Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh lớp 10 trong dạy học các trích đoạn Truyện Kiều (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––––

ĐỖ THỊ THANH HOA

BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC THẨM MỸ
CHO HỌC SINH LỚP 10 TRONG DẠY HỌC
CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––––

ĐỖ THỊ THANH HOA

BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC THẨM MỸ
CHO HỌC SINH LỚP 10 TRONG DẠY HỌC
CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU
Ngành: Lí luận và PPDH bộ môn Văn - Tiếng Việt
Mã số: 8 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HUY QUÁT


THÁI NGUYÊN - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh
lớp 10 trong dạy học các trích đoạn Truyện Kiều là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi, không sao chép của ai. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Thanh Hoa

i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Huy Quát –
Người thầy khoa học, đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi trong thời
gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô, những người đã
giảng dạy, động viên, giúp đỡ, đóng góp ý kiến cho tôi trong quá trình học tập
cũng như khi tiến hành thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong khoa Đào tạo sau đại học,
tổ bộ môn phương pháp dạy học văn, khoa Ngữ văn và các phòng ban của
trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, chi bộ trường THPT Lương
phú, cùng các bạn bè đồng nghiệp, người thân trong gia đình đã tạo điều kiện
thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Thái nguyên, tháng 8 năm 2019
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Thanh Hoa

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
Danh mục các chữ viết tắt .................................................................................. iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 4
3. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 11
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 12
6. Giả thuyết khoa học ....................................................................................... 12
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 12
NỘI DUNG ....................................................................................................... 13
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN & THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .................... 13
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 13
1.1.1. Năng lực và năng lực thẩm mỹ ................................................................ 13
1.1.2. Dạy học tích cực - yếu tố cơ bản trong đổi mới PPDH văn theo
hướng phát triển năng lực và năng lực thẩm mỹ cho học sinh .......................... 22
1.1.3. Vài nét về đặc trưng thi pháp truyện Nôm - một vấn đề có liên quan
đến đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều .......................................................... 23
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 25
1.2.1. Thực trạng dạy học truyện thơ Nôm trong nhà trường THPT ................ 25

1.2.2. Tình hình bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh lớp 10, qua dạy
học các trích đoạn Truyện Kiều ......................................................................... 26
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 31
Chương 2: NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CÁC
TRÍCH ĐOẠN “TRAO DUYÊN” VÀ “CHÍ KHÍ ANH HÙNG” .....................32

iii


2.1. Tạo tâm thế tiếp nhận văn bản cho học sinh .............................................. 32
2.1.1. Trước giờ học .......................................................................................... 32
2.1.2. Đầu giờ học.............................................................................................. 36
2.2. Hình thành nhận thức thẩm mỹ cho học sinh qua các trích đoạn ............... 37
2.2.1. Trích đoạn “Trao duyên” ......................................................................... 37
2.2.2. Trích đoạn “Chí khí anh hùng” ............................................................... 44
2.3. Vận dụng linh hoạt một số phương pháp dạy học tích cực phù hợp với
việc dạy học các trích đoạn Truyện Kiều .......................................................... 49
2.3.1. Trích đoạn “Trao duyên” ......................................................................... 49
2.3.2. Trích đoạn “Chí khí anh hùng” ............................................................... 53
2.4. Tích hợp các văn bản có liên quan đến trích đoạn ..................................... 56
2.4.1. Trích đoạn “Trao duyên” ......................................................................... 56
2.4.2. Trích đoạn “Chí khí anh hùng” ............................................................... 58
2.5. Luyện tập vận dụng .................................................................................... 60
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 60
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ...................................................... 61
3.1. Kế hoạch dạy học thực nghiệm .................................................................. 61
3.1.1. Mục đích và yêu thực nghiệm ................................................................. 61
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm .......................................... 61
3.1.3. Nội dung và phương pháp tiến hành thực nghiệm .................................. 61

3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm ........................................................................... 62
3.2.1. Tổ chức dạy học thực nghiệm và dạy học đối chứng .............................. 62
3.2.2. Kết quả thực nghiệm................................................................................ 83
3.2.3. Kết luận chung về thực nghiệm ............................................................... 84
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 85
KẾT LUẬN....................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 89

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

THPT:

Trung học phổ thông

THCS:

Trung học cơ sở

PPDH:

Phương pháp dạy học

GV:

Giáo viên

HS:


Học sinh

SGK:

Sách giáo khoa

STK:

Sách tham khảo

TPVC:

Tác phẩm văn chương

KVK:

Kim Vân Kiều

VHVN:

Văn học Việt Nam

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ mục đích giáo dục và Nghị quyết của Đảng về đổi mới
giáo dục và đào tạo

Từ việc nhận thức rõ vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của quốc
gia, nhà nước Việt Nam đã có những quan điểm đúng đắn về đầu tư cho phát
triển giáo dục. Với tiêu chí “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, từ nhiều năm
qua, Luật giáo dục nước ta đều đề ra mục tiêu hướng đến việc giáo dục toàn
diện cho học sinh ở tất cả các cấp học. Từ Luật giáo dục năm 2005, nhà nước
đã đề ra Mục tiêu giáo dục là “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” cho đến văn bản hợp nhất Số 07/VBHN-VPQH
ra ngày 31/12/2015 của Quốc hội, những nội dung này trong mục tiêu giáo
dục vẫn được giữ nguyên. Tất cả các tiêu chí được Quốc hội thống nhất và
đưa vào luật giáo dục đều hướng đến đích cuối cùng là phát triển toàn diện
con người Việt Nam. Trong số những tiêu chí đề ra thì tiêu chí về việc bồi
dưỡng thẩm mỹ để hướng tới hình thành năng lực thẩm mỹ cho công dân là
một nội dung quan trọng. Điểu đó đã khẳng định sự cần thiết và tầm quan
trọng của việc giáo dục thẩm mỹ cho HS qua dạy học nói chung và dạy học
môn Ngữ văn nói riêng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của BCH Trung ương Đảng khóa XI về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam (4 - 11 - 2013) do
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký, ban hành đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp
để định hướng đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục đào tạo là “tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng
coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Hướng đổi mới này
1


