Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.5 KB, 6 trang )
g nhiễm
HCBVTV của người canh tác chè thì việc tiến
hành truyền thông giáo dục sức khỏe cho
người canh tác chè là việc rất cần thiết.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ người canh tác chè có kiến thức mức độ
tốt, khá và trung bình là 9,8%; 24,8% và
65,5%. Nhận thức tốt, khá và trung bình là
19,0%; 72,2% và 8,8%. Thực hiện hành vi dự
phòng nhiễm HCBVTV ở mức độ tốt, khá và
89(01/2): 267 – 272
trung bình là 27,0%; 32,8% và 40,2%; rửa
bình thuốc sau phun tại sông/suối/ao/hồ
55,0%; vứt bao bì, dụng cụ đựng HCBVTV
bừa bãi 32,3%; thu hoạch chè sau phun không
đảm bảo thời gian 63,8%.
Tỷ lệ người canh tác chè không được nghe
truyền thông giáo dục sức khỏe 65,2%; mong
muốn nghe truyền thông 97,2%. Không có sự
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa hành vi dự
phòng nhiễm HCBVTV với các đặc điểm giới
và thời gian canh tác của người canh tác chè.
Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
hành vi dự phòng nhiễm HCBVTV với: đặc
điểm dân tộc; trình độ học vấn; kiến thức; thái
độ và truyền thông dự phòng nhiễm
HCBVTV.
Bảng 9. Mối liên quan giữa hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật với các đặc điểm của đối