ đang điều đang 
điều trị các thuốc ảnh hưởng đến quá trình đông 
cầm máu.  

Nhóm chứng 
Gồm  45  phụ  nữ  bình  thường  khoẻ  mạnh 
trong  lứa  tuổi  sinh  đẻ  có  độ  tuổi  tương  đương 
với nhóm nghiên cứu. 

Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu  
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tiến cứu, 
mô tả cắt ngang có đối chứng. Mỗi thai phụ có 
một phiếu nghiên cứu theo mẫu thống nhất. 
Các thông số nghiên cứu 
Thông tin  chung:  Tuổi  mẹ,  tuổi  thai,  thứ  tự 
lần sinh, bệnh lý mẹ…. 
Thông số đông máu: Các chỉ số xét nghiệm 
đông máu cơ bản (APTT, PT và fibrinogen). 
Vật liệu nghiên cứu: 2ml máu tĩnh mạch khi 
bệnh  nhân  chưa  ăn  sáng  và  cách  bữa  tối  hôm 

trước ít nhất 12 giờ. 

Các  kỹ  thuật  xét  nghiệm  và  tiêu  chuẩn  đánh 
giá 
Các kỹ thuật xét nghiệm được thực hiện theo 
quy  trình  đang  được  áp  dụng  tại  Khoa  Huyết 
học‐Truyền  máu  Bệnh  viện  Bạch  Mai.  Các  xét 
nghiệm  đông  máu  cơ  bản  (ĐMCB)  PT,  APTT, 
định lượng fibrinogen: thực hiện  trên  máy  CA‐
1500 và hóa chất của hãng Sysmex Nhật Bản. 
‐ PT %: bình thường 70‐140%. 
‐ APTT: Bình thường 26 đến 36 giây, rAPTT 
bình thường 0,8‐1,2.  
‐ Nồng độ fibrinogen: bình thường 2‐4g/l. 

286

Qua  nghiên  cứu  2700  thai  phụ,  tuổi  trung 
bình là 27,615,22. Chủ yếu mang thai lần 1 và 2 
(42,52% và 38,33%), mang thai lần 3 và trên 3 lần 
chỉ chiếm 11,11% và 8,04%.  

Đặc điểm đông máu cơ bản ở từng thời kỳ 
mang thai  
Đặc  điểm  đông  máu  cơ  bản  của  thai  phụ  3 
tháng đầu: 
Qua  nghiên  cứu  900  thai  phụ  có  tuổi  thai 
dưới  14  tuần  đến  khám  thai  định  kỳ  tại  Bệnh 
viện  Phụ  Sản  Hà  Nội  từ  tháng  3  đến  tháng  12 
năm 2012, chúng tôi thu được kết quả như sau: 

Bảng 1. So sánh kết quả xét nghiệm ĐMCB của 
nhóm thai phụ ba tháng đầu với nhóm chứng 
Nhóm Nhóm thai phụ Nhóm chứng
(n=900)
(n=45)
Chỉ số

x  SD

p

x  SD

APTT (s)
27,68 ± 2,18
28,18 ± 1,63
>0,05
rAPTT
0,97 ± 0,07
1,04 ± 0,06
>0,05
PT (s)
11,56 ± 0,71
11,62 ± 0,52
>0,05
PT (%)
101,39 ± 12,32 100,37 ± 9,35 >0,05
Fibrinogen (g/l)
3,31 ± 0,58
2,75 ± 0,38 < 0,001


Nhận  xét:  từ  bảng  1  cho  chúng  tôi  thấy 
lượng  fibrinogen  trung  bình  của  nhóm  thai 
phụ là 3,31g/l cao hơn có ý nghĩa thống kê so 
với nhóm chứng với p<0,001. 
Bảng 2. Tỷ lệ thai phụ 3 tháng đầu có xét nghiệm 
ĐMCB bất thường 
Xét nghiệm

Bình thường
Tăng
n
%
n
%
PT%
894 99,33
4
0,44
rAPTT
892 99,11
6
0,67
Fibrinogen (g/l) 791 87,88 104 11,56

n
2
2
5


Giảm
%
0,22
0,22
0,56

Nhận  xét:  từ  bảng  2  cho  thấy  PT%  (tỷ  lệ 
prothrombin) tăng >140% có 4/900 trường hợp 
chiếm 0,44%. Lượng fibrinogen tăng trên 4 g/l 
có 104/900 trường hợp chiếm 11,56%. 