được áp dụng ở tất cả các cấp học trong nhà trường, từ cấp học mầm non đến
THPT. Từ đó, Nghị quyết đề ra giải pháp: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng

tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ
áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức,
kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên
cứu khoa học”. Như vậy, quan điểm trên đã cho thấy sự đòi hỏi mạnh mẽ của
việc khắc phục lối dạy cũ, phát triển năng lực cho HS bằng những phương
pháp dạy học tích cực. Đây chính là tính cấp thiết của việc đổi mới GD - ĐT
ở nước ta hiện nay mà người GV phải thấm nhuần và vận dụng vào quá trình
dạy học của mình.
1.2. Lợi thế của môn Ngữ văn - nhất là các tác phẩm văn chương đối với
việc bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh
Ở bất cứ môn học nào, việc giáo dục thẩm mỹ cho HS cũng được chú
trọng thực hiện với những mức độ khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù của môn
học. Tuy nhiên, trong tất cả các môn học được giảng dạy trong nhà trường thì
môn Ngữ văn là có lợi thế hơn cả đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho HS. Bởi
môn học này gắn với nghệ thuật, văn chương, nó là một loại hình nghệ thuật
đặc biệt - nghệ thuật ngôn từ. Văn chương có khả năng tác động sâu sắc đến
nhận thức, tâm tư, tình cảm của con người, bởi thế đây là một trong số ít
những môn học có khả năng mang lại hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cao. Có thể
thấy, qua nhiều năm tiến hành cải cách giáo dục, nhà nước vẫn luôn con trọng
và hướng tới sự phát triển, hình thành năng lực cho HS ở mọi mặt, hướng tới
việc đào tạo cho các thế hệ người học có những phẩm chất của công dân toàn
cầu. Bên cạnh những năng lực thiết thực với thực tế hội nhập hiện nay thì việc
phát triển năng lực thẩm mỹ của HS luôn được chú trọng và đề cao.

2


1.3. Tình hình bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ trong dạy học tác phẩm văn

chương và trong các trích đoạn Truyện Kiều vẫn còn những hạn chế
Mặc dù nhà nước, ngành GD-ĐT đã có những văn bản, chỉ thị và
chương trình tập huấn về đổi mới PPDH, chú trọng phát triển các kĩ năng,
năng lực cho HS nhưng về cơ bản, GV vẫn chưa quan tâm đúng mức đến việc
phát triển năng lực cho HS, đặc biệt là năng lực thẩm mỹ. Cụ thể, trong
chương trình SGK THPT hiện hành có rất nhiều tác phẩm có tiềm năng hình
thành năng lực thẩm mỹ cho HS nhưng hiệu quả bồi dưỡng năng lực này qua
các tiết học còn nhiều hạn chế. Một trong số đó phải kể đến Truyện Kiều, tác
phẩm được xem là tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Không chỉ có giá trị
nội dung tư tưởng sâu sắc, tác phẩm này còn có khả năng thanh lọc tâm hồn,
giúp hình thành ở người học năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Rất nhiều hình tượng
nhân vật do đại thi hào Nguyễn Du xây dựng có những phẩm chất thẩm mỹ
cao đẹp như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải... Vì vậy, khi dạy những trích
đoạn Truyện Kiều, ngoài nội dung kiến thức, GV cần chú ý đến việc bồi
dưỡng năng lực thẩm mỹ cho HS. Tuy nhiên, vẻ đẹp của Thúy Kiều cũng như
những phẩm chất anh hùng của Từ Hải vẫn chưa được HS cảm thụ một cách
sâu sắc và chưa thực sự trở thành năng lực thẩm mỹ của bản thân để từ đó có
kỹ năng tiếp nhận những giá trị thẩm mỹ của những tác phẩm văn học khác.
Ngoài ra, giáo dục phổ thông so với các cấp học khác có những điểm riêng
biệt, bởi lẽ ở giai đoạn này HS đang trong quá trình hoàn thiện về mặt nhân
cách, việc phát triển năng lực thẩm mỹ ở HS cần được đặc biệt chú trọng để
hướng tới sự phát triển toàn diện. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài Bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh lớp 10 trong dạy học các trích
đoạn “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng” trong dạy học các trích đoạn
Truyện Kiều là xuất phát từ những lý do nêu trên.
Chúng tôi mong rằng, từ kết quả nhỏ bé khi thực hiện đề tài này sẽ rút
ra được những điều bổ ích cho bản thân và đồng nghiệp trong dạy học TPVC
nói chung và các trích đoạn Truyện Kiều nói riêng.
3



