Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Khảo sát về sự thay đổi thân nhiệt của người bệnh trong gây mê phẫu thuật ổ bụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.9 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT VỀ SỰ THAY ĐỔI THÂN NHIỆT CỦA NGƯỜI BỆNH
TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT Ổ BỤNG
Trần Thị Tuyết Chi*, Phan Tôn Ngọc Vũ*, Nguyễn Văn Chừng**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi thân nhiệt ở những bệnh nhân được gây mê để phẫu thuật lớn ổ bụng có sử
dụng máy sưởi ấm không khí với nhiệt độ cố định 380C.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu cắt ngang. Mẫu khảo sát 51 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật
lớn ổ bụng bằng phương pháp gây mê cân bằng và được ủ ấm bằng máy sưởi ấm không khí ở nhiệt độ cố định 38
0C, nửa người trên của người Bệnh. Nhiệt độ cơ thể được đo ở 1/3 trên thực quản qua đầu đo tự động và ghi nhận
mỗi 30 phút từ lúc khởi mê xong cho đến khi cuộc phẫu thuật kết thúc.
Kết quả: 51 bệnh nhân bao gồm: Phẫu thuật dạ dày 12 (23,5%); phẫu thuật đại - trực tràng 17 (33,3%);
phẫu thuật gan 16 (31,4%) và phẫu thuật khác 6 (11,8%); nam 35 (68,6%); nữ 16 (31,4%); tuổi trung bình: 58,1
± 12,2; cân nặng trung bình: 56,5 ± 10,9 kg; thời gian phẫu thuật trung bình: 155 phút; thời gian gây mê: 180
phút; nhiệt độ (0C) ghi nhận số liệu ở mỗi 30 phút theo trình tự: (T1); (T2); (T3); (T4); (T5); (T6); (T7) lần lượt là
(35,9 ± 0,7); (35,7 ± 0,8); (35,6 ± 0,7); (35,6 ± 0,7); (35,4 ± 0,7); (35,4 ± 0,6); (35,4 ± 0,7).
Kết luận: Hạ thân nhiệt (<360C) xảy ra trên tất cả các bệnh nhân mặc dù có sử dụng máy sưởi ấm không khí
với nhiệt độ cố định 380C trên nửa người trên. Vì vậy: cần phải theo dõi nhiệt độ thường quy và áp dụng những
biện pháp sưởi ấm tích cực hơn nữa để hạn chế hiện tượng hạ thân nhiệt trong khi gây mê cho bệnh nhân phẫu
thuật lớn ổ bụng.
Từ khóa: hạ thân nhiệt, gây mê toàn thể, phẫu thuật lớn ổ bụng, máy sưởi ấm không khí.

ABSTRACT
TO INVESTIGATE THE TEMPERATURE CHANGE IN THE PATIENTSUNDER
GENERALANESTHESIA FOR MAJOR ABDOMINAL SURGERY
Tran Thi Tuyet Chi, Phan Ton Ngoc Vu, Nguyen Van Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 221 - 225


Objectives: To investigate the temperature change in patients under general anesthesia for major abdominal
surgery using air warming machine.
Methods: Descriptive cross-section study in 51 patients indicated for major abdominal surgeries. Patients
having balanced general anesthesia were warmed up by air warming machine with prefixed temperature 380C
degree on upper part of body. The temperature was continuously measured and noted every 30 minutes from
induction to the end of surgery by esophageal probe.
Results: 51 patients including: 12 of gastric surgery (23.5%); 17 of colorectal surgery (33.3%); 6 of liver
surgery (31.4%); and 6 of others (11.8%); 35 of male (68.6%); 16 of female (31.4%); aged of 58.1 ± 12.7; weighed
of 56.5 ± 10.9 kg. Average surgical time was 155 minutes; average anesthesia time was 180 minutes. Temperature
(Celsius degree) noted in every 30 minutes (T1, T2, T3, T4, T5, T6, T7) was (35.9 ± 0.7); (35.7 ± 0.8); (35,6 ±
0.7); (35.6 ± 0.7); (35.4 ± 0.7); (35.4 ± 0.6); (35.4 ± 0.7) respectively.
* Bệnh viện Đại học Y Dược TpHCM
Tác giả liên lạc: CNGM.Trần Thị Tuyết Chi

** Trường Đại học Y Dược
ĐT: 0908663786
Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014

221


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học

Conclusion: Hypothermia occurred in all patient inspire of using air warming machine. From this survey
we suggest to monitor continously temperature and to use more critical warming methods in all patient under
general anesthesia for major abdominal surgery.