Đặc  điểm  đông  máu  cơ  bản  của  thai  phụ  3 
tháng giữa 
Nghiên  cứu  900  thai  phụ  có  tuổi  thai  từ  14 
tuần  đến  dưới  28  tuần,  chúng  tôi  thu  được  kết 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
quả như sau: 
Bảng 3. So sánh kết quả xét nghiệm ĐMCB của 
nhóm thai phụ ba tháng giữa với nhóm chứng 
Nhóm Nhóm thai phụ Nhóm chứng
(n=900)
(n=45)
Chỉ số

x  SD


p

x  SD

APTT (s)
27,27 ± 2,12
28,18 ± 1,63
>0,05
rAPTT
0,96 ± 0,34
1,04 ± 0,06
>0,05
PT (s)
11,18 ± 0,64
11,62 ± 0,52
>0,05
PT (%)
108,94 ± 12,59 100,37 ± 9,35 <0,01
Fibrinogen (g/l)
3,70 ± 0,48
2,75 ± 0,38 < 0,001

Nhận  xét:  từ  bảng  3  cho  thấy  lượng 
fibrinogen  trung  bình  của  nhóm  thai  phụ  3 
tháng giữa là 3,70g/l cao hơn nhóm chứng với 
p<0,001. 
Bảng 4. Tỷ lệ thai phụ 3 tháng giữa có xét nghiệm 
ĐMCB bất thường  
Bình thường
Xét nghiệm

n
%
PT (%)
893 99,22
rAPTT
891 99,00
Fibrinogen (g/l) 666 74,00

Tăng
n
%
6
0,67
6
0,67
232 25,78

Giảm
n
%
1 0,11
3 0,33
2 0,22

Nhận  xét:  từ  bảng  4  cho  thấy  có  6/900 
chiếm  0,67%  thai  phụ  3  tháng  giữa  có  tăng  tỷ 
lệ  prothrombin  >140%.  Có  232/900  chiếm 
25,78%  thai  phụ  3  tháng  giữa  có  tăng  lượng 
fibrinogen > 4g/l. 


Đặc  điểm  đông  máu  cơ  bản  của  thai  phụ  3 
tháng cuối 
Nghiên  cứu  900  thai  phụ  có  tuổi  thai  ≥  28 
tuần, chúng tôi thu được kết quả như sau: 
Bảng 5. So sánh kết quả xét nghiệm ĐMCB của 
nhóm thai phụ ba tháng cuối với nhóm chứng 
Nhóm Nhóm thai phụ Nhóm chứng
(n=900)
(n=45)
Chỉ số

x  SD

p

x  SD

APTT (s)
27,07 ± 2,13
28,18 ± 1,63
>0,05
rAPTT
0,94 ± 0,07
1,04 ± 0,06
>0,05
PT (s)
11,07 ± 0,65
11,62 ± 0,52
<0,01
PT (%)

112,02 ± 13,30 100,37 ± 9,35 <0,01
Fibrinogen (g/l)
4,02 ± 0,44
2,75 ± 0,38 < 0,001

Nhận  xét:  từ  bảng  5  chúng  tôi  thấy  lượng 
fibrinogen  trung  bình  của  nhóm  thai  phụ  là 
4,02g/l cao hơn nhóm chứng rõ rệt với p<0,001. 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 

Nghiên cứu Y học
Bảng 6. Tỷ lệ thai phụ ba tháng cuối có xét nghiệm 
ĐMCB bất thường 
Xét nghiệm

Bình thường
Tăng
n
%
n
%
PT (%)
878
97,56
21 2,33
rAPTT
880
97,78
10 1,11

Fibrinogen (g/l) 424
47,21 474 52,67

Giảm
n
%
1
0,11
10
1,11
2
0,12

Nhận  xét:  từ  bảng  6  cho  thấy  lượng 
fibrinogen  tăng  nhiều  trong  nhóm  thai  phụ  3 
tháng cuối là 474/900 chiếm 52,67%. 