2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều
Ngay từ khi xuất hiện, Truyện Kiều lập tức trở thành một sự kiện quan
trọng trong đời sống văn học dân tộc. Những giá trị nghệ thuật đặc sắc và
những giá trị nhân sinh tiến bộ mà Nguyễn Du thể hiện trong tác phẩm của
mình đã trở thành những vùng đất đầy hấp dẫn để giới nghiên cứu và phê bình
văn học tìm tòi, khám phá. Cho đến nay, hơn hai thế kỉ đã trôi qua, nhưng
công việc nghiên cứu, phê bình tác phẩm này chưa bao giờ dừng lại. Có thể
nói, trong lịch sử văn học dân tộc, chưa có một tác phẩm nào lại có sức hấp
dẫn lớn đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học như vậy. Rất nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị đã khiến cho người đọc có cái nhìn sâu sắc, toàn
diện hơn về đỉnh cao của Truyện Kiều cũng như tác giả của nó. Ở những thời
đại khác nhau, các quan điểm nhìn nhận và đánh về giá trị tác phẩm cũng có
những điểm khác nhau.
Khác với Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, ngay khi ra đời với bản
chữ Nôm, Truyện Kiều đã phổ cập rộng rãi trong giới nho sĩ. Theo Trần Đình
Sử “Độc giả đầu tiên có thể là Vũ Trinh (anh rể Nguyễn Du), Nguyễn Lượng
(em ruột khác mẹ), đây là hai người “bình” Truyện Kiều đầu tiên. Phạm Quý
Thích tán thưởng, nhuận sắc và cho khắc in Kim Vân Kiều truyện. Nếu giai
thoại này có thật thì bản in Truyện Kiều của Phạm Quý Thích là rất sớm vì
ông mất năm 1825. Việc in ấn Truyện Kiều có thể đã được làm khi Nguyễn
Du còn sống. Mộng Liên Đường chủ nhân viết bài tựa năm 1820, rồi Minh
Mệnh lên ngôi từ năm 1820 đã cùng triều thần làm thơ vịnh Kiều và bài Tổng
thuyết của ông viết vào năm 1830. Phong thuyết chủ nhân Thập Thanh Thị lại
đề tựa Truyện Kiều năm Mậu Tý (1828). Nguyễn Văn Thắng lập Kim Vân
Kiều án năm 1830… Những sự việc đó làm náo động văn đàn Việt Nam nửa
đầu thế Kỉ XIX và kéo dài đến tận cuối thế kỉ. [1, tr.329 - 230]
Truyện Kiều khi mới xuất hiện, dưới cái nhìn khắt khe của con mắt nho
giáo đã chịu không ít những chỉ trích và phán xét, đặc biệt là đối với nhân vật

4


trung tâm của tác phẩm - Thúy Kiều. Nguyễn Công Trứ đã từng rất gay gắt
khi đánh giá về nhân vật này.
“Từ Mã Giám Sinh cho đến Từ Hải,
Tấm thân đem bán lại chốn thanh lâu.
Bây giờ Kiều còn hiếu vào đâu,
Mà bướm chán ong chường cho đến thế?

Mệnh bạc chẳng làm người tiết nghĩa,
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”
(Vịnh Thúy Kiều)
Theo quan điểm của những nhà nho “Trai thời trung hiếu làm đầu/Gái
thời tiết hạnh lấy câu trau mình” thì Thúy Kiều thực sự là một nhân vật tà
dâm không tuân thủ lễ giáo và giữ gìn tiết hạnh. Tuy nhiên, đó chỉ là những
đánh giá sai lầm, chưa toàn diện của số ít những gương mặt đại diện cho tư
tưởng đạo đức chính thống của thời đại. Bên cạnh đó, những người cùng thời
như Nguyễn Văn Thắng, Tự Đức hay Minh Mệnh, … thì lại hết lời ca ngợi
Thúy Kiều và tác phẩm của Nguyễn Du là biết giữ tròn đạo hiếu, biết tiết, biết
nghĩa. Đào Nguyên Phổ, Mộng Liên Đường chủ nhân, Phong Tuyết chủ nhân
nhận xét… “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm
ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như
đứt ruột” [15].
Những đánh giá, phát ngôn của những nhà nho thời phong kiến tuy đã
được khẳng định là những bình luận có giá trị và đáng lưu tâm, song những ý
kiến đó mới chỉ mang tính cảm hứng chứ chưa thực sự là sự phê bình khoa
học. Phải sang đến thế kỉ XX, những sản phẩm nghiên cứu, phê bình về
Truyện Kiều mới thực sự ra đời và có những nhận thức đúng đắn, toàn diện
hơn. Một trong những người có nhiều bài viết về Truyện Kiều nhất ở đầu giai

đoạn này phải kể đến Phạm Quỳnh, chủ bút của tờ Nam Phong tạp chí. Ông

5


cho rằng, phát triển ngôn ngữ dân tộc đến đỉnh cao, không tác phẩm nào khác,
chính là Truyện Kiều. Ông khẳng định: “Bao giờ trên bán đảo Đông Dương
này còn có người An Nam thì Truyện Kiều còn có người đọc. Truyện Kiều
còn có người đọc thì cái hồn cụ Tiên Điền còn phảng phất mãi mãi trong sông
núi đất Việt Nam, không bao giờ mất!” (Nam Phong, 12/1919, Thương Chi).
Và ở chỗ khác, Phạm Quỳnh viết “… Một nước không thể không có quốc
hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; Một nước không thể không có quốc túy,
Truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn,
Truyện Kiều là quốc hồn của ta.” [2, tr.470). Sau này, khi lí luận và phê bình
văn học ngày càng phát triển thì kéo theo đó là sự xuất hiện của nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị về Truyện Kiều với những tên tuổi nổi tiếng như
Hoài Thanh, Hoài Chân, Đào Duy Anh… Tuy nhiên, vì chưa được trang bị
một cách đầy đủ những kiến thức mỹ học Mác - Lênin nên ở sản phẩm phê
bình của những tác giả này vẫn bị chi phối, ảnh hưởng bởi chủ nghĩa duy tâm
“Cái đẹp của Đoạn trường tân thanh, cái chất thơ bàng bạc trong quyển truyện
cũng cần phải được cảm thấy một cách hồn nhiên, cứ phân tích, cứ giảng giải
nó sẽ tan biến đi. Đến đây phải im hơi, phải nhẹ nhàng mới hòng nhận thấy
cái đẹp khi dịu dàng thùy mỵ, khi tráng lệ huy hoàng.” [16]. Đi sâu hơn vào
Truyện Kiều với các hình tượng nhân vật, Đào Duy Anh đã có cái nhìn xác
đáng hơn về nhân vật Từ Hải, một trong những nhân vật lí tưởng mà Nguyễn
Du đã dụng công xây dựng. Hình tượng của nhân vật đã được nghiên cứu và
khai thác một cách chân xác hơn về mặt nội dung tư tưởng. “Từ Hải đã thực
hiện một cách gián tiếp ước mơ có lẽ tha thiết nhất trong đời Nguyễn Du, nếu
không làm sao cắt nghĩa được cái lòng kính trọng của một nhà nho với một
người khinh thường lễ giáo như Từ Hải. Bởi vì thế Nguyễn Du vẫn là một nhà

