Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kinh nghiệm ban đầu với nội soi tiêu hóa trên qua ngả mũi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.32 KB, 5 trang )

a người lớn tuổi,
với việc sử dụng ống soi nhỏ đi qua ngả mũi,
ống soi sẽ ít kích thích vào lưỡi gà, vòm khẩu
cái, đáy lưỡi và làm giảm phản xạ nôn ói(12,1). Các
nghiên cứu khác còn cho thấy rằng ở người lớn
tuổi trong quá trình nội soi ngả miệng thì SpO2
giảm nhiều trong khi soi ngả mũi thì SpO2
không thay đổi(12,6). Thay đổi về huyết áp, nhịp
tim, độ bão hòa oxy của nội soi ngả mũi thấp
hơn so với nội soi truyền thống qua ngả miệng,
làm cho thủ thuật an toàn hơn.

14

Chỉ định nội soi ngả mũi
Chỉ định nội soi ngả mũi cũng tương tự với
nội soi đường miệng. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, vì mới áp dụng lần đầu nên chúng tôi
chỉ chọn lựa những trường hợp nội soi chẩn
đoán, không có tiền sử phẫu thuật vùng mũi
hầu, polyp mũi cũng như chưa áp dụng nếu có
chỉ định nội soi can thiệp điều trị. Khi so sánh
với nội soi quy ước là tiêu chuẩn vàng trong
chần đoán bệnh lý đường tiêu hóa trên, ống soi
nhỏ qua ngả mũi cũng rất tốt trong chẩn đoán
(độ nhạy 89-100%, độ đặc hiệu 97-100%), thậm
chí còn tốt hơn trong việc đánh giá tĩnh mạch
thực quản dãn và thực quản Barrett, rất tốt để
tầm soát các đối tượng nguy cơ cần nội soi
nhiều lần lặp lại(8). Các nghiên cứu khác cũng
ghi nhận rằng, ống soi nhỏ ít kích thích làm tăng


khả năng chịu đựng của người bệnh với thủ
thuật, cùng với sự phát triển các dụng cụ nhỏ
qua kênh sinh thiết thì ứng dụng trong điều trị
của nội soi qua ngả mũi ngày càng được mở
rộng. Hai chỉ định can thiệp chủ yếu là đặt ống
nuôi ăn và mở dạ dày nuôi ăn. Các ứng dụng
khác đang còn bàn cãi là soi đường mật và dẫn
lưu đường mật(1,8).

Bàn về kỹ thuật
Tất cả bác sĩ chúng tôi đều thực hiện dễ
dàng kỹ thuật nội soi ngả mũi trong lần đầu tiên
sau khi được huấn luyện. Đánh giá hình ảnh
quan sát được tương đối tốt dù quang trường có
nhỏ hơn so với thông thường, khả năng điều
hướng và tiếp cận sang thương cũng dễ dàng.
Thời gian thực hiện thủ thuật từ 10 đến 15 phút,
kéo dài chủ yếu ở khâu chuẩn bị tê mũi cho thật
tốt trước khi soi. Tuy vậy nội soi mũi có thể là
kỹ thuật khó nếu không có huấn luyện, kể cả
nhà nội soi có kinh nghiệm. Những nghiên cứu
gần đây về đường cong huấn luyện nội soi ngả
mũi cho thấy các BS nội soi đã rành về nội soi
quy ước có thể thực hiện được nội soi ngả mũi
ngay trong lần đầu tiên khi có chỉ dẫn thêm.
Nghiên cứu ở Hàn Quốc cho thấy đường cong
huấn luyện cho BS đã biết nội soi là 20 ca(6).