Thay  đổi  xét  nghiệm  đông  máu  máu  cơ 
bản theo tuổi thai 
Bảng 7: So sánh kết quả xét nghiệm đông máu cơ bản 
theo tuổi thai 
Quý 1

Quý 2

Quý 3

p

101,39 ± 108,94 ± 112,02 ± p1-2; p1-3; p2-3 <

0,01
12,32
12,59
13,30
p1-2 > 0,05;
0,96 ± 0,94 ±
rAPTT 0,97 ± 0,07
0,34
0,07 p1-3 ; p2-3 < 0,01
Fibrinogen
3,70 ± 4,02 ± p1-2; p1-3 < 0,01
3,31 ± 0,58
(g/l)
0,48
0,44
p2-3 > 0,05
PT (%)

Nhận  xét:  bảng  7  cho  thấy  tỷ  lệ 
prothrombin,  nồng  độ  fibrinogen  tăng  dần 
theo  tuổi  thai  và  tăng  cao  nhất  vào  quý  3  của 
thai  kì,  rAPTT  rút  ngắn  nhất  vào  quý  3  của 
thai kì.  
Bảng 8. So sánh tỷ lệ xét nghiệm ĐMCB bất thường 
theo tuổi thai 
Xét nghiệm Bình thường
Tăng
Giảm
Q1 Q2 Q3 Q1 Q2 Q3 Q1 Q2
PT%

894 893 878 4
6 21
2
1
rAPTT
892 891 880 6
6 10
2
3
Fibrinogen 791 666 424 104 232 474 5
2
(g/l)

Q3
1
10
2

Nhận  xét:  bảng  8  cho  thấy  tuổi  thai  càng 
cao  thì  số  thai  phụ  có  PT%  và  nồng  độ 
fibrinogen  tăng  càng  nhiều:  PT%  quí  1,  quí  2, 
quí  3  lần  lượt  là:  4,  6,  21  thai  phụ;  Fibrinogen 
lần lượt là: 104, 232, 474. Số thai phụ có rAPTT 
rút ngắn nhiều nhất ở quí 3 thai kì: 10 thai phụ 
so với 2 thai phụ quí 1 và 3 thai phụ quý 2. 

287


Nghiên cứu Y học 

BÀN LUẬN 
Đặc điểm đông máu cơ bản ở từng thời kì 
mang thai 
Đặc điểm đông máu cơ bản ở quý 1 mang thai 
Các  chỉ  số  xét  nghiệm  đông  máu  cơ  bản 
(PT%, APTT và Fibrinogen) đánh giá vòng đầu 
của  quá  trình  đông  máu,  rất  cần  thiết  theo  dõi 
trong quá trình mang thai. Qua nghiên cứu 900 
thai phụ mang thai quý 1, kết quả bảng 1 và 3.2 
chúng  tôi  thấy  giá  trị  trung  bình  của  PT  %, 
APTT  và  Fibrinogen  đều  nằm  trong  giới  hạn 
bình thường. Khi so với nhóm chứng chúng tôi 
thấy  nồng  độ  fibrinogen  cao  hơn  có  ý  nghĩa 
thống kê, PT% và rAPTT thấp hơn nhưng không 
có  ý  nghĩa  thống  kê.  Khi  phân  tích  tỉ  lệ  bất 
thường trong các xét nghiệm này chúng tôi thấy 
PT%, rAPTT và nồng độ fibrinogen giảm chiếm 
0,22%;  0,22  và  0,56%.  PT%,  rAPTT  và  nồng  độ 
fibrinogen  tăng  chiếm  0,44%;  0,67  và  11,56%. 
Như vậy, ở 3 tháng đầu mang thai có su hướng 
tăng  đông  cả  hai  con  đường  ngoại  sinh  và  nội 
sinh nhưng chưa rõ rệt. Kết quả nghiên cứu của 
Phan Thị Minh Ngọc và CS (2011) ở 77 thai phụ 
mang  thai  3  tháng  đầu  cũng  cho  thấy  có  su 
hướng  tăng  đông:  rAPTT  rút  ngắn,  nồng  độ 
fibrinogen tăng so với chứng(9). 
Đặc điểm đông máu cơ bản ở quý 2 mang thai 
Nghiên  cứu  chỉ  số  xét  nghiệm  PT  %,  APTT 
và  Fibrinogen  ở  thại  phụ  mang  thai  3  tháng 
giữa,  kết  quả  bảng  3  và  3.4  cho  thấy  xu  hướng 