nho, vẫn không quên cái nghĩa lớn nhất của một nhà nho, cái nghĩa tôn
quân…” [3, tr.44].
Đến giữa thế kỉ XX khi đất nước giành được nền độc lập, mọi vấn đề
của xã hội đều được nhận thức lại và có những đánh giá mới, dựa trên cách
6


nhìn và cách cảm mới của con người thời đại mới. Trong việc kiểm định lại
giá trị cũ, người ta vẫn không thể bỏ qua Truyện Kiều, thậm chí một loạt các
sản phẩm nghiên cứu, đánh giá của các nhà nghiên cứu đã ra đời. Năm 1946,
ông Đặng Thai Mai tiếp tục đề cập đến Truyện Kiều trong bài viết “Cần phải
tu dưỡng nghệ thuật” được đăng trên tạp chí Tiên phong, số 8. Đến năm 1949,
ông Hoài Thanh cho xuất bản quyển “Quyền sống của con người trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du”. Cũng năm 1949, thiếu tướng Nguyễn Sơn nói
chuyện về Truyện Kiều ở trường Thiếu sinh quân Liên Khu Bốn và trường
Phổ thông cấp ba Đào Duy Từ ở Thanh Hóa. Năm 1951, ông Lê Duẩn trong
báo cáo “Phong trào cách mạng dân tộc và mặt trận dân tộc ở Nam Bộ” có
phê bình quyển nghiên cứu “Truyện Kiều” của ông Hoài Thanh, nhân đó có
nói đến Truyện Kiều. Năm 1952, ông Lê Trí Viễn xuất bản quyển “Việt Nam
văn học sử” (thời Lê mạt Nguyễn sơ) có một chương viết về Nguyễn Du và
“Truyện Kiều”. Trong số những sản phẩm nghiên cứu, đánh giá về Truyện
Kiều ở giai đoạn này thì có giá trị và đáng quan tâm hơn cả là quyển “Quyền
sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du” (Hoài Thanh)...
Sau hơn 100 năm tồn tại và đối mặt với nhiều quan điểm đánh giá khác
nhau, Truyện Kiều không những vẫn giữ nguyên những giá trị của mình mà
ngày càng tỏa ra những ánh hào quang lấp lánh khi nhận được sự quan tâm
đúng mức. Không chỉ là từ phía các nhà phê bình, lí luận văn học mà còn từ
phía Đảng và nhà nước. Trên báo Nhân dân, tờ báo được xem là cơ quan ngôn
luận chính thức của Trung ương Đảng, số ra ngày 25 tháng 9 năm 1955 đã
đăng một bài xã luận với tiêu đề “Bảo vệ giá trị chân chính của Truyện Kiều”.

Sau đó 10 năm, nhân sự kiện trọng đại, khi Hội đồng hòa bình thế giới ra
quyết định kỉ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, báo Nhân dân số ra ngày
25 tháng 11 năm 1965 đã cho đăng bài xã luận “Nguyễn Du, nhà thơ lớn của
dân tộc”. Qua sự kiện Nguyễn Du được công nhận là danh nhân văn hóa và
Truyện Kiều trở thành một trong những kiệt tác của văn học nhân loại thì vấn

7


đề đi tìm hiểu cái hay, cái đẹp để khẳng định sức sống của tác phẩm càng
được giới nghiên cứu và phê bình văn học quan tâm. 3254 câu thơ lục bát
trong Truyện Kiều chưa bao giờ là cũ kĩ đối với người yêu văn chương.
Sang đến thế kỉ XXI, dưới góc nhìn khoa học, các nhà nghiên cứu vẫn
tiếp tục tìm đến Truyện Kiều ở những vấn đề cũ nhưng dưới cái nhìn mới.
Trong cuốn Truyện Kiều - Những lời bình của NXB Thông tin - Hà Nội 2000
với 37 bài viết của những nhà lí luận và phê bình văn học nổi tiếng trong nước
và nước ngoài đã giúp người đọc có cái nhìn toàn diện hơn về kiệt tác của nền
văn học của dân tộc. Tiếp tục với cảm hứng khẳng định giá trị của Truyện
Kiều và tài năng của Nguyễn Du, sản phẩm nghiên cứu gần đây nhất như
cuốn sách “Từ Kim Vân Kiều đến Truyện Kiều so sánh và bình luận” của Vũ
Nho được NXB Hội nhà văn (2016) đã được lưu hành rộng rãi. Tác giả đã
tiếp tục khẳng định giá trị của Truyện kiều qua tài năng, sự sáng tạo không
ngừng nghỉ ở Nguyễn Du. Trong cuốn sách của mình, Vũ Nho đã làm sáng tỏ
và khẳng định tính đúng đắn của nhận định thứ hai về Truyện Kiều mà xưa
nay người ta vẫn không ngừng tranh cãi “Nguyễn Du tuy dựa vào KVK,
nhưng đã thay đổi nội dung, thay đổi kết cấu, thay đổi các nhân vật để tạo
nên tác phẩm TK, một kiệt tác của văn học Việt Nam và thế giới, đặc sắc cả
về nội dung và nghệ thuật, trở thành một tiểu thuyết bằng thơ hiếm có của
loài người”. Trong cuốn này, 11 nhân vật của Truyện Kiều như: Từ Hải, Thúy
Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Mã Giám Sinh, Tú bà, Sở Khanh, Hoạn Thư,