Chuyên Đề Ngoại Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Nội soi ngả mũi không phải lúc nào cũng
thành công. Tỉ lệ nội soi thành công của chúng
tôi là 92,7% và lí do thất bại hầu hết là hẹp khe
mũi. Ống soi đi qua mũi có thể đi qua ngách
mũi giữa hay ngách mũi dưới. Có thể ngách
mũi của người Việt Nam còn hẹp so với ống soi
hay việc chuẩn bị tê mũi chưa tốt nên thất bại.
Đường kính của ống soi là một trong các yếu tố
quyết định thành công, ống soi < 5,3mm sẽ
thành công 90-100% so với các ống soi lớn
hơn(1,8,2), một nghiên cứu đa trung tâm trên 1000
BN cho thấy hai yếu tố dễ thất bại là giới nữ và
tuổi < 35 tuổi, có lẽ ở các đối tượng này có ngách
mũi hẹp hơn đường kính ống soi, khi không
đưa ống qua được cả hai khe mũi thì có thể
chuyển sang soi đường miệng với ống soi này
luôn, tuy nhiên mức độ khó chịu của BN nhiều
hơn so với đường mũi(8,2).

Khả năng chẩn đoán ung thư tiêu hóa
Thực tế với ống soi mũi, chất lượng hình
ảnh quan sát bề mặt niêm mạc không bị ảnh
hưởng nhiều nhưng mẫu sinh thiết thì nhỏ hơn
(kềm sinh thiết qua kênh 2 mm so với thông
thường là 2,8 mm).Tỉ lệ phát hiện ung thư của
chúng tôi là 0,78% (2/257). Có thể kềm sinh thiết
nhỏ nên lấy mẫu không đủ độ sâu đến lớp cơ
niêm so với mẫu sinh thiết qua ống soi tiêu

chuẩn. Tuy vậy điều này còn phụ thuộc vào
kinh nghiệm của BS nội soi chứ không phải hình
ảnh ống soi thu được, cho dù có được hỗ trợ bởi
NBI…do vậy, nội soi ngả mũi là một phương
tiện tầm soát tốt ở những bệnh nhân sợ soi ngả
miệng. Hiện nay, còn quá ít các nghiên cứu về
chẩn đoán ung thư thực quản dạ dày bằng ống
soi nhỏ qua ngả mũi, tỉ lệ phát hiện ung thư
khoảng 0,5-1,5%(5,3). Nghiên cứu ở Nhật báo cáo
cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ phát hiện
ung thư dạ dày khi soi ngả mũi (0,77%) so với
ngả miệng (0,79%)(3). Nhìn chung soi qua mũi
với ống soi nhỏ có thể đánh giá tương đối chính
xác trong đa số các trường hợp thông thường,
cần có nghiên cứu thêm so sánh với nội soi tiêu
chuẩn trong các trường hợp khó như ung thư
nhỏ, sớm (thuộc diện tầm soát) hay mẫu sinh
thiết ở các vị trí khó như vùng bờ cong nhỏ.

Ngoại Tổng Quát

Nghiên cứu Y học

Mức độ hài lòng
Tỉ lệ bệnh nhân hài lòng khi nội soi ngả
mũi là khá cao, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân đã
từng được soi ngả miệng thì khi chuyển sang
soi ngả mũi, mức độ hài lòng, chấp nhận là
100%, và đồng ý sẽ soi ngả mũi tiếp tục trong
tương lai khi có chỉ định. Chỉ có một vài cảm

giác khó chịu như đau mũi, đau họng hay đau
bụng khi đang soi do ống soi cọ xát và hết
hoàn toàn sau khi rút ống.
Chúng tôi cảm giác rằng, không cần cục
ngậm miệng cũng làm cho bệnh nhân dễ chịu,
dễ nuốt, dễ nói chuyện trao đổi với bác sĩ nội soi
trong khi soi.
Các nghiên cứu có nhóm đối chứng cũng
cho thấy rõ mức độ hài lòng của bệnh nhân ở
nhóm soi ngả mũi luôn cao hơn so với nhóm soi
ngả miệng bằng ống soi thường hay ống soi
nhỏ(11).
Trong nghiên cứu này, ở nhóm bệnh nhân
chưa từng nội soi, trải nghiệm nội soi ngả mũi là
cảm giác mới mẻ do đó có ít nhiều lo âu nên tỉ lệ
hài lòng chưa cao, nhất là khi vẫn còn cảm giác
đau mũi hay buồn nôn.