tăng đông rõ rệt hơn so với ở thai phụ mang thai 
3 tháng đầu: PT% và fibrinogen (108,94% và 3,7 
g/l) cao hơn rõ rệt so với nhóm chứng (100,37% 
và 2,75 g/l); rAPTT (0,96) rút ngắn so với nhóm 
chứng (1,04) nhưng chưa rõ rệt. Khi phân tích tỉ 
lệ bất thường các xét nghiệm này chúng tôi thấy 
sự  tăng  đông  này  rõ  rệt  hơn:  PT%  và  nồng  độ 
fibrinogen tăng chiếm tỉ lệ 0,67% và 25,78%. Tuy 
nhiên  chúng  tôi  gặp  0,67%  thai  phụ  có  rAPTT 
tăng.  Như  vậy  thai  phụ  mang  thai  ở  3  tháng 
giữa  có  tăng  hoạt  hóa  đông  máu  ngoại  sinh  và 
tăng  nồng  độ  fibrinogen  rõ  rệt,  tăng  hoạt  hóa 
đông máu nội sinh nhưng chưa rõ rệt. 

288

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Đặc điểm đông máu cơ bản ở quý 3 mang thai 
Nghiên  cứu  kết  quả  các  xét  nghiệm  PT  %, 
APTT  và  Fibrinogen  ở  thai  phụ  mang  thai  3 
tháng  cuối,  kết  quả  bảng  5  và  6  cho  thấy  xu 
hướng  tăng  đông  rõ  rệt  con  đường  đông  máu 
ngoại sinh: PT% (112,02%) cao hơn so với nhóm 
chứng (100,37%), nồng độ fibrinogen  là  4,02  g/l 
cao  hơn  rõ  rệt  so  với  nhóm  chứng  (2,75  g/l). 
rAPTT (0,94) rút ngắn so với nhóm chứng (1,04) 
nhưng  chưa  rõ  rệt.  Nghiên  cứu  của  tác  giả 
Hoàng  Hương  Huyền  (2010)  ở  571  thai  phụ  3 
tháng cuối cũng cho thấy PT%, fibrinogen tăng, 
rAPTT  rút  ngắn(5).  Tác  giả  Uchikova  (2004)  khi 

nghiên cứu trên 35 phụ nữ mang thai từ tuần 35 
đến  tuần  40  có  nồng  độ  fibrinogen  trung  bình 
cao  hơn  nhóm  chứng  gồm  35  phụ  nữ  khoẻ 
mạnh không mang thai(11). 
Khi phân tích tỉ lệ bất thường các xét nghiệm 
này chúng tôi thấy tỉ lệ bệnh nhân có giá trị PT% 
và  nồng  độ  fibrinogen  cao  hơn  bình  thường  là 
2,33%  và  52,67%.  Kết  quả  này  càng  thể  hiện  rõ 
sự  tăng  hoạt  hóa  đông  máu  ngoại  sinh  ở  thai 
phụ mang thai 3 tháng cuối. Đông máu nội sinh 
có tăng hoạt hóa nhưng kết quả bảng 6 cho thấy 
vẫn gặp 1,11% thai phụ có rAPTT tăng tức là có 
1,11% bệnh nhân có APTT kéo dài. 

Mối  liên  quan  giữa  sự  thay  xét  nghiện 
đông máu cơ bản với tuổi thai 
Nghiên cứu mối liên quan giữa thay đổi xét 
nghiệm  đông  máu  cơ  bản  của  thai  phụ  trong 
quá  trình  mang  thai  sẽ  góp  phần  hiểu  thêm 
được xu hướng thay đổi đông máu của thai phụ, 
từ  đó  có  biện  pháp  đề  phòng  trong  quá  trình 
sinh đẻ. 
Kết quả bảng 7 và 8 cho thấy PT% tăng dần 
theo  tuổi  thai  có  ý  nghĩa  thống  kê  (PT%  trung 
bình  quí  1,  quí  2,  quí  3  lần  lượt  là  101,39%; 
108,94%;  112,02%),  nghĩa  là  tuổi  thai  càng  lớn 
PT%  càng  tăng.  Như  vậy  tuổi  thai  càng  lớn  thì 
sự  hoạt  hóa  đường  đông  máu  ngoại  sinh  càng 
tăng.  PT%  thể  hiện  khái  quát  con  đường  đông 
máu  ngoại  sinh,  vì  vậy  để  tìm  hiểu  rõ  hơn  sự 