Hoạn bà, Hồ Tôn Hiến, Thúy Vân cùng với 11 đoạn trích, trong đó có Trao
duyên, Từ Hải từ biệt Thúy Kiều... Vũ Nho cũng so sánh Kim Vân Kiều của
Thanh Tâm Tài nhân với Truyện Kiều của Nguyễn Du để thấy rõ cái khác,
điểm sáng tạo của nhà thơ Việt Nam...
Ngoài những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học cao kể trên,
Truyện kiều cũng là đề tài nghiên cứu của rất nhiều khóa luận, luận văn, luận
án cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ ở trong và ngoài nước, như: Truyện Kiều - Một
8


hướng tiếp cận mới từ thi pháp (Ths. Nguyễn Thị Hoa - Trường ĐH Thăng
Long), Dạy Truyện Kiều từ góc độ khai thác ẩn dụ, hoán dụ (Đoàn Thị Thanh
Bình), “Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du” (Hoài
Thanh) nhìn từ lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều (Đỗ Thúy Phương), Truyện
Kiều dưới lăng kính phê bình xã hội (Cao Thị Mỹ Trang), Truyện Kiều của
Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại (Nguyễn Thị Ngọc Hà), Dạy đọc
hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các trích đoạn Truyện Kiều trong
chương trình Ngữ Văn 10 (Nguyễn Thị Bảo Thu), …
2.2. Những công trình, tài liệu liên quan đến việc bồi dưỡng năng lực thẩm
mỹ cho học sinh trong dạy học các trích đoạn Truyện Kiều
Trong nhiều năm trở lại đây, sau những mục tiêu cải cách giáo dục
được đề ra trong luật giáo dục, việc dạy học phát triển năng lực ở người học
đã được quan tâm và thực hiện một cách đồng bộ trên cả nước. Trong số các
năng lực được quan tâm phát triển, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đặc
biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng và phát triển năng lực thẩm mỹ của học sinh
trong dạy học môn Ngữ văn. Với một tác phẩm có nhiều giá trị thẩm mỹ như
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du thì việc vận dụng để phát triển năng lực thẩm
mỹ cho học sinh càng được chú ý quan tâm nhiều hơn. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu về việc phát triển năng lực thẩm mỹ cho học sinh thông qua việc
dạy học các trích đoạn “Truyện Kiều”

Trong bài viết “Truyên Kiều trong chương trình trung học Việt
Nam, nhìn từ dạy học đào tạo năng lực cho học sinh” của GS. Trần Đình Sử
cũng đã khẳng định tính ưu thế của việc bồi dưỡng năng lực cho học sinh
thông qua dạy. Trong bài viết, tác giả quan tâm đến việc phát triển năng lực
cho học sinh nhưng chỉ tập trung nhiều vào năng lực ngôn ngữ và hành văn.
Trong luận văn “Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào
các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình ngữ văn 10 năm 2006 – 2007”
của học viên Nguyễn Thị Bảo Thu chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy
học môn văn của trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh cũng đã có những
9


nghiên cứu cơ bản làm thế nào để phát triển năng lực cho học sinh trong đó có
năng lực thẩm mỹ thông dạy học đọc hiểu song còn chưa cụ thể và rõ ràng vì
còn tập trong vào nhiều năng lực khác.
Khi nói đến “Truyện Kiều” với việc giảng dạy tác phẩm trong nhà
trường, trước nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết có giá trị
của Trần Đăng Xuyền, Vũ Ngọc Phan, Trần Đình Sử, …
Trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2 chương trình chuẩn, trang 103
có Hướng dẫn dạy học trích đoạn “Trao duyên”, nhấn mạnh vào bi kịch của
Thúy Kiều qua sự lựa chọn khó khăn giữa chữ tình và chữ hiếu. Đối với trích
đoạn “Chí khí anh hùng” SGK Ngữ văn 10, tập 2, trang 112 yêu cầu nhấn
mạnh hình tượng người anh hùng Từ Hải với tư cách là một sáng tạo đặc sắc
của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng sáng tạo và nghệ thuật miêu tả.
Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2, nâng cao, Nxb Giáo dục, trang 137
hướng học sinh đến việc “cảm nhận được tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều
trong đêm trao duyên” để thấy được “tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong
việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật”. Ở trang 159, sách Ngữ văn 10 nâng
cao tiếp tục hướng dẫn dạy học đoạn trích “Chí khí anh hùng” để “hiểu được
chí khí anh hùng của Từ Hải dưới ngòi bút sáng tạo của Nguyễn Du và tài

năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả trong việc diễn tả chí khí, khát vọng tự do
của nhân vật”.
Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo dục hướng dẫn dạy học
các trích đoạn theo cách: Đặt vào ngữ cảnh chung của toàn tác phẩm để
truyền đạt đúng tinh thần đoạn trích. Đặc biệt là cần nắm được cảm hứng ngợi
ca, khẳng định của Nguyễn Du về vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm của Thúy Kiều
và lí tưởng anh hùng của Từ Hải.
Từ khi các trích đoạn của Truyện Kiều được đưa vào chương trình,
SGK Ngữ văn cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về phương
pháp giảng dạy các trích đoạn này. Có thể kể đến bài hướng dẫn dạy học đoạn
trích ở sách giáo viên và nhiều sách thiết kế bài học khác cùng dựa trên văn