Key worlds: Hypothermia, major abdominal surgery, general anesthesia, air warming machine.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mẫu nghiên cứu

Thân nhiệt là một trong năm dấu hiệu sinh
tồn của bệnh nhân.
Từ xưa nay trong những phẫu thuật chúng
ta có hạ thân nhiệt chủ động do nhu cầu của loại
phẫu thuật và hạ thân nhiệt do tác động những
yếu tố bên ngoài nhiệt độ phòng mổ, thời gian
phẫu thuật, dịch truyền. (còn gọi là: Hạ thân
nhiệt không chủ động). Theo dõi thân nhiệt là
một trong những nhiệm vụ của điều dưỡng
trong công tác chăm sóc bệnh nhân. Lâu nay
chúng ta mới chỉ quan tâm đến vấn đề tăng thân
nhiệt (sốt) và các biện pháp dự phòng điều trị
tăng thân nhiệt. Tuy nhiên khi thời tiết ngày một
lạnh hơn, con người bắt đầu mất nhiệt nhiều hơn
lượng nhiệt cơ thể sản sinh. Giá lạnh kéo dài sẽ
dẫn đến việc cơ thể phải sử dụng năng lượng dự
trữ. Và hậu quả là bạn bị mất dần thân nhiệt.
Vấn đề: hạ thân nhiệt nhất là trong qúa trình
phẫu thuật và gây mê hồi sức chưa được quan
tâm đúng mức. Nhưng rối loạn thân nhiệt (tăng
hoặc hạ thân nhiệt) có thể gây nhiều biến đổi
sinh lý nghiêm trọng ảnh hưởng đến bệnh nhân.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
với mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi thân nhiệt ở

những bệnh nhân gây mê phẫu thuật ổ bụng có
sử dụng máy sưởi ấm không khí với nhiệt độ cố
định 380C.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

51 bệnh nhân phẫu thuật ổ bụng.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp lấy mẫu
Trong thời gian nghiên cứu tiến hành lấy số
liệu trên toàn bộ người bệnh có phẫu thuật ổ
bụng (phẫu thuật dạ dày, đại trực tràng, gan,
khác).

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiến cứu cắt ngang.

Phương pháp thực hiện
Trong suốt quá trình gây mê phẫu thuật, tất
cả người bệnh đều được che kín bằng khăn phẫu
thuật và máy sưởi ấm không khí, gây mê toàn
thân (có khi gây tê ngoài màng cứng). Nhiệt độ
trung tâm được đo tại vị trí 1/3 dưới của thực
quản, đo liên tục qua monitoring và ghi nhận
mỗi 30 phút/lần cho đến khi kết thúc quá trình
gây mê phẫu thuật. Trong phẫu thuật tất cả
người bệnh đều được sưởi ấm nửa trên cơ thể
bằng máy sưởi ấm không khí với nhiệt độ nhất
định 380C. Hạ thân nhiệt được định nghĩa khi

nhiệt độ cơ thể < 360C(2,7,1,4) Theo hội gây mê Hoa
Kỳ, hạ thân nhiệt được chia làm 3 mức độ: Nhẹ:
360C - 340C; Trung bình: 340C - 320C; Nặng: <
320C.

Thu thập số liệu

Người bệnh có phẫu thuật ổ bụng như phẫu
thuật dạ dày, đại trực tràng, gan,…

Nhân viên gây mê thu thập và ghi nhận số
liệu theo biểu mẫu đã được xây dựng sẵn và
điền thông tin liên quan đến đối tượng nghiên
cứu.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Xử lý và phân tích số liệu

Từ ngày 12/12/2012 đến 13/05/2013 tại Khoa
Gây mê - Hồi sức Bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh.

SPSS 16.0; thống kê về các con số trung bình,
trung vị, độ lệch chuẩn, hệ số tương quan ®,...