tăng hoạt hóa đông máu ngoại sinh là do yếu tố 
nào cần được nghiên cứu sâu hơn về các yếu tố 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
đông  máu  thuộc  đường  đông  máu  ngoại  sinh. 
Tương tự, trong nghiên cứu này chúng tôi thấy 
rAPTT giảm rõ rệt ở quí 3 thai kỳ so với hai quí 
còn  lại  (quí  3:  0,94  so  với  quí  1:  0,97  và  quí  2: 
0,96). Nghiên cứu của Liu XH và CS (2009) về sự 
thay  đổi  chỉ  số  một  số  xét  nghiệm  đông  máu 
trên 232 thai phụ cho thấy có sự rút ngắn rAPTT 
có  ý  nghĩa  thống  kê  so  với  nhóm  chứng(6). 
Nghiên  cứu  này  cũng  cho  thấy  nồng  độ 
fibrinogen  tăng  theo  tuổi  thai:  nồng  độ 
fibrinogen  trung  bình  của  thai  phụ  mang  thai 
quí 1, quí 2, quí 3 lần lượt là: 3,31 g/l, 3,7 g/l, 4,02 
g/l. Nghiên cứu của Federico Cerneca và cộng sự 
nhận  thấy  nồng  độ  fibrinogen  bắt  đầu  tăng  từ 
tuần  thứ  10  của  thai  kỳ(2).  Như  vậy  trong  quá 
trình mang thai khi tuổi thai càng lớn thì không 
chỉ tăng hoạt hóa đông máu ngoại sinh mà còn 
tăng hoạt hóa của cả đông máu nội sinh và con 
đường chung.  
Kết  quả  bảng  8  cho  thấy  số  lượng  thai  phụ 
có  PT%  và  nồng  độ  fibrinogen  cao  hơn  bình 
thường  tăng  dần  theo  tuổi  thai:  số  thai  phụ  có 
PT% cao ở quí 1, quí 2, quí 3 lần lượt là: 2, 6, 21; 

số  thai  phụ  có  nồng  độ  fibrinogen  cao  ở  quí  1, 
quí  2,  quí  3  lần  lượt  là:  104,  232,  474.  Tỉ  lệ  thai 
phụ có rAPTT rút ngắn nhiều nhất ở quí 3 thai 
kì so với 2 quí còn lại (10 thai phụ so với 2 thai 
phụ  quí  1  và  3  thai  phụ  quý  2).  Đây  là  những 
thai  phụ  cần  được  theo  dõi  và  nghiên  cứu  sâu 
hơn nữa để tìm hiểu sự thay đổi của các yếu tố 
đông máu trong quá trình mang thai. 
Như vậy, qua nghiên cứu xét nghiệm đông 
máu  cơ  bản,  đánh  giá  tỷ  lệ  của  các  xét  nghiệm 
này  trên  toàn  thai  kỳ  cũng  như  từng  quý  với 
nhau, chúng tôi nhận thấy có một tỷ lệ nhất định 
sản  phụ  tăng  PT%,  giảm  rAPTT,  tăng  nồng  độ 
fibrinogen.  Tuổi  thai  càng  lớn  thì  tỉ  lệ  các  thai 
phụ có các xét nghiện PT% tăng, rAPTT giảm và 
nồng độ fibrinogen tăng càng nhiều.  