10


bản ở Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo dục. Ví dụ: Sách thiết kế của Hoàng Hữu
Bội, Nguyễn Văn Đường…
Nhìn chung, những tài liệu nói trên đã đề cập đến những đặc điểm
nội dung và nghệ thuật cũng như việc tiếp cận văn bản theo hướng phát
triển năng lực thẩm mỹ cho HS. Song những hướng dẫn đó còn chưa thật
cụ thể, chi tiết. Đó cũng là lí do khiến chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài
luận văn nói trên của mình.
3. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài: Bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh lớp 10 trong dạy học
các trích đoạn Truyện Kiều nhằm đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả
bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh, cụ thể về: cái đẹp, cái bi (ở nhân
vật Thúy Kiều), cái hùng, cái đẹp (ở nhân vật Từ Hải) thông qua 2 trích đoạn
của Truyện Kiều là “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng”.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học vào dạy học đọc hiểu TPVC ở
trường THPT, các lý thuyết về: năng lực, năng lực thẩm mỹ; lí thuyết về dạy
học tích cực và các PPDH tích cực trong dạy học văn.
- Khảo sát thực tế dạy học hai trích đoạn nói trên ở một số trường
THPT trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên để thấy thực trạng về
năng lực thẩm mỹ của HS và khó khăn của GV khi bồi dưỡng năng lực này
cho HS.
- Đề xuất các biện pháp để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng năng lực thẩm
mỹ cho HS qua dạy học 2 trích đoạn “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng”
- Thực nghiệm sư phạm
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là hoạt động dạy - học của GV và HS lớp 10 THPT qua hai văn bản
“Trao duyên” và “Chí khí anh hùng”.
11


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động dạy học của GV và HS về
hai văn bản “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng” (SGK Ngữ văn 10, tập 2),
đồng thời tiến hành thực nghiệm sự phạm ở trường THPT Lương Phú và
trường THPT Phú Bình, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu tổng hợp các vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài
5.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Khảo sát chương trình, SGK, sách hướng dẫn GV, các STK
- Khảo sát thực tế dạy học ở một số trường THPT đã nêu.
- Thống kê, tổng hợp, so sánh các kết quả nghiên cứu.
6. Giả thuyết khoa học

Những biện pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho
HS về “cái đẹp”, “cái bi” và “cái hùng” thông qua dạy đọc hiểu đoạn trích
“Trao duyên” và “Chí khí anh hùng” do tác giả luận văn đề xuất, nếu có tính
khả thi và góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở lớp 10, thì luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo cho GV trong việc đổi mới PPDH Ngữ văn ở THPT
theo hướng bồi dưỡng, phát triển năng lực thẩm mỹ cho HS.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Những biện pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng năng lực thẩm
mỹ cho học sinh lớp 10 trong dạy học các trích đoạn Truyện Kiều.
Chương 3: Thực nghiệm sự phạm.

12


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN & THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Năng lực và năng lực thẩm mỹ
1.1.1.1. Năng lực
- Theo nghiên cứu của các nhà giáo dục thì mục tiêu giáo dục theo định
hướng năng lực cho người học trong những năm gần đây đã được quan tâm
nhiều hơn. Tại dự thảo đổi mới chương trình và SGK giáo dục phổ thông năm
2015, một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình giáo dục
theo định hướng phát triển năng lực. Giáo dục theo định hướng phát triển
năng lực hiện nay không còn là vấn đề của riêng một quốc nào mà đã trở
thành xu hướng giáo dục chung của quốc tế nhằm hướng tới mục tiêu phát

triển năng lực người học. Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn bởi định
hướng giáo dục này đã thực sự quan tâm đến kết quả đầu ra của hoạt động
đào tạo. Cũng bởi thế mà cách hiểu về năng lực cũng có rất nhiều quan điểm,
xu hướng khác nhau. Trong phần lớn các tài liệu của nước ngoài thì năng lực
được quy vào phạm trù khả năng của con người. Các nghiên cứu trong nước
thì lại quy năng lực vào những phạm trù khác. Trong tài liệu tập huấn Dạy
học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực
học sinh môn ngữ văn cấp THPT (2014) người ta đã đưa ra quan niệm năng
lực chính là “sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng
với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng hiệu quả một
yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định” [4,tr.49]. Như vậy
năng lực là việc vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố được cá nhân thực hiện nhằm
mục đích hoàn thành một loại công việc nào đó. Hay “Năng lực là khả năng
thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ,