Đối tượng

222


Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
KẾT QUẢ

Bảng 4: Mô tả nhiệt độ trung bình theo mỗi loại
phẫu thuật

Bảng 1: Mô tả theo giới tính, tính chất
Giới tính
Nam
Nữ

Người Bệnh
35
16

Tỉ lệ%
68,6
31,4

Tính Chất
Tuổi
Cân nặng

Nghiên cứu Y học

Trung Bình
58,1 ± 12,2

56,5 ± 10,9

Bảng 2: Mô tả theo loại phẫu thuật
Phương pháp phẫu thuật

Người
Bệnh

Tỉ lệ%

Phẫu thuật dạ dày
Phẫu thuật đại trực tràng
Phẫu thuật gan
Phẫu thuật khác

12
17
16
6

23,5
33,3
31,4
11,8

Nhiệt
độ (T)

Phẫu
thuật

Dạ dày

T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7

36,4 ± 0,5
35,9 ± 0,9
35,7 ± 0,9
35,6 ± 0,8
35,3 ± 0,7
35,4 ± 0,8
35,0 ± 1,0

Thời gian phẫu
thuật
Thời gian gây mê

Nhiệt độ (T)
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7


Trung vị Thời gian tối Thời gian tối
(phút) thiểu (phút)
đa (phút)
155
60
315
180

60

340

Biểu đồ 1: Biến đổi thân nhiệt trong quá trình gây mê
phẫu thuật

Phẫu thuật
Gan

Khác

36,4 ± 0,7
35,7 ± 0,3
35,5 ± 1,0
35,5 ± 0,5
35,3 ± 0,5
35,2 ± 0,5
35,2 ± 0,4

36,2 ± 0,7

35,9 ± 0,7
35,5 ± 0,6
35,4 ± 0,7
35,9 ± 1,0
36,0 ± 1,0
35,5 ± 0,8

Bảng 5: Mô tả nhiệt độ trung bình theo loại phẫu
thuật

Bảng 3: Mô tả theo thời gian phẫu thuật, gây mê
Thời gian

Phẫu thuật
Đại TràngTrực Tràng
36,5 ± 0,6
36,3 ± 0.6
35,8 ± 0,6
35,6 ± 0,7
35,5 ± 0,7
35,5 ± 0,7
34,4 ± 0,7

Trung bình
35,9 ± 0,7
35,7 ± 0,8
35,6 ± 0,7
35,6 ± 0,7
35,4 ± 0,7
35,4 ± 0,6

34,9 ± 0,7

Nhận xét
Yếu tố thời gian gây mê phẫu thuật ảnh
hưởng đến thân nhiệt bệnh nhân trong quá trình
gây mê phẫu thuật ổ bụng.

NHIỆT ĐỘ

BÀN LUẬN

T1

T2

T3

T4

T5

T6

T7

30ph

1g

1g30ph


2g

2g30ph

3g

3g30ph

THỜI GIAN

Nhận xét
Thân nhiệt người bệnh có xu hướng giảm
dần theo thời gian.
Đa số người bệnh hạ thân nhiệt (< 360C) sau
45 phút kể từ lúc gây mê phẫu thuật.
Thời gian phẫu thuật càng dài có xu hướng
hạ nhiệt độ càng nhiều.

Căn cứ vào nguyên lý truyền nhiệt, các nhà
khoa học đã giải thích rằng với các dạng khí hậu,
môi trường sống như hiện nay của trái đất thì
nhiệt độ bình quân của cơ thể người khoảng
370C là phù hợp với tỷ suất sản sinh và phát tán
nhiệt của cơ thể, sao cho thích ứng được với mọi
loại thời tiết và thích ứng cho não cũng như các
cơ quan đạt có hiệu suất hoạt động cao nhất. Hệ
thống này có khả năng nhạy cảm và thích ứng
với sự biến đổi của môi trường tự nhiên. Bình
thường, nhiệt độ cơ thể không thay đổi theo sự

thay đổi của môi trường, bởi vì “máy điều hòa” thông qua trung khu điều tiết nhiệt độ nằm ở
não bộ - có thể tự chủ và thi hành nhanh chóng
hai chức năng là sản nhiệt và tỏa nhiệt. Khi cơ
thể phải đối chọi với những ngày hè nắng như
thiêu, sự thay đổi rất nhẹ về nhiệt độ huyết dịch
sẽ gây thư giãn cho mạch máu dưới da, xúc tiến
cho da tỏa nhiệt trực tiếp ra bên ngoài. Ngược