Tai biến biến chứng
Chảy máu mũi là biến chứng hay gặp khi
nội soi qua ngả mũi, nhưng thường tự cầm
trong hầu hết các trường hợp. Đường kính ống
soi càng nhỏ, tỉ lệ chảy máu càng thấp(8), thông
thường tỉ lệ này khoảng 1,2% đến 4,1%(6,8).
Đau mũi cũng thường gặp trong quá trình
soi nhưng thường hết sau khi rút ống, các
nghiên cứu khác còn ghi nhận các biến chứng
hiếm gặp khác như: viêm xoang, nhức đầu,
chóng mặt.


KẾT LUẬN
Dù có vài giới hạn về việc chuẩn bị bệnh
nhân, mẫu sinh thiết nhỏ nhưng nội soi tiêu hóa
trên qua ngả mũi là một phương pháp an toàn,
có tỉ lệ bệnh nhân chấp nhận cao, ít tai biến biến
chứng. Kỹ thuật này hứa hẹn là một lựa chọn
mới mang lại sự dễ chịu hơn cho những đối
tượng cần tầm soát bệnh đường tiêu hóa trên.

15


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

TÀI LIỆU THAM KHẢO

7.

1.

8.

2.
3.

4.

5.


6.

16

Akihiro M et al (2006). Cardiovascular tolerance in unsedated
upper gastrointestinal endoscopy: prospective randomized
comparison between transnasal and conventional oral
procedures. Digestive Endoscopy, 18(4): 282–287.
Cho S (2008). Unsedated transnasal endoscopy: A Canadian
experience in daily practice. Can J Gastroenterol, 22(3): 243-246.
Inui Y, Ohwada S, Kondou Y, Sohara N, Yoshikawa M (2008).
Status and issues of mass screening for gastric cancer applying
transnasal endoscopy: from the standpoint of screening for
residents. Stomach Intest, 43: 1230-1240.
Karawi MAA, et al (2001). Comparision between per-oral and
ultrathin transnasal endoscopy in unsedated patients. Saudi J
Gastroenterol, 7: 26-29.
Kawai T et al (2008). Diagnosis of Esophageal and Gastric
Carcinoma
Using
Transnasal
Ultrathin
Esophagogastroduodenoscopy.
New
Challenges
in
Gastrointestinal Endoscopy 79-86.
Lee SY and Kawai T (2008) Transnasal Route: New Approach to
Endoscopy Gut and Liver, 2(3): 155-165.


9.

10.

11.

12.

Leisser A, Delpre G, Kadish U (1990). Through the nose with the
gastroscope. Gastrointest Endosc, 36: 77.
Maffei
M,
Dumonceau
JM
(2008).
Transnasal
esogastroduodenoscopy (EGD): comparison with conventional
EGD and new applications. Swiss Med Weekly, 138(45–46): 658–
664.
Mitchell RG, Kerr RM, Ott DJ, Chen M (1992). Transnasal
endoscopic technique for feeding tube placement. Gastrointest
Endosc, 38: 596-7.
Shaker
R.
(1994).
Unsedated
trans-nasal
pharyngoesophagogastroduodenoscopy (T-EGD): technique.
Gastrointest Endosc, 40(3): 346-8.

Trevisani L et al (2007). Unsedated ultrathin upper endoscopy is
better than conventional endoscopy in routine outpatient
gastroenterology practice: A randomized trial. World J
Gastroenterol, 13(6): 906-911.
Yuki M et al (2009). Unsedated transnasal small-caliber
esophagogastroduodenoscopy in elderly and bedridden patients.
World J Gastroenterol, 15(44): 5586-5591.

Chuyên Đề Ngoại Khoa



×