13


vấn đề trong những tình huống thay đổi thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã
hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như
sự sẵn sàng hành động” [5, tr. 68]. Điều đó có nghĩa là năng lực được xếp vào
phạm trù hoạt động. Ngoài ra ở một số tài liệu khác thì năng lực lại được hiểu
là đặc điểm, phẩm chất hoặc thuộc tính cá nhân, như: “Năng lực là đặc điểm
của cá nhân thể hiện ở mức độ thông thạo - tức là có thể thực hiện một cách
thành thục và chắc chắn - một hay một số dạng hoạt động nào đó” [6, tr.41].
Ngoài ra, năng lực còn được hiểu là “phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con
người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”
[7, tr. 660-661]. Từ việc tổng hợp nghiên cứu, tìm hiểu nhiều cách hiểu khác
nhau về năng lực, trong cuốn “Phương pháp dạy học phát triển năng lực dạy
cho sinh trung học phổ thông” nhóm tác giả Huỳnh Văn Sơn, Nguyễn Kim

Hồng, Nguyễn Thị Diễm My đã định nghĩa về năng lực như sau: “Năng lực là
sự tổ hợp những thuộc tính tâm lí độc đáo của cá thể nhằm đáp ứng những
yêu cầu của một hoạt động nhất định và đảm bảo cho những hoạt động đó đạt
được kết quả cao” [9, tr. 17].
- Để hình thành và phát triển năng lực cho người học thì việc xác định
các thành phần và cấu trúc của năng lực là rất quan trọng. Tuy nhiên việc tiếp
cận cấu trúc của năng lực cũng có nhiều hướng khác nhau. Có thể tiếp cận năng
lực theo nguồn lực hợp thành hoặc theo năng lực bộ phận với bốn năng lực thành
phần là: năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực
cá thể. Cách tiếp cận theo cấu trúc các thành phần của năng lực thường được
quan tâm nhiều hơn. Bốn thành phần năng lực ấy được hiểu như sau:
+ Năng lực chuyên môn (Professional competency): “Là năng lực thực
hiện các nhiệm vụ chuyên môn cũng như khả năng đánh giá kết quả chuyên
môn một cách độc lập, có phương pháp và chính xác về mặt chuyên môn. Nó
được tiếp nhận qua việc học nội dung chuyên môn và chủ yếu gắn với khả
năng nhận thức và tâm lí vận dụng”.

14


+ Năng lực phương pháp (Methodical competency): “Là khả năng đối
với những hành động có kế hoạch, định hướng mục đích trong việc giải quyết
các nhiệm vụ và vấn đề. Năng lực phương pháp bao gồm năng lực phương
pháp chung và phương pháp chuyên môn. Trung tâm của phương pháp nhận
thức là những khả năng tiếp nhận, xử lí, đánh giá, truyền thụ và trình bày tri
thức. Nó được tiếp nhận qua việc học phương pháp luận - giải quyết vấn đề.”
+ Năng lực xã hội (Social competency): “Là khả năng đạt được mục
đích trong những tình huống giao tiếp ứng xử xã hội cũng như trong những
nhiệm vụ khác nhau trong sự phối hợp chặt chẽ với các thành viên khác. Nó
được tiếp nhận qua việc học giao tiếp”.

+ Năng lực cá thể (Induvidual competency): “Là khả năng xác định
đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như giới hạn của cá nhân, phát
triển năng khiếu, xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cá nhân, những
quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các thái độ và hành vi
ứng xử. Nó được tiếp nhận qua việc học cảm xúc - đạo đức và liên quan đến
tư duy và hành động tự chịu trách nhiệm.” [4, tr. 18-19].
- Việc tìm hiểu cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy, giáo dục định
hướng phát triển năng lực không chỉ nhằm thực hiện mục tiêu phát triển năng
lực chuyên môn cho mỗi cá thể mà còn hướng tới phát triển các năng lực
phương pháp, xã hội và cá thể cho con người. Những năng lực này có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên tính hoàn chỉnh cho việc phát triển năng lực
ở mỗi cá thể.
- So với chương trình dạy học theo định hướng nội dung thì dạy học
theo định hướng năng lực có tính chất ưu việt hơn, bởi “Giáo dục định hướng
năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của dạy học, thực hiện mục tiêu
phát triển toàn diện các phẩm chất, nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng
tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng
lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Giáo dục định
15


hướng năng lực nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá
trình nhận thức” [5, tr. 64]. Khi dạy học theo định hướng phát triển năng lực,
các nhà giáo dục cũng cần chú ý đến những đặc trưng cơ bản của chương
trình định hướng năng lực về các phương diện:
+ Về mục tiêu: kết quả học tập của người học phải được mô tả một cách
chi tiết, cụ thể. Kết quả học tập ấy có thể quan sát được, có thể đánh giá được và
phải thể hiện được các mức độ tiến bộ của người học một cách liên tục.
+ Về nội dung: Chương trình dạy học phải lựa chọn được những nội
dung phù hợp nhằm đạt được những yêu cầu về năng lực đầu ra đã quy định

và gắn với tình huống thực hiễn. Chương trình dạy học chỉ quy định những
nội dung chính chứ không quy định chi tiết.
+ Về Phương pháp dạy học: GV chỉ giữ vai trò là người tổ chức hoạt
động học tập và hỗ trợ người học trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Người
học phải chủ động, tích cực lĩnh hội các tri thức dưới sự hỗ trợ của GV. Trong
quá trình tổ chức hoạt động học tập, GV phải chú trọng đến việc phát triển
các khả năng: giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác, … cho người học.
+ Về đánh giá: Xây dựng tiêu chí đánh giá dựa trên những yêu cầu về
năng lực đầu ra, chú ý đến sự tiến bộ của người học trong quá trình học tập,
đặc biệt, tập trung vào khả năng vận dụng tri thức đã lĩnh hội vào việc giải
quyết các tình huống thực tiễn.
Vì không quy định những nội dung dạy học chi tiết như dạy học định
hướng nội dung nên việc dạy học theo định hướng năng lực sẽ rất chú ý đến
kết quả giáo dục đầu ra theo mong muốn của quá trình đào tạo, từ đó đề xuất
những định hướng chung cho việc lựa chọn nội dung đào tạo, phương pháp
đào tạo, các cách tổ chức và đánh giá kết quả dạy học để hướng tới mục tiêu
cuối cùng là đạt được kết quả đào tạo đầu ra như mong muốn. Trong số các
năng lực muốn hình thành ở người học sau quá trình đào tạo thì năng lực vận
dụng là loại năng lực được chú trọng hơn cả. Để có được kết quả đầu ra như