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014

223


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học
lại, vào những ngày mùa đông lạnh giá, kích
thích lạnh sẽ tác động vào trung khu điều tiết
nhiệt độ, khiến cho mạch máu dưới da co lại,
giảm thiểu sự tỏa nhiệt của da, đồng thời làm
tăng độ căng cơ sườn, nâng cao độ trao đổi chất,
xuất hiện “run cầm cập”, cơ thể tăng cường sản
sinh nhiệt lượng. Với cơ chế điều tiết như vậy,
nhiệt độ cơ thể của con người luôn được giữ ở
mức cố định khoảng 370C..Tuy nhiên khi “máy
điều hòa” gặp trục trặc hay hỏng hóc, thân nhiệt
có thể bị lên cao hoặc xuống thấp hơn mức này,
lập tức có những dấu hiệu bất thường như hoa
mắt, chóng mặt, sốt... Khi nhiệt độ cơ thể tụt
xuống dưới 310C hoặc lên cao quá 420C thì nguy

cơ tử vong là rất cao.
Thân nhiệt với những thay đổi của sinh lý:
Sự thực nhiệt độ cơ thể không phải là cố định
tuyệt đối, mà theo các nhà khoa học, nó thường
dao động thay đổi theo hiện tượng sinh lý của
mỗi cá thể. Trong một ngày một đêm, thân nhiệt
cũng có sự dao động. Vào sáng sớm ở mức thấp
nhất, sau đó tăng dần, tới sẩm tối đạt trị số lớn
nhất. Nhiệt độ cơ thể vào buổi tối lại giảm dần
cho tới sáng hôm sau xuống tới trị số nhỏ nhất.
Dao động chênh lệch giữa trị số lớn nhất và trị số
nhỏ nhất khoảng 10C.. Các nhà khoa học còn
chứng minh được có sự liên quan giữa thân
nhiệt với giới tính, tuổi tác, trạng thái, tư tưởng,
tình cảm. Theo đó, nhiệt độ cơ thể nữ thường hơi
cao hơn nhiệt độ cơ thể nam cùng độ tuổi, biến
đổi theo chu kỳ kinh nguyệt. Nhiệt độ cơ thể nữ
trong kỳ kinh nguyệt thường thấp hơn lúc bình
thường 0,2 – 0,50C.. Sự thay đổi này chủ yếu do
sự thay đổi về hoóc môn nữ gây nên. Đối với trẻ
em, hệ thống thần kinh trung khu và các tuyến
mồ hôi trên da chưa phát triển đầy đủ nên chức
năng điều tiết thân nhiệt cũng kém hơn, nhất là
đối với các bé đẻ non, nhiệt độ càng dao động
lớn. Tuy vậy, khả năng trao đổi chất ở trẻ em khá
mạnh nên nhiệt độ cơ thể thường cao hơn người
trưởng thành. Ngược lại ở người già, khả năng
trao đổi chất diễn ra thấp nên nhiệt độ thường
thấp hơn so với người trưởng thành.
Trong quá trình gây mê toàn diện, trung tâm


224

điều nhiệt bị ức chế, các quá trình sản sinh nhiệt
bị giảm, do đó khả năng điều chỉnh sự thay đổi
thân nhiệt rất dễ bị tác động bởi các yếu tố nguy
cơ. Theo biểu đồ biểu diễn sự biến đổi thân nhiệt
trong quá trình gây mê phẫu thuật. Trong giờ
đầu thân nhiệt bệnh nhân giảm dưới 360C, và
giảm dần dần trong các giờ tiếp theo, nhiệt độ
thấp nhất trong quá trình gây mê phẫu thuật là
thời điểm 3 giờ 30 phút. Nghiên cứu của tác giả
Negishi và cộng sự(3,5,6,8,10) cho thấy thân nhiệt
giảm trong 2 giờ đầu sau gây mê phẫu thuật. Kết
quả này phù hợp với sinh lý trong gây mê.
Trong điều kiện bình thường, nhiệt lượng cơ thể
phân phối không bằng nhau, điều hòa nhiệt
bằng cách ổn định trương lực của thành mạch để
duy trì sự chênh lệch giữa nhiệt độ trung ương
và ngoại biên. Gây mê toàn diện làm giảm
ngưỡng điều hòa thân nhiệt bằng trương lực
thành mạch do mở các cầu nối tĩnh mạch và dãn
mạch. Kết quả dẫn đến hiện tượng tái phân bố
nhiệt lượng cơ thể từ trung tâm ra ngoại biên, vì
thế thân nhiệt giảm trong giờ đầu gây mê. Ngoài
ra, gây mê toàn diện cũng làm mất đi cơ chế sinh
nhiệt do run nên làm giảm nhiệt lượng cơ thể
đáng kể.
Trong quá trình gây mê phẫu thuật,thân
nhiệt bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu

tố. Nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh hạ
nhiệt độ xảy ra từ phút 45 và có xu hướng hạ
tiếp khi thời gian phẫu thuật kéo dài hơn 120
phút và đồng thuận với ý kiến của chúng tôi có
Suneerat Kongsayreepong và cộng sự(4), Minh
Thư(9). Cùng một đề tài, địa điểm nghiên cứu, tác
giả Minh Thư cũng đã nghiên cứu thêm yếu tố
nổi bật: thể tích dịch truyền ảnh hưởng đến thân
nhiệt bệnh nhân (khi yếu tố này tăng lên, thân
nhiệt bệnh nhân giảm xuống). Trong nghiên cứu
của chúng tôi do cỡ mẫu chưa đủ lớn nên chưa
bọc lộ ra được tính chất này.

Biện pháp phòng ngừa
Làm ấm dịch truyền, máu (máy sưởi ấm dịch
truyền).
Tăng nhiệt độ máy sưởi ấm không khí lên

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
430C.

Nghiên cứu Y học

4.

Các biện pháp khác…


KẾT LUẬN
Qua khảo sát về sự thay đổi thân nhiệt của
người bệnh trong gây mê phẫu thuật ổ bụng,
chúng tôi rút ra được nhận xét: Với điều kiện sử
dụng máy sưởi ấm không khí với nhiệt độ cố
định 380C trong gây mê phẫu thuật ổ bụng cho
thấy, thời gian gây mê phẫu thuật càng dài, thân
nhiệt bệnh nhân càng giảm. Vì vậy, nhân viên
gây mê cần theo dõi sát thân nhiệt bệnh nhân là
điều cần thiết. Cần phải áp dụng những biện
pháp, phương hướng đề phòng hạ thân nhiệt
một cách tích cực hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

Agrawal N, Sewell DA, Griswold ME, Frank SM (2003).
“Hypothermia During Head and Neck Surgergy”. The
Laryngoscope, 113. 1278 – 1282;
Andrzejowski J, Hoyle J, Eapen G, Turnbull D (2008). “Effect
of Prewarming on Post-induction Core Temperature and The
Incidence of Inadvertent Perioperative Hypothermia in
Patients Undergoing General Anaesthesia" British Journal of
Anaesthesia, 101 (5), pp. 627 – 631.
Frank SM, Shir Y, Raja SN, Fleisher LA, Beattie C (1994). “Core
Hypothermia and Skin-Surface Temperature Gradient:

Epidura Versus General Anesthesia and the Effects of Age”.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

Anesthesiology, 80 (3), pp. 623 – 634.
Kongsayreepong S, Chibundit C, Chadpaibool J (2003),
“Predictor of Core Hypothermia and the Surgical Intensive
Care Unit". Anaesthesia and Analgesia. Vol 96, pp 826 – 833.
Lenhardt R, Marker E, Goll V, Tschenich H, Kurz A, Sessler
DI, Nazt E, Lackner F (1997). “Mild Intraoperative
Hypothermia
Prolongs
Postanesthetic
Recovery”.
Anesthesiology, 87 (6), pp. 1318 -1323.
Negishi C, et al (2003). “Resistive – Heating and Forced –
Airwarming Are Comparably Effective”. Anesthesia And
Analgesia, 96 (6) pp. 1683 – 1687.
Nguyen NT, Fleming NW, Singh A, Lee SJ, Goldman CD and
Wolfe BM (2001). “Evaluation of Core temperature During

Laparoscopic And Open Gastric bypass”. Obeisity Surgery, 11
(5), pp. 570 -575.
Nguyễn Văn Chừng (2011), "Những thuốc thường dùng trong
Gây mê và Hồi", Trong Gây Mê Hồi Sức Căn Bản. Nhà xuất
bản Y Học, Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 259 – 289.
Nguyễn Văn Chừng, Phạm Thị Minh Thư, Lê Văn Long
(2011), "Khảo Sát Tỷ Lệ Hạ Thân Nhiệt Và Các Yếu Tố Nguy
Cơ Trong Gây Mê Phẫu Thuật Ổ Bụng", Y Học Thành Phố Hồ
Chí Minh, Tập 15 (1) tr. 327 – 331.
Phạm Đình Lựu (2004), “Thân Nhiệt” Sinh Lý Học Y Khoa,
tập 1, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Y Học,
chi nhánh TP. Hồ Chí Minh, tr 153 – 162.

Ngày nhận bài báo:

24/10/2013

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

29/11/2013

Ngày bài báo được đăng:

20/02/2014

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014

225




×