Nghiên cứu Y học
‐  Trong  quá  trình  mang  thai,  đặc  biệt  quí  2 
và quí 3 thai kì có hiện tượng thay đổi hoạt tính 
đông máu: 
Quí  1  mang  thai:  PT%,  rAPTT,  nồng  độ 
fibrinogen trung bình là: 101,39%; 0,97; 3,31 g/l . 
Có  11,56%  thai  phụ  có  nồng  độ  fibrinogen  >  4 
g/l. 
Quí  2  mang  thai:  PT%,  rAPTT,  nồng  độ 
fibrinogen  trung  bình  là:  108,94  %;  0,96;  3,7  g/l. 
Có  0,67%  thai  phụ  PT%  trên  140%;  25,78%  thai 
phụ nồng độ fibrinogen > 4g/l. 
Quí  3  mang  thai:  PT%,  rAPTT,  nồng  độ 

fibrinogen trung bình là: 112,03 %; 0,94; 4,02 g/l. 
Có 2,33 % thai phụ PT% trên 140%; 52,67 % thai 
phụ nồng độ fibrinogen trên 4g/l. 
‐  Có  mối  liên  quan  giữa  thay  đổi  chỉ  số  xét 
nghiệm đông máu cơ bản với tuổi thai:  
Tuổi  thai  càng  lớn  thì  PT%  và  nồng  độ 
fibrinogen càng tăng. 
rAPTT rút ngắn nhất ở quí 3 thai kỳ.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu chỉ số xét nghiệm đông máu 
cơ bản ở 2700 thai phụ tại bệnh viện phụ sản Hà 
Nội  từ  tháng  5/2012  đến  tháng  12/2012,  chúng 
tôi có một số kết luận sau: 


Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 

9.

Barta A (2010), “Obstetric Coding in ICD‐10‐CM/PCS”, Journal 
of AHIMA, 81.6, pp. 68‐70.  
Cerneca  F  (1997),  ʺCoagulation  and  fibrinolysis  changes  in 
normal  pregnancyʺ,  European  Journal  of  Obstetrics  and 
Gynecology, volum 73, Issue 1, pp. 31‐36. 
Đoàn Thị Bé Hùng (2007), ʺTỷ lệ và nguyên nhân các rối loạn 
đông  máu  thường  gặp  trong  sản  khoa  tại  Bệnh  viện  Hùng 
Vươngʺ, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y dược Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
Dương  Thị  Cương  (2007),  “Thay  đổi  giải  phẫu  và  sinh  lý  ở 
người phụ nữ có thai”, Bài giảng Sản phụ khoa, tập  I,  Nhà  xuất 
bản Y học, tr. 46 – 48. 
Hoàng Hương Huyền (2010), ʺNghiên cứu tình trạng đông cầm 
máu  ở  phụ  nữ  có  thai  3  tháng  cuốiʺ,  Luận  văn  thạc  sĩ  y  học, 
trường Đại học Y Hà Nội. 
Liu  XH,  Jiang  YM,  Shi  H,  Yue  XA  (2009),  ʺProspective, 
sequential,  longitudinal  study  of  coagulation  changes  during 
pregnancy in Chinese womenʺ, Gynaecol Obstet, 105(3), pp. 240‐
3. 
Nguyễn Ngọc Minh (2007), ʺThay đổi sinh lý về các chỉ số cầm 
máu  ‐  đông  máuʺ,  Bài giảng huyết học ‐ truyền máu sau đại học, 
Nhà xuất bản y học Hà Nội, tr. 65‐70. 
Nguyễn  Thị  Nữ  (2006),  “Tăng  đông  và  huyết  khối”,  Bài giảng 
huyết học ‐ truyền máu sau đại học, Nhà xuất bản y học Hà Nội, tr. 
262 – 269. 

Phan Thị Minh Ngọc cùng cộng sự (2011), ʺMột số đặc điểm xét 
nghiệm đông cầm máu ở phụ nữ mang thai ba tháng đầu tại Hà 
Nộiʺ. Tạp chí y học thực hành (774), số 7, tr. 152‐154. 

289


Nghiên cứu Y học 
10. Thornton P, Douglas J (2009), ʺCoagulation in pregnancyʺ, Best 
Practice,  Research  Clinical  Obstetrics  and  Gynaecology,  67(2),  pp. 
339‐352. 
11. Uchikova  EH.,  Ledfev  LL  (2005),ʺChanges  in  haemostatis 
during  normal  pregnancy”,  European  Journal  of  Obstetrics  and 
Gynecology, 119 (2), pp. 185‐188.  

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
 
Ngày nhận bài báo:  
Ngày phản biện:  

 
 

Ngày bài báo được đăng:  

 12 tháng 9 năm 2013 
 20 tháng 9 năm 2013 
22 tháng 10 năm 2013 

 

 

290

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  



×