16


mong muốn, để người học có khả năng vận dụng các tri thức đã học vào giải
quyết những vấn đề thực tiễn thì quá trình thực hiện hoạt động giáo dục của
chương trình đào tạo cũng là một vấn đề cần phải được lưu tâm.
1.1.1.2. Năng lực thẩm mỹ
Khác với những môn học khác, trong chương trình giáo dục phổ thông
hiện hành, môn Ngữ văn là một môn học đặc thù không chỉ thực hiện chức
năng giáo dục, chức năng nhận thức mà còn có một chức năng cơ bản rất

quan trọng đó là chức năng thẩm mỹ. Bởi mỗi một TPVC vốn là một chỉnh
thể thẩm mỹ, cho nên ở môn Ngữ văn khả năng bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ
ở người học thường được đánh giá cao hơn ở các môn học khác. Cái đích cuối
cùng của môn Ngữ văn là hướng người học đến những giá trị đích thực của
cuộc sống là Chân - Thiện - Mỹ. Như vậy, có thể thấy những đòi hỏi về cái
đẹp là nhu cầu rất cao trong tiến trình phát triển của loài người. Nhu cầu này
luôn gắn liền với quá trình phát triển thể chất và tinh thần ở con người để đem
đến sự phát triển toàn diện ở mỗi cá thể. Việc tiếp nhận các văn bản văn học
sẽ khiến cho HS trở thành những chủ thể thẩm mỹ ở các hình thức khác nhau
thông qua các cấp độ của năng lực thẩm mỹ.
Năng lực thẩm mỹ bao gồm những cấp độ khác nhau: nhận biết - cảm
thụ các yếu tố thẩm mỹ; phân tích đánh giá các yếu tố thẩm mỹ, tái hiện và tái
tạo - biểu hiện các yếu tố thẩm mỹ, vận dụng và sáng tạo thẩm mỹ. Để hiểu
được một cách toàn diện và đúng đắn nhất về việc bồi dưỡng và phát triển
năng lực ở người học cần phải có những hiểu biết cụ thể về các cấp độ xuất
hiện trong năng lực thẩm mỹ
a. Cấp độ đầu tiên: Nhận biết các yếu tố thẩm mỹ (năng lực cảm thụ
thẩm mỹ/năng lực thưởng thức văn học). Qua việc nhận thức hiện thực cuộc
sống được tái hiện trong các TPVC, thông qua lăng kính của tác giả, mỗi
người học sẽ có những rung động trước cái đẹp cái thiện, căm ghét cái xấu,
cái ác. Những rung động đó sẽ có tác dụng định hướng suy nghĩ cũng như
17


hành vi của bản thân theo cái đẹp, cái thiện cũng như sự căm ghét và hành
động lên án những điều xấu xa tàn ác. Thông qua việc tiếp cận với các văn
bản văn học, người học có thể thâm nhập sâu hơn vào thế giới thẩm mỹ, nhất
là thế giới nghệ thuật để có thể phát hiện ra những điều tốt đẹp cần được
hưởng ứng, cổ vũ và những cái xấu cần được lên án và xóa bỏ. Như vậy, trên
thực tế thì năng lực nhận biết các yếu tố thẩm mỹ thường được dùng với hàm

nghĩa nói về các “chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân”. Năng lực cảm thụ thẩm
mỹ thường có những biểu hiện cụ thể ở một số phương diện như: “Nhận thức
được các cảm xúc của bản thân; Làm chủ được các cảm xúc của bản thân;
Nhận biết các xúc cảm của người khác và những biểu hiện của cuộc sống từ
phương diện thẩm mỹ; Làm chủ những liên hệ, những giá trị của con người
và cuộc sống” [4, tr. 56-57]. Các yếu tố thẩm mỹ mà người học có thể nhận
biết được thông qua việc tiếp xúc với các TPVC là những yếu tố thuộc phạm
trù thẩm mỹ như cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài hay cái hùng.
- Cái đẹp được xem là phạm trù trung tâm của mỹ học. Cái đẹp trong
nghệ thuật được thể hiện tập trung nhất trong quan hệ thẩm mỹ giữa con
người với hiện thực cuộc sống. Cái đẹp trong văn chương được đánh giá rất
cao: “Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị
ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem được, miệng tầm thường mà
nếm được” [8, tr. 29]. Có điều đặc biệt là cái đẹp trong văn chương nghệ thuật
“được bộc lộ trước hết ở cái đẹp của hiện thực được phản ánh: có thể đó là cái
đẹp của phong cảnh thiên nhiên, cái đẹp của con người, cái đẹp của những
hoạt động, cái đẹp của những tư tưởng, những tình cảm” [10, tr. 156]. Có thể
khẳng định văn chương không phải lúc nào cũng chỉ phản ánh cái đẹp, cái
thiện, nó còn phản ánh cả cái xấu cái ác, tuy nhiên mục đích cuối cùng của
loại hình nghệ thuật đặc biệt này cũng vẫn là việc đề cao cái đẹp, khơi gợi
những cảm xúc nhân văn ở người đọc.

